✨Không chiến tại Kuban

Không chiến tại Kuban

Không chiến tại Kuban là chiến dịch hoạt động quân sự trên không lớn nhất trong chuỗi chiến dịch ở Kavkaz (1943) nhằm tranh quyền khống chế không phận và là một trong các cuộc đụng độ bằng không quân lớn nhất giữa quân đội Liên Xô và quân đội Đức Quốc xã trong Chiến tranh Xô-Đức. Tại mặt trận phía Đông, nó chỉ thua kém các trận không chiến tại Kursk (1943), Baltic (1944) và Berlin (1945) về quy mô nhưng lại là chiến dịch không quân kéo dài nhất về thời gian. Trong thời lượng chỉ kém một tuần đầy hai tháng, hai bên đã tổ chức hàng trăm trận không chiến lớn nhỏ với tổng cộng từ 6.500 đến hơn 7.500 phi vụ mỗi bên. Trung bình một ngày có từ 40 đến 50 trận không chiến lớn nhỏ, trung bình mỗi trận có từ 30 đến 50 máy bay của mỗi bên tham gia.

Các hoạt động quân sự trên không tại Kuban diễn ra trên ba vùng trời chủ yếu, khu Krasnodar, khu vực Novorossiysk và bán đảo Taman, nơi diễn ra các trận đánh ác liệt giữa Tập đoàn quân 17 (Đức) và bốn tập đoàn quân Liên Xô. Chiến dịch gồm hai giai đoạn với các hoạt động trọng điểm sau đây: *Giai đoạn 1: từ 15 tháng 4 đến 5 tháng 5.

Cùng với các trận không chiến ở Stalingrad (cuối 1942, đầu 1943) và Kursk (tháng 6 đến đầu tháng 7 năm 1943), các trận không chiến ở Kuban đã làm thay đổi cán cân lực lượng và quyền khống chế không phận. Nếu như trong các hoạt động tiến công trên bộ đầu năm 1943, quyền chủ động đã chuyển sang tay quân đội Liên Xô thì tại mặt trận trên cao, không quân Đức Quốc xã cũng dần dần đánh mất quyền chủ động khống chế bầu trời và dần dần phải lui về thế phòng ngự để bảo toàn lực lượng của mình và sự yểm hộ cho các lực lượng mặt đất cũng suy yếu theo. Trong khi đó, mục tiêu cuối cùng của không quân Liên Xô giành quyền khống chế bầu trời không phải là để đọ cánh với không quân tiêm kích Đức Quốc xã mà là để yểm hộ có hiệu quả cao nhất cho các lực lượng trên mặt đất trong các chiến dịch tấn công và phòng ngự-phản công chiến lược.

Bối cảnh

Sau cuộc phản công chiến lược từ tháng 1 đến tháng 3 năm 1943, quân đội Liên Xô đã giành lại hầu hết đất đai ở Bắc Kavkaz, bao gồm cả thành phố Rostov và vùng hạ lưu sông Đông. Tại mặt trận phía Nam Ukraina và Bắc Kavkaz, Tập đoàn quân không quân 4 (Đức) mất các sân bay quan trọng tại Maikop, Krasnodar, Armavir, Tikhoretsk, Rostov, Novocherkassk và phải chuyển căn cứ chính về Zaporozhye cùng các căn cứ và sân bay phía trước tại Mariupol, Stalino, Sevastopol, Kerch. Căn cứ không quân duy nhất còn lại tại Bắc Kavkaz là Temryuk nằm ngay sát "Phòng tuyến xanh" trên bán đảo Taman. Tập đoàn quân không quân 4 (Đức) bị thiệt hại nặng sau trận Stalingrad đã được bù đắp bằng vài trăm máy bay mới được sản xuất, trong đó có loại máy bay tiêm kích cải tiến đời mới nhất Me-109G2, Me-109G4 và Fw-190 được đưa thẳng từ các nhà máy sản xuất máy bay ở Đức ra mặt trận phía Đông. Những loại máy bay này chứa được nhiều dầu hơn và có tầm bay xa hơn. Không quân Liên Xô cũng cho ra đời loại tiêm kích cải tiến Yak-9D và Yak-9K có tầm bay xa hơn hẳn loại Yak-1. Nhiều máy bay cường kích kiểu mới IL-2 và máy bay ném bom bổ nhào Pe-2 cũng được đưa ra mặt trận. Các máy bay tiên kích hạng nhẹ Yak-3 cũng xuất hiện trong các trận không chiến cùng với các máy bay tiêm kích P-39 Aircobra của hãng Bell do Hoa Kỳ viện trợ cho Liên Xô. Phi công Liên Xô kỳ cựu A. I. Pokryshkin, người đã từng sử dụng loại máy bay này đang giá về nó khá cao. Theo ông: "Máy bay kiểu "Aircobra" (P-39) đẹp và cơ động, lấy độ cao dễ dàng".

Vùng đất duy nhất mà quân đội Đức Quốc xã còn trụ lại được ở Bắc Kavkaz là bán đảo Taman với địa hình đồng lầy ở phía Bắc và đồi núi thấp ở phía Nam. Trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 3 năm 1943, do thời tiết xấu, không quân hai bên hoạt động rất hạn chế do bão tuyết, mây mù và sân bay thường bị tuyết phủ và có ngày là một lớp băng mỏng, rất nguy hiểm khi cất cánh và hạ cánh. Cuối tháng 3, mùa tuyết tan đến và các sân bay chìm ngập trong bùn, phải mất hàng tuần để dọn dẹp. Những ngày đầu tháng 4 năm 1943, tiết trời đã khô ráo hơn và hoạt động của không quân bắt đầu tăng lên. Để ngăn chặn các trận tấn công của Tập đoàn quân 56 (Liên Xô) vào các cụm cứ điểm Kievskoye, Moldavanskaya và Krymsk, Tập đoàn quân không quân 4 (Đức) đã có số lần xuất kích vượt trội so với Tập đoàn quân không quân 4 (Liên Xô) để yểm hộ cho Tập đoàn quân 17 (Đức) giữ "Phòng tuyến xanh". Ngày 9 tháng 4, không quân Đức Quốc xã xuất kích 750 phi vụ, không quân Liên Xô 307 phi vụ. Ngày 12 tháng 4, Đức Quốc xã: 862 phi vụ, Liên Xô: 300 phi vụ. Ngày 15 tháng 4, Đức Quốc xã: 1.560 phi vụ, Liên Xô: 447 phi vụ.

Trước sự khống chế không phận của không quân Đức Quốc xã, cuộc tấn công của Phương diện quân Bắc Kavkaz vào "Phòng tuyến xanh" đã bị nhưng tổn thất nặng và không đạt được các mục tiêu đã hoạch định. Tướng I. E. Petrov, tư lệnh Phương diện quân yêu cầu tướng M. F. Naumenko, chỉ huy các lực lượng không quân tiêm kích của Tập đoàn quân không quân 5 có biện pháp đối phó. Tuy nhiên, điều này không dễ dàng vì đối diện với Tập đoàn quân không quân 4 phối thuộc phương diện quân Bắc Kavkaz và Tập đoàn quân không quân 5 (đơn vị không quân chiến lược ném bom tầm xa trực thuộc Đại bản doanh) là cả một Tập đoàn quân không quân mạnh của quân đội Đức Quốc xã. Trong đó có các phi đoàn tiêm kích át chủ bài như: Phi đoàn 3 "Udet", Phi đoàn 51 "Mölders" và Phi đoàn 54 "Grünherz" từng gây nhiều khó khăn cho Không quân Hoàng gia Anh trong các trận đánh ở lục địa châu Âu và không chiến ở nước Anh cũng như không quân Liên Xô trong Chiến dịch Barbarossa. Mặc dù một số lượng không nhỏ các phi công "Át" của Đức đã tổn thất trong Trận Stalingrad nhưng các phi đoàn này vẫn còn phát huy sức mạnh nhờ những phi công thiện chiến tiếp tục được điều từ nước Đức sang.

Các nhà quân sự Xô Viết cho rằng, không quân Đức Quốc xã muốn yểm hộ cho Tập đoàn quân 17 duy trì một căn cứ bàn đạp nguy hiểm để uy hiếp từ phía sau lưng các phương diện quân Liên Xô đang tấn công theo hướng đến sông Dniepr nhằm thu hồi lãnh thổ Ukraina.

Binh lực và kế hoạch

Thời gian đầu Chiến dịch Kavkaz, Không quân Liên Xô có 2 tập đoàn quân không quân chiến đấu tại Bắc Kavkaz. Tập đoàn không quân 4 phối hợp với Không quân của Hạm đội Biển Đen chịu trách nhiệm yểm hộ các đơn vị của Cụm tác chiến Biển Đen, hải quân đánh bộ và các tàu vận tải, tài tuần duyên và các chiến hạm. Tập đoàn quân không quân 5 yểm hộ Cụm tác chiến Bắc Kavkaz. Đầu tháng 6 năm 1943, Tập đoàn quân không quân 5 được chuyển thuộc cho Phương diện quân Thảo Nguyên đóng ở phía Đông vòng cung Kursk, Phương diện quân Bắc Kavkaz được sử dụng cả Tập đoàn quân không quân 4 và có quyền chỉ đạo sự phối hợp của không quân thuộc Hạm đội Biển Đen.

Sáng 17 tháng 4, Không quân Đức tổ chức oanh tạc quy mô vào Novorossiysk với 120 phi vụ ném bom và 468 phi vụ cường kích để hỗ trợ cho Quân đoàn xung kích 5 (Đức) tảo thanh căn cứ đầu cầu Myskhako của quân đội Liên Xô. 4 chiếc Yak-3 của sư đoàn 278 vừa chuyển từ sân bay Grozny lên sân bay Novotitarovskaya gần Krasnodar cất cánh hướng đến mặt trận nhưng khi tiếp cận vùng trời Novorossiysk đã gặp 16 chiếc Me-109 đánh chặn trên vùng trời Verkhnerbakansky. Nhiệm vụ đánh vào đoàn máy bay ném bon Đức không thực hiện được. Trong không chiến, không quân Đức mất 1 chiếc Me-109 đổi 1 chiếc Yak-3 của Liên Xô. Buổi chiều, 6 chiếc Yak-3 cất cánh đánh vào đội hình 15 chiếc Ju-87 (Đức) nhưng chỉ hạ được 1 chiếc do các tốp Me-109 tiếp tục ngăn chặn từ xa. Cuối trận đánh, chiếc Yak của trung úy V. A. Naumenko (cùng tên với thượng tướng tư lệnh Tập đoàn quân không quân 4) bị 2 chiếc Me-109 bắn rơi, phi công tử trận. Không một chiếc Me-109 nào bị bắn rơi. Sau trận đánh, phi công A. I. Pokryshkin kết luận: "Không thể tiếp tục cất cánh đánh nhau theo kiểu này được".

Ngày 22 tháng 4, tướng Wolfram von Richthofen tung ra phi đội Fw-190 do 12 phi công "Át" điều khiển phối hợp với 12 chiếc Me-109 yểm hộ cho hai đợt tấn công lớn của 24 chiếc Ju-88 và 48 chiếc Ju-87 công kích vào các tập đoàn quân 9, 37, 56 và 18 (Liên Xô) tại các khu vực Krymsk và Kievskoye. 24 chiếc Me-109 khác được triển khai tuần tiễu yểm hộ để ngăn chặn các máy bay tiêm kích Liên Xô từ xa. Focke Wulf-190 được trang bị nhiều vũ khí mạnh mẽ không thua kém P-39 và vượt xa Yak-1 về tốc độ, là loại máy bay tiêm kích-bom đa năng hiện đại nhất của Không quân Đức Quốc xã khi đó. Sau khi bốn chiếc Yak-1 bị bắn rơi trên bầu trời sân bay Gostagaevskaya, tướng Vershinin ra lệnh ngừng cất cánh, chỉ để lại các phi đội tuần tra thường nhật trên các sân bay Krasnodar, Armavir và Tikhoretsk.. Không quân Liên Xô mất 18 máy bay, phần lớn là máy bay ném bom tầm ngắn Po-2 và đều bị cao xạ bắn rơi; trong đó có 3 chiếc Po-2 do các nữ phi công điều khiển. Từ ngày 25 tháng 4, số lượng phi vụ của Tập đoàn quân không quân 4 (Đức) giảm đi khoảng 50%, chỉ còn 765 phi vụ ngày 25 tháng 4 và 812 phi vụ ngày 26 tháng 4.

Từ ngày 17 đến ngày 24 tháng 5, tranh thủ thời gian quân đội Liên Xô tạm ngừng công kích vào "Phòng tuyến xanh", tướng Richthofen tiếp tục chiến dịch không kích các sân bay của không quân Liên Xô tại Kuban. Nhưng lần này, không quân Liên Xô đã chuẩn bị đón cuộc tấn công. Tập đoàn quân không quân 4 đã sơ tán hầu hết máy bay tiêm kích ra các sân bay vòng ngoài, đến Maikop, Armavir, Kropotkin, Tikhoretsk - những nơi mà các máy bay ném bom tầm ngắn của không quân Đức không với đến được. Nếu như không quân Liên Xô không thể thực hiện điều này hồi cuối tháng, đầu tháng 5 thì nay họ làm được vì nhiều máy bay Yak-9D đã được đưa vào đội hình chiến đấu, có tầm bay 1.360 km, vượt xa các loại Yak-1 và Yak-3 vốn có tầm bay chỉ từ 650 đến 700 km. Ngày 19 tháng 5, 40 máy bay Ju-87 được 18 chiếc Me-109 yểm hộ đột nhập không phận Krasnodar. Đây là lúc các phi công Liên Xô thực hiện chiến thuật mới của mình. 32 chiếc Yak-7 và Yak-9D tiếp cận không phận tác chiến theo đội hình bậc thang gồm 4 tầng mỗi tầng 8 chiếc xếp hàng ngang từ độ cao 4.000 m lên đến độ cao 5.000 m. Các phi công Ju-87 và Me-109 không thể xoay xở trước đội hình nhiều lớp như một chiếc "tủ sách" trên không. ở tầng bay nào, họ cũng gặp phải hỏa lực trực diện từ các máy bay Liên Xô. Khi tốp Yak-7 và các máy bay Đức và bắt đầu lao vào "vòng xoay tử thần", lừa miếng bám đuôi nhau để tình cách công kích đối thủ, 16 chiếc Yak-9D có sẵn độ cao bắt đầu sà xuống, mỗi chiếc bám theo một chiếc Ju-87 hoặc Me-109. 11 chiếc Ju-87 và 14 chiếc Me-109 bị bắn rơi chỉ trong vòng 15 phút. Không quân Liên Xô chỉ mất 2 chiếc Yak-7. Các máy bay Đức phải bỏ dở cuộc không kích vào sân bay chính ở Krasnodar. Đến cuối ngày, 23 máy bay Đức và 17 máy bay Liên Xô bị bắn rơi trong một ngày bận rộn nhất của không quân hai bên tại Kuban. Mặc dù không tổng kết nhưng K. A. Vershinin cũng cho rằng tổn thất của Không quân Liên Xô cũng đến 215 máy bay tiêm kích và 175 máy bay các loại khác, bao gồm cả số bị bắn rơi trong không chiến cũng như bị phá hủy trên mặt đất.

Tuy nhiên, ở Kuban và miền Nam Liên Xô thì khác, khi mùa hè bắt đầu với những ngày nắng liên tiếp, điều kiện khí tượng trở nên lý tưởng cho các trận không chiến thì cũng là lúc các phi công Đức có thể áp dụng đầy đủ chiến thuật "từ phía mặt trời". Ban đầu, các phi công Liên Xô khá lúng túng khi đối phó với chiến thuật này. Về sau, họ đã biết lợi dụng những đám mây và địa hình đồi núi ở phía Nam bán đảo Taman, nhất là khu vực Gelendzhik - Novorossiysk để mở các trận không chiến, hạn chế chiến thuật này của người Đức. Trong các trận không chiến từ nửa cuối năm 1944 đến kết thúc chiến tranh, chiến thuật này cũng thất bại ở Tây Âu khi các Me-109 phải đối mặt với máy bay ném bom hạng nặng B-17 được trang bị 10 khẩu M-2 (trong đó có 3 khẩu 2 nòng) với một tháp pháo cầu rất lợi hại ở dưới bụng máy bay, vô hiệu hóa các đường bay công kích ngược lên của đối phương.

Trọng các trận không chiến tại Kavkaz, các phi công tiêm kích Đức cũng áp dụng một chiến thuật mà họ đã sử dụng khá thành công từ đầu cuộc chiến. Đó là chiến thuật "cắt kéo". Thực chất đó là sự hoán đổi vị trí công kích liên tục và luân phiên giữa hai máy bay tiêm kích. Khi một chiếc sà xuống công kích thì chiếc còn lại vọt lên cao và liên tục như vậy cho đến khi hạ gục đối thủ. Tuy nhiên, trên không phận chiến trường Xô-Đức sau trận Stalingrad, ưu thế về số lượng của không quân Đức giảm đi trông thấy và các chiến thuật này cũng đi vào bế tắc.

Chiến thuật "tầng mây giông" của không quân Liên Xô

Trong các cuộc không chiến của Chiến tranh thế giới thứ nhất, các trận đọ cánh diễn ra theo một phong cách "hiệp sĩ" và thường là các cuộc đấu tay đôi. Dù có nhiều máy bay nhưng mỗi phi công đều tự chọn cho mình một đối thủ và tiếp cận để công kích. Chiến tranh thế giới thứ hai đã đưa lên vũ đài quân sự trên không một đạo quân máy bay khổng lồ nhiều hơn bất cứ cuộc chiến tranh hiện đại này, kể cả thời điểm hiện nay. Các máy bay cường kích và ném bom của Đức thường được một số đông tiêm kích yểm hộ với tỷ lệ 1/2 và khai thác tối đa khả năng tự vệ của các máy bay Ju-87. Để đối phó với đội hình chặt chẽ này, các phi công của Tập đoàn không quân 16 chiến đấu tại mặt trận Stalingrad đã đề xuất áp dụng đội hình chiến thuật "bậc thang". Tuy nhiên, đó mới là một nửa vấn đề. Nửa còn lại là các Me-109 cũng có tính năng cơ động ngang (cơ động mặt bằng) tốt. Để hạn chế mặt mạnh này, cần phải phát triển chiến thuật "bậc thang" thành chiến thuật mới hơn. Trong thời gian tham gia không chiến tại Kuban, phi công A. I. Pokryshkin đã nghiên cứu phát triển chiến thuật này để nó không chỉ dừng lại ở mục đích đánh chặn phòng thủ.

Phía Đức tỏ ra nghi ngờ hiệu quả của chiến thuật Etazherka mà họ gọi là Rolltreppe. Theo Walter Schwabedissen trong cuốn sách "Không quân Nga trong con mắt của các chỉ huy Đức" (Ayer Co Pub xuất bản năm 1968):

Ivan Kozhedub một trong các phi công Át của Không quân Liên Xô đã bác lại điều này:

Có một điều đáng chú ý là sau các trận không chiến tại Kuban, phía Đức cũng áp dụng chiến thuật "bậc thang" nhưng đối với máy bay ném bom chứ không phải đối với máy bay tiêm kích. Một phi công Át khác của Không quân Liên Xô, trung tá Gregory Golubev nhận xét:

Ảnh hưởng

Đài kỷ niệm máy bay cường kích IL-2 tại Novorossiysk Đối với Không quân Liên Xô, các trận không chiến tại Kuban được coi như một sự phát triển kết quả của các trận không chiến tại Stalingrad trước đó với những máy bay tiêm kích và cường kích thế hệ mới: Yak-1, Yak-3, Yak-7, Yak-9, LaGG-3, La-5... với tốc độ bay bằng, tốc độ lên cao nhanh hơn, tính năng bay cơ động hơn và hỏa lực mạnh hơn, dần dần thay thế cho các loại máy bay kiểu cũ I-15, I-15bis, I-16, LaGG-1. Mặc dù có quy mô và thời gian kém hơn nhiều so với các trận không chiến ở nước Anh trước đó nhưng cuộc không chiến kéo dài gần 2 tháng tại Kuban đã có ảnh hưởng lớn đến chiến lược phát triển không quân của cả hai bên trong giai đoạn tiếp theo của chiến tranh Xô-Đức.

Đối với không quân Liên Xô, họ coi đây là chiến dịch để thử nghiệm các loại máy bay mới chế tạo đồng thời là cuộc diễn tập chuẩn bị cho một chiến dịch cần có sự yểm hộ quy mô rất lớn từ trên không (trận Kursk) diễn ra không lâu sau đó. Một trong hai tập đoàn quân không quân đã chiến đấu trong các trận không chiến ở Bắc Kavkaz (Tập đoàn quân không quân 5) đã được rút ra khỏi cuộc chiến vào giai đoạn cuối và được điều đến Phương diện quân Thảo nguyên. Chính Tập đoàn quân này đã tham gia các đòn "phản chuẩn bị" của không quân và pháo binh Liên Xô trước ngay trước thời điểm khai trận và sau này đã đối phó có hiệu quả với các máy bay tiêm kích cải tiến của không quân Đức Quốc xã cũng như tiếp tục bắn rơi nhiều máy bay ném bom Đức trong các giai đoạn phòng thủ và phản công của quân đội Liên Xô tại vòng cung Kursk.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Không chiến tại Kuban** là chiến dịch hoạt động quân sự trên không lớn nhất trong chuỗi chiến dịch ở Kavkaz (1943) nhằm tranh quyền khống chế không phận và là một trong các cuộc
nhỏ|phải|Biểu tượng trên các máy bay của Liên Xô trong Thế chiến thứ hai Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Không quân Liên Xô chưa có các đơn vị được trang bị
**Chiến dịch Kutuzov** là hoạt động quân sự lớn của Quân đội Liên Xô tại khu vực phía bắc vòng cung Kursk với trung tâm là thành phố Oryol tại khu vực trung tâm mặt
**Chiến dịch Kavkaz** là tên gọi chung cho một chuỗi các hoạt động quân sự tại khu vực Kavkaz diễn ra giữa quân đội Liên Xô và quân đội Đức Quốc xã trong cuộc Chiến
**Chiến dịch Maikop-Krasnodar** là cuộc tấn công lớn của Quân đội Liên Xô tại Bắc Kavkaz chống lại Tập đoàn quân 17 của Quân đội Đức Quốc xã tại khu vực phía Tây đồng bằng
**Chiến dịch Blau** (tiếng Đức: **_Fall Blau_**) là mật danh của Kế hoạch tổng tấn công từ mùa hè năm 1942 của quân đội Đức Quốc xã trên toàn bộ cánh Nam của mặt trận
**Chiến dịch Sao Thiên Vương (Uranus)** (tiếng Nga: _Операция «Уран»_, phiên âm La Tinh: _Operatsiya Uran_; tiếng Đức: _Operation Uranus_) là mật danh của chiến dịch có tính chiến lược của Liên Xô thời gian
**Chiến dịch Cái Vòng** (_Операция Кольцо_) là một hoạt động quân sự chiến lược lớn của Quân đội Liên Xô chống lại Quân đội Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai đồng
**Chiến tranh thế giới thứ hai** (còn được nhắc đến với các tên gọi **Đệ nhị thế chiến**, **Thế chiến II** hay **Đại chiến thế giới lần thứ hai**) là một cuộc chiến tranh thế
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
**Chiến dịch Krym – Sevastopol (1941–1942)** bao gồm toàn bộ các trận chiến đấu của quân đội Xô Viết và quân đội Đức Quốc xã cùng với quân Romania tại bán đảo Krym từ tháng
**Chiến dịch giải phóng Taman** là hoạt động quân sự lớn cuối cùng của quân đội Liên Xô trong toàn bộ chiến dịch Kavkaz diễn ra từ ngày 10 tháng 9 đến ngày 9 tháng
**Chiến dịch Taman lần thứ nhất** do quân đội Liên Xô tổ chức tấn công các lực lượng chủ yếu của Tập đoàn quân 17 (Đức) đóng tại bán đảo Taman (bao gồm cả các
**Chiến dịch Mozdok–Stavropol** là đòn phản công lớn đầu tiên trong năm 1943 của Cụm tác chiến Bắc Kavkaz (Liên Xô) vào Cụm tập đoàn quân A (Đức) trên một chính diện rộng hơn 150 km,
**Chiến dịch Bão Mùa đông** (Tiếng Đức: _Unternehmen Wintergewitter_) là một cuộc hành quân lớn tại phía Nam Mặt trận Xô-Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai do Cụm Tập đoàn quân Sông Đông
**Chiến dịch Sao Thổ** (tiếng Nga: _Операция Сатурн_) là mật danh do Bộ Tổng tư lệnh tối cao Quân đội Liên Xô đặt cho cuộc tấn công quy mô lớn thứ hai của Chiến cục
**Chiến dịch phòng thủ Tikhoretsk–Stavropol** là một trong các hoạt động quân sự đầu tiên của quân đội Liên Xô tại khu vực Bắc Kavlaz trong Chiến tranh Xô-Đức nhằm chống lại Cuộc hành quân
**Chiến dịch Myskhako** là một phần hoạt động quân sự của Kế hoạch "Biển" của quân đội Liên Xô trong giai đoạn phản công của Chiến dịch Kavkaz. Từ ngày 4 tháng 2 năm 1943,
**Chiến dịch Nalchik–Ordzhonikidze** diễn ra từ ngày 25 tháng 10 đến ngày 12 tháng 11 năm 1942 là trận tấn công cuối cùng của Tập đoàn quân xe tăng 1 do tướng Paul Ludwig Ewald
**Ngày Chiến thắng** là ngày lễ kỷ niệm chiến thắng của Liên Xô trước Đức Quốc xã vào năm 1945. Ngày lễ này được tổ chức lần đầu tiên tại 15 nước cộng hòa thuộc
**Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr** ở Ukraina (1944), hay còn được gọi là **Chiến dịch tấn công Dniepr–Carpath**, kéo dài từ ngày 24 tháng 12 năm 1943 đến ngày 14 tháng 4 năm
**Chiến dịch Ngôi Sao** (Tiếng Nga: Oпераций «Звезда») là tên mã của **Chiến dịch Belgorod-Kharkov**, hoạt động quân sự lớn thứ ba do Phương diện quân Voronezh (Liên Xô) tiến hành tại miền Trung nước
**Chiến dịch Krym** hay theo cách gọi của người Đức là **Trận bán đảo Krym**, là một loạt các cuộc tấn công của Hồng Quân Liên Xô nhằm vào quân đội Đức để giải phóng
**Khởi nghĩa tháng 8 năm 1944 tại Romania** hay còn gọi là cuộc **Đảo chính tháng Tám** là một sự kiện chính trị-quân sự xảy ra ở Rumani vào cuối tháng 8 năm 1944. Trong
**Chiến dịch phòng thủ Mozdok–Malgobek** là hoạt động quân sự lớn của Cụm tác chiến Bắc Kavkaz của quân đội Liên Xô chống lại cuộc tấn công của Cụm tập đoàn quân A (Đức) qua
**Chiến dịch Rostov năm 1941** là trận phòng ngự-phản công tại vùng Rostov trên sông Don của Quân đội Liên Xô. Đây là một trận đánh quan trọng trên khu vực phía Nam chiến trường
**Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ 1787–1792** liên quan đến một nỗ lực không thành công của Đế quốc Ottoman nhằm lấy lại các vùng đất đã mất vào tay Đế quốc Nga trong quá trình
**Sư đoàn đổ bộ đường không Cận vệ 106 "Tula" Huân chương Cờ Đỏ Huân chương Kutozov** (tiếng Nga: _1106-я гвардейская воздушно-десантная Тульская Краснознамённая, ордена Кутузова дивизия_), hay gọi tắt là Sư đoàn Nhảy dù
**Chiến dịch _Hoa nhung tuyết**_ () - được đặt theo tên của một loài hoa nổi tiếng mọc trên các khu vực núi cao ở châu Âu - là một chiến dịch do quân đội
**Sư đoàn tấn công đường không sơn cước Cận vệ 7** (tiếng Nga: _7-я гвардейская десантно-штурмовая дивизия_) là một trong năm sư đoàn nhảy dù của Lực lượng Đổ bộ đường không Nga, chuyên chiến
**Aleksandr Ivanovich Pokryshkin** (tiếng Nga: _Александр Иванович Покрышкин_; 6 tháng 3 năm 1913 – 13 tháng 11 năm 1985) là phi công chiến đấu nổi tiếng và Nguyên soái Không quân Liên Xô. Ông là
**Chiến dịch Sao Hỏa** (_Oперация «Марс»_) là mật danh của **Chiến dịch phản công chiến lược Rzhev-Sychyovka lần thứ hai** do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm vào quân đội phát xít Đức trong
**Khởi nghĩa Khmelnytsky**, còn gọi là **Chiến tranh Cossack–Ba Lan**, **Khởi nghĩa Chmielnicki**, **cuộc nổi dậy Khmelnytsky**, là một cuộc nổi loạn của người Cossack diễn ra từ năm 1648 đến năm 1657 trên các
**Proshchaniye slavyanki** (, tạm dịch là **_Tạm biệt em gái Xlavơ_**) - là một bài hát của Nga viết vào khoảng năm 1912-13 bởi thiếu úy quân nhạc của trung đoàn kỵ binh dự bị
**"Phù thủy đêm"** (; , ) là biệt danh mà các binh sĩ Đức Quốc Xã đặt cho các nữ phi công quân sự của **Trung đoàn không quân ném bom đêm 588** (**'), sau
**Người Ukraina tại Nga** (, ) tạo thành nhóm người di cư lớn nhất của người Ukraina. Năm 2010, 1,9 triệu người Ukraina sống ở Nga, chiếm hơn 1,4% tổng dân số Liên bang Nga
**Văn hóa Hầm mộ** hay **văn hóa Catacomb** (từ tiếng Nga và tiếng Ukraina катакомба nghĩa là hầm mộ hay mộ động), khoảng 2000-1250 TCN, là thuật ngữ chỉ một văn hóa đầu thời đại
phải|_[[Những người Zaporozhe (tranh)|Người Zaporozhe viết thư cho sultan Thổ Nhĩ Kỳ_. Tranh của Ilya Repin từ năm 1880 tới năm 1891.]] phải|Một gia đình cossaks người mỹ vào những năm 1950 phải|Một binh đoàn
**Cộng hòa Nhân dân Ukraina** là một nhà nước tồn tại ngắn ngủi tại Đông Âu. Hội đồng Trung ương Ukraina được bầu ra vào tháng 3 năm 1917 do kết quả từ Cách mạng
Cuộc **Diệt chủng Circassia** là một loạt các chiến dịch tấn công, trục xuất và đàn áp người Circassia từ mảnh đất quê hương Circasia vốn là dân đa số theo Hồi giáo trải dài
**Hãn quốc Krym**, tự gọi là **Ngôi vương Krym và Desht-i Kipchak**, và trong thuật chép sử và địa lý châu Âu gọi là **Tiểu Tartary**, là một nhà nước Tatar Krym tồn tại từ
**Người Cossack Zaporozhia**, **Quân Cossack Zaporozhia**, **Quân đoàn Zaporozhia**, (, hoặc ) hoặc chỉ là **người Zaporozhia** () là những người Cossack sống bên kia (về phía hạ nguồn) các ghềnh sông Dnepr (Dnipro). Sich
**Sự can thiệp quân sự của nước ngoài vào Nga** () bao gồm một loạt các cuộc viễn chinh quân sự đa quốc gia bắt đầu từ năm 1918. Động lực ban đầu đằng sau
**Bulgaria**, quốc hiệu là **Cộng hòa Bulgaria**, là một quốc gia nằm tại khu vực đông nam châu Âu. Bulgaria giáp với România về phía bắc, giáp với Serbia và Bắc Macedonia về phía tây,
**Gerhard "Gerd" Barkhorn** là phi công chiến đấu phi công ách chủ bài người Đức có số chiến thắng cao thứ hai trong lịch sử, sau Erich Hartmann, một phi công Đức khác và là
**Grigory Petrovich Kotov** (; 21 tháng 10 năm 1902 – 7 tháng 11 năm 1944) là một trung tướng Hồng quân trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại. Ngày 7 tháng 11 năm 1944, ông
**Dmitry Grigoryevich Pavlov** (tiếng Nga: _Дми́трий Григо́рьевич Па́влов_; 1897-1941) là một Đại tướng Liên Xô trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Ông từng được phong danh hiệu Anh hùng Liên
**Aleksey Nikolayevich của Nga** () ( – 17 tháng 7 năm 1918) là thái tử (_tsesarevich_) cuối cùng của Đế quốc Nga. Ông là con út và là người con trai duy nhất của Hoàng
**Mikhail Semyonovich Khozin** (; - 27 tháng 2 năm 1979) là một tướng lĩnh Liên Xô trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. ## Sự nghiệp ### Thiếu thời Mikhail Semyonovich Khozin sinh ngày 10
**Mikhail Nikolayevich Tukhachevsky** (tiếng Nga: _Михаи́л Никола́евич Тухаче́вский_) (16 tháng 2, 1893 – 12 tháng 6, 1937) là một chỉ huy Hồng quân, Tổng Tham mưu trưởng Hồng quân giai đoạn 1925-1928, Nguyên soái Liên