✨Lớp tàu khu trục C và D
Lớp tàu khu trục C và D là một nhóm 14 tàu khu trục được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Giống như những năm trước, người ta dự định đặt hàng mỗi năm một chi hạm đội trọn vẹn bao gồm tám tàu khu trục và một soái hạm khu trục như là chiếc thứ chín. Tuy nhiên, chỉ có bốn chiếc và một soái hạm được đặt hàng trong Chương trình Chế tạo Hải quân 1929–1930 như lớp C; bốn chiếc còn lại không bao giờ được đặt hàng do những biện pháp kinh tế và xu hướng giải trừ quân bị của chính phủ đảng Lao động thời Thủ tướng Ramsay Macdonald. Một chi hạm đội đầy đủ, trở thành lớp D, được đặt hàng trong Chương trình Chế tạo 1930–1931.
Năm chiếc thuộc lớp C được phân về Hạm đội Nhà sau khi hoàn tất, rồi được tăng cường cho Hạm đội Địa Trung Hải khi Ý xâm chiếm Abyssinia vào năm 1935–1936 và thực thi Thỏa thuận không can thiệp trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha các năm 1936–1939. Chúng được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Canada vào các năm 1937–1939 và trải qua hầu hết thời gian trong Chiến tranh Thế giới thứ hai làm nhiệm vụ hộ tống đoàn tàu vận tải tại Đại Tây Dương. Crescent bị đắm do tai nạn bị chiếc tàu tuần dương húc phải vào năm 1940. Crusader bị một tàu ngầm Đức đánh chìm năm 1942, cho dù nó đã đánh chìm một tàu ngầm Ý năm 1940. Những chiếc khác trong lớp đã đánh chìm ba tàu ngầm Đức trong chiến tranh. Tất cả chúng đều bị hao mòn khi chiến tranh kết thúc và bị tháo dỡ trong những năm 1946–1947.
Những chiếc tàu khu trục lớp D thoạt tiên được phân về Hạm đội Địa Trung Hải sau khi được nhập biên chế, rồi được điều sang Trạm Trung Quốc vào năm 1935. Giống như lớp C, đa số được tạm thời bố trí đến Hồng Hải khi Ý xâm chiếm Abyssinia, nhưng quay trở lại Trạm Trung Quốc sau khi chiến tranh kết thúc. Chúng tiếp tục ở lại đây khi Thế Chiến II bùng nổ, nhưng được điều sang tăng cường Hạm đội Địa Trung Hải không lâu sau đó. Năm chiếc được điều sang Hạm đội Nhà vào tháng 12 năm 1939, nhưng Duchess bị chìm trên đường đi nó nó mắc tai nạn bị thiết giáp hạm húc phải, và Duncan bị hư hại nặng do va chạm với một tàu buôn, buộc phải được sửa chữa kéo dài. Daring bị một tàu ngầm Đức đánh chìm vào tháng 2 năm 1940. Hai chiếc khác tham gia Chiến dịch Na Uy vào tháng 4-tháng 6, nhưng Delight bị một máy bay Đức đánh chìm vào tháng 7 và Diana được chuyển sang Hải quân Hoàng gia Canada thay thế cho Crescent khi chiếc này bị tàu tuần dương Calcutta húc chìm. Tuy nhiên, nó cũng bị một tàu hàng mà nó hộ tống húc phải và chìm nhiều tháng sau đó.
Bốn chiếc ở lại cùng Hạm đội Địa Trung Hải đã đánh chìm ba tàu ngầm Ý vào năm 1940 trong khi hộ tống các Đoàn tàu vận tải Malta và các tàu chiến lớn của hạm đội. Nhiều chiếc đã tham gia các trận Calabria và Spartivento năm đó. Duncan gia nhập Lực lượng H tại Gibraltar vào tháng 10 và đã hộ tống cho nhóm này. Dainty bị máy bay ném bom Đức đánh chìm vào tháng 2 năm 1941 và Diamond cùng chung số phận vào tháng 4 đang khi triệt thoái binh lính Đồng Minh khỏi Hy Lạp. Defender phải tự đánh đắm vào tháng 7 sau khi nó bị máy bay Đức đánh hỏng khi quay về sau một chuyến hộ tống vận tải đến Tobruk. Duncan và Decoy tiếp tục nhiệm vụ hộ tống vận tải cho đến hết năm trước khi được điều sang Hạm đội Đông vào đầu năm 1942. Chúng quay trở về Anh cuối năm đó để được cải biến thành tàu khu trục hộ tống. Decoy được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Canada vào đầu năm 1943, nhưng cả hai trở thành các tàu hộ tống vận tải tại Đại Tây Dương. Chúng đã đánh chìm hai tàu ngầm Đức trước khi được điều về Anh bảo vệ tàu bè Đồng Minh trong Chiến dịch Overlord. Chúng đánh chìm thêm ba tàu ngầm đối phương trước khi chiến tranh kết thúc, và được cho ngừng hoạt động vào năm 1945. Duncan bị tháo dỡ năm 1945–1949 và Decoy vào năm 1946.
Thiết kế
Những con tàu này vẫn dựa trên lớp B dẫn trước, nhưng được mở rộng để tăng tầm hoạt động và có thể mang một khẩu QF 3-inch 20 cwt phòng không.
Các tàu khu trục lớp C và D có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , và lên đến khi đầy tải. Các con tàu có chiều dài chung , mạn thuyền rộng và mớn nước . Chúng được cung cấp động lực bởi hai turbine hơi nước hộp số Parsons, dẫn động hai trục chân vịt, tạo ra công suất cho phép đạt tốc độ tối đa . Hơi nước cho turbine được cung cấp bởi ba nồi hơi ống nước Admiralty hoạt động ở áp suất và nhiệt độ . Các con tàu khu trục mang theo tối đa dầu đốt cho phép chúng có tầm xa hoạt động ở tốc độ đường trường . Thành phần thủy thủ đoàn bao gồm 145 sĩ quan và thủy thủ.
, soái hạm của lớp C, có trọng lượng choán nước nặng hơn so với những chiếc còn lại và chở thêm 30 người hình thành nên ban tham mưu của Tư lệnh chi hạm đội. Điểm độc đáo của nó so với tất cả những chiếc lớp C và D là nó có ba nồi hơi ống nước Yarrow hoạt động ở áp suất .
Mọi con tàu đều trang bị bốn khẩu pháo QF Mk IX trên các tháp pháo đơn, được đặt tên 'A', 'B', 'X' và 'Y' tuần tự từ trước ra sau. Cho mục đích phòng không, chúng có một khẩu QF 3 inch 20 cwt giữa hai ống khói. Lớp C mang hai khẩu QF 2-pounder Mk II phòng không phía sau sàn trước. Lớp D dự định mang súng máy QF 0.5-inch Vickers Mk III bốn nòng kiểu mới hai bên cánh cầu tàu; nhưng do chưa sẵn có, pháo 2-pounder kiểu cũ được giữ lại trên các chiếc Daring, Diana, Diamond và Defender. Pháo phòng không 3-inch được tháo dỡ vào các năm 1936–1937, và các khẩu 2-pounder được tái bố trí trên các bệ giữa hai ống khói.
Dàn pháo chính được điều khiển bằng một Đồng hồ Kiểm soát Hỏa lực Admiralty Mk I, sử dụng thông tin có từ bộ điều khiển hỏa lực và máy đo tầm xa. Chúng không có khả năng phòng không, nên các khẩu pháo phòng không được ngắm thuần túy bằng mắt.
Khi được Canada mua lại vào năm 1937–1938, bốn tàu khu trục lớp C được tái trang bị để đáp ứng các đặc tính kỹ thuật riêng cho Canada, kể cả việc trang bị sonar ASDIC Kiểu 124. Ngoại trừ việc trang bị hệ thống sưởi hơi nước, không rõ là Kempenfelt có được cải biến gì khác khi nó được chuyển giao vào tháng 10 năm 1939.
Các cải biến trong thời chiến
Bắt đầu từ tháng 5 năm 1940, bệ phóng ngư lôi phía sau được tháo dỡ thay bằng một khẩu QF 12-pounder Mk V phòng không; cột ăn-ten sau và ống khói được cắt ngắn để tăng cường góc bắn cho nó. Từ bốn đến sáu khẩu pháo tự động QF 20 mm Oerlikon được bổ sung cho các con tàu sống sót, thường là để thay cho các khẩu 2-pounder hay súng máy.50-calibre bố trí giữa các ống khói. Một cặp được bố trí hai bên cánh của cầu tàu và một cặp khác đặt trên bệ đèn pha tìm kiếm. Tháp pháo 'Y' trên sàn sau được tháo dỡ trên nhiều chiếc lấy chỗ để chứa thêm mìn sâu cũng như pháo 12-pounder; và ít nhất trên một chiếc kiểu pháo này thay thế cho tháp pháo 'X'. Trên hầu hết các con tàu, tháp pháo 'A' hay 'B' được thay thế bằng Hedgehog, một dàn cối chống tàu ngầm, riêng Duncan vẫn giữ lại hai tháp pháo khi dàn Hedgehog được tách ra làm đôi gắn hai bên tháp pháo 'A'. Một số chiếc trang bị Hedgehog ở vị trí tháp pháo 'B' còn được trang bị hai khẩu pháo Hotchkiss QF 6-pounder cũ để chống lại tàu ngầm U-boat ở tầm rất gần.
Bộ điều khiển hỏa lực và máy đo tầm xa đặt trên nóc cầu tàu của hầu hết các con tàu được thay thế bằng radar dò tìm mục tiêu Kiểu 271. Một bộ radar bước sóng mét Kiểu 286 dò tìm mặt đất tầm ngắn cũng được bổ sung. Dựa trên thiết bị ASV của Không quân Hoàng gia Anh, thiết bị sơ khai này chỉ có một ăn-ten cố định quét một góc trước mũi tàu, đòi hỏi con tàu phải thường xuyên đổi hướng để thay đổi hướng quét. Một số chiếc còn có thiết bị định vị vô tuyến Huff-Duff đặt trên một cột ăn-ten ngắn.
Những chiếc còn lại trải qua hết thời gian chiến tranh hộ tống các đoàn tàu vận tải tại Bắc Đại Tây Dương, đặt căn cứ tại Anh hoặc Canada. Ottawa đã hỗ trợ tàu khu trục Anh trong việc đánh chìm tàu ngầm Ý Comandante Faà di Bruno vào ngày 7 tháng 11 năm 1940. Nó bị tàu ngầm Đức U-91 đánh chìm vào ngày 14 tháng 9 năm 1942 đang khi hộ tống đoàn tàu vận tải ON 127. St. Laurent có chiến công đầu tiên vào ngày 27 tháng 12 năm 1942 khi nó được công nhận đã đánh chìm tàu ngầm Đức U-356 đang khi hộ tống đoàn tàu vận tải ON 154. Cùng với tàu khu trục Anh và các tàu corvette HMCS Owen Sound và HMCS Swansea, nó đã đánh chìm tàu ngầm Đức U-845. Đang khi hộ tống đoàn tàu vận tải SC 94 vào ngày 3 tháng 8 năm 1942, Assiniboine đã húc trúng và đánh đắm tàu ngầm Đức U-210. Restigouche không đánh chìm được tàu ngầm đối phương nào, nhưng nó cùng với St. Laurent được chuyển sang Anh để bảo vệ các tàu bè tập trung cho Chiến dịch Overlord vào tháng 5 năm 1944, với Assiniboine tiếp nối vào tháng 7. Chúng đã chiến đấu cùng các tàu tuần tra Đức tại vịnh Biscay, nhưng Restigouche và St. Laurent lúc này ở trong tình trạng vật chất tồi tệ, được gửi về Canada để sửa chữa vào cuối năm 1944, và ở lại Canada sau khi hoàn tất vào đầu năm 1945, còn Assiniboine tiếp tục ở lại Anh cho đến tháng 6. Cả ba đã tham gia hồi hương binh lính Canada sau ngày chiến thắng cho đến khi chúng được cho xuất biên chế vào cuối năm 1945. Cả ba bị tháo dỡ trong các năm 1946-1947.
Duncan, Diana, Duchess, Delight và Daring được chuyển sang Hạm đội Nhà vào tháng 12 năm 1939, cho dù Duchess bị chiếc thiết giáp hạm mà nó hộ tống húc phải và bị đắm vào ngày 10 tháng 12. Duncan cũng bị hư hại nặng do va chạm với một tàu buôn vào tháng 1 năm 1940, khiến mất đến 6 tháng để sửa chữa. Daring bị tàu ngầm Đức U-23 đánh chìm vào ngày 18 tháng 2 đang khi hộ tống một đoàn tàu vận tải từ Na Uy. Diana và Delight được phân công hộ tống các đoàn tàu vận tải vào đầu năm 1940 trước khi tham gia Chiến dịch Na Uy trong tháng 4-tháng 6. Trong khi tìm cách vượt qua eo biển Anh Quốc vào ban ngày bất chấp lệnh cấm, Delight bị máy bay Đức đánh chìm vào ngày 29 tháng 7. Sau một đợt sửa chữa ngắn trong tháng 7–tháng 8, Diana được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Canada thay thế cho chiếc HMCS Fraser bị đắm do va chạm với một tàu tuần dương Anh. Nhập biên chế ngày 6 tháng 9, và được đổi tên thành HMCS Margaree, con tàu được phân nhiệm vụ hộ tống các đoàn tàu vận tải tại Bắc Đại Tây Dương; nhưng đến ngày 22 tháng 10, nó bị đắm do va chạm với chiếc tàu hàng MV Port Fairy. Đang khi hộ tống đoàn tàu vận tải ON-207 vào ngày 23 tháng 10, cùng với tàu khu trục và một máy bay Consolidated B-24 Liberator thuộc Phi đội 224 Không quân Hoàng gia Anh, Duncan đã đánh chìm tàu ngầm Đức U-274. Cùng trong tháng đó, ngày 29 tháng 10, Duncan chia sẻ chiến công đánh chìm tàu ngầm Đức U-282 cùng với Vidette và tàu corvette đang khi hộ tống đoàn tàu vận tải ON-208. Cả hai tiếp tục nhiệm vụ hộ tống cho đến tháng 5 năm 1944, khi chúng được điều sang Anh tham gia Chiến dịch Overlord. Duncan được điều sang Bộ chỉ huy Tiếp cận phía Tây làm nhiệm vụ chống tàu ngầm cho đến hết chiến tranh. Kootenay được giao nhiệm vụ bảo vệ tàu bè Đồng Minh trong eo biển Anh Quốc và vịnh Biscay. Cùng với các tàu khác, nó tham gia đánh chìm tàu ngầm Đức U-678 vào ngày 7 tháng 7 năm 1944, U-621 trong vịnh Biscay ngày 18 tháng 8, và hai ngày sau, U-984 ở phía Tây Brest, Pháp.
Sau một đợt tái trang bị kéo dài tại Canada từ tháng 10 năm 1944 đến tháng 2 năm 1945, Kootenay quay trở lại Anh và điều sang Bộ chỉ huy Tiếp cận phía Tây cho đến khi chiến tranh kết thúc. Nó được sử dụng để chuyên chở binh lính Canada hồi hương sau ngày chiến thắng cho đến khi được xuất biên chế vào tháng 10; nó bị bán để tháo dỡ vào năm 1946. Duncan ngừng hoạt động vào tháng 5 và bị bán vào tháng 7, cho dù việc tháo dỡ nó chỉ hoàn tất vào năm 1949.