✨HMS Cygnet (H83)
HMS Cygnet (H83) là một tàu khu trục lớp C được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Thoạt tiên phục vụ cùng Hạm đội Nhà, nó được tạm thời điều động đến Hồng Hải và Ấn Độ Dương khi Ý xâm chiếm Abyssinia vào năm 1935–1936. Crescent được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Canada vào cuối năm 1937 và đổi tên thành HMCS St. Laurent. Nó đặt căn cứ tại bờ biển phía Tây Canada cho đến khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra vào tháng 9 năm 1939, lúc nó được chuyển đến vùng bờ biển Đại Tây Dương làm nhiệm vụ hộ tống. Con tàu đã bảo vệ các đoàn tàu vận tải trong Trận Đại Tây Dương, tham gia vào việc đánh chìm hai tàu ngầm Đức, làm nhiêm vụ tuần tra chống tàu ngầm trong cuộc đổ bộ Normandy, và sau chiến tranh được dùng làm tàu chở binh lính để hồi hương binh lính Canada từ Châu Âu trước khi ngừng hoạt động vào cuối năm 1945. St. Laurent bị bán để tháo dỡ vào năm 1947.
Thiết kế và chế tạo
Cygnet có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , và lên đến khi đầy tải. Nó có chiều dài chung , mạn thuyền rộng và mớn nước . Con tàu được cung cấp động lực bởi hai turbine hơi nước hộp số Parsons, dẫn động hai trục chân vịt, tạo ra công suất cho phép đạt tốc độ tối đa . Hơi nước cho turbine được cung cấp bởi ba nồi hơi ống nước Admiralty hoạt động ở áp suất và nhiệt độ . Cygnet mang theo tối đa dầu đốt cho phép nó có tầm xa hoạt động ở tốc độ đường trường . Thành phần thủy thủ đoàn bao gồm 145 sĩ quan và thủy thủ.
Chiếc tàu khu trục được trang bị bốn khẩu pháo QF Mk IX trên các tháp pháo đơn, được đặt tên 'A', 'B', 'X' và 'Y' tuần tự từ trước ra sau. Cho mục đích phòng không, Cygnet có một khẩu QF 3 inch 20 cwt giữa hai ống khói và hai khẩu QF 2-pounder Mk II phía sau sàn trước. Pháo 3-inch được tháo dỡ vào năm 1936, và các khẩu 2-pounder được tái bố trí trên các bệ giữa hai ống khói. Nó còn được trang bị hai bệ ống phóng ngư lôi bốn nòng trên mặt nước dùng cho ngư lôi . Ba cầu trượt được dùng để thả mìn sâu, mỗi chiếc chứa được hai quả mìn. Sau khi Thế Chiến II nổ ra, số mìn sâu mang theo được tăng lên 33 quả, được thả bởi một đường ray và hai máy phóng.
Các cải biến khác cho con tàu trong chiến tranh thoạt tiên bao gồm việc thay thế tháp pháo 'B' bằng một dàn cối Hedgehog chống tàu ngầm; thay thế hai dàn súng máy.50 calibre Vickers bốn nòng giữa hai ống khói bởi hai khẩu Oerlikon 20 mm phòng không; bổ sung hai khẩu Oerlikon trên bệ đèn pha cùng hai khẩu Oerlikon khác hai bên cánh của cầu tàu, và tháo dỡ khẩu pháo phòng không 12-pounder. Một bộ radar bước sóng mét Kiểu 286 dò tìm mặt đất tầm ngắn cũng được bổ sung; tháp pháo 'Y' được tháo dỡ lấy chỗ để chứa thêm mìn sâu lên ít nhất 60 quả.
Cygnet được đặt hàng vào ngày 15 tháng 7 năm 1930 tại xưởng tàu của hãng Vickers-Armstrongs ở Barrow-in-Furness trong Kế hoạch Chế tạo 1929. Nó được đặt lườn vào ngày 1 tháng 12 năm 1930, hạ thủy vào ngày 29 tháng 9 năm 1931 như là chiếc tàu chiến thứ 14 của Hải quân Anh mang cái tên này, và hoàn tất vào ngày 1 tháng 4 năm 1932.
Chuyển cho Hải quân Hoàng gia Canada
Cùng với tàu chị em , Cygnet được bán cho Canada vào ngày 20 tháng 10 năm 1936 với trị giá tổng cộng 400.000 Bảng Anh. Nó được tái trang bị để đáp ứng các tiêu chuẩn của Canada, và được chuyển giao vào ngày 1 tháng 2 năm 1937. Con tàu được đổi tên thành HMCS St. Laurent và nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia Canada vào ngày 17 tháng 2. St. Laurent được phân về Halifax, Nova Scotia, và đến nơi vào tháng 5; ở lại đây trong một năm trước khi được chuyển sang Esquimalt vào năm 1938.
Vào ngày 9 tháng 6, St. Laurent được lệnh đi đến Le Havre, Pháp để triệt thoái binh lính Anh, nhưng không tìm thấy ai, nên nó giúp giải cứu một nhóm nhỏ binh lính Pháp phía trên bờ biển vào ngày 11 tháng 6. Con tàu chịu đựng hỏa lực của một khẩu đội pháo Đức gần Saint-Valery-en-Caux, nhưng không bị bắn trúng, và chỉ huy của con tàu, Thiếu tá Hải quân H.G. DeWolf, đã ra lệnh bắn trả cho dù kết quả không được ghi nhận. Sau khi quay về Anh, St. Laurent hộ tống nhiều đoàn tàu vận tải chở binh lính trong chặng cuối cùng của hành trình từ Canada, Australia và New Zealand vào giữa tháng 6, rồi được phân công nhiệm vụ hộ tống cùng Bộ chỉ huy Tiếp cận phía Tây sau đó.
Vào ngày 2 tháng 7, đang khi hộ tống thiết giáp hạm , St. Laurent nhận được tin chiếc tàu chở hành khách Anh SS Arandora Star không được hộ tống bị trúng ngư lôi phóng từ tàu ngầm Đức U-47 ở khoảng cách về phía Đông Bắc Malin Head, Ireland. Đến nơi khoảng bốn giờ rưỡi sau khi chiếc tàu biển chở hành khách bị chìm, nó đã vớt được 857 người sống sót, kể cả tù binh Đức và Ý. Cùng với chiếc tàu xà-lúp , nó đã gây hư hại nặng cho tàu ngầm U-52 đang khi hộ tống Đoàn tàu vận tải HX 60 vào ngày 4 tháng 8. Đến ngày 2 tháng 12, St. Laurent cứu vớt những người sống sót từ chiếc tàu buôn tuần dương vũ trang bị chìm do trúng ngư lôi từ chiếc U-99, cũng như của chiếc tàu chở dầu Conch.
Sau khi được tái trang bị tại Halifax từ ngày 3 tháng 3 đến ngày 11 tháng 7 năm 1941, St. Laurent được phân về Đội hộ tống 14 thuộc Lực lượng Hộ tống Newfoundland của Hải quân Hoàng gia Canada bảo vệ các đoàn tàu vận tải tại khu vực giữa Đại Tây Dương. St. Laurent được chuyển sang Lực lượng Hộ tống Giữa đại dương vào tháng 12, ở lại đây cho đến tháng 3 năm 1943. Nó trải qua một đợt tái trang bị kéo dài tại Halifax trong tháng 4-tháng 8 năm 1942.
Con tàu được tái trang bị tại Dartmouth, Nova Scotia từ ngày 17 tháng 8 đến ngày tháng 12 năm 1943. Vào ngày 10 tháng 3 năm 1944, St. Laurent, cùng với tàu khu trục Anh và các tàu frigate HMCS Owen Sound và HMCS Swansea, được ghi nhận đã đánh chìm tàu ngầm U-845 tại Bắc Đại Tây Dương. nhỏ|trái|HMCS St. Laurent vào cuối chiến tranh Đến tháng 5 năm 1944, nó được điều sang Đội hộ tống 11 để hỗ trợ cho cuộc Đổ bộ Normandy của phe Đồng Minh. Đúng ngày D 6 tháng 6 năm 1944, nó cùng các tàu khu trục Canada: HMCS Chaudière, HMCS Gatineau, HMCS Kootenay và HMCS Ottawa được bố trí tại lối ra vào eo biển Anh Quốc ngăn chặn các cuộc tấn công của tàu ngầm U-boat đối phương nhắm vào các đoàn tàu vận tải đổ bộ; rồi sau đó được bố trí cùng nhóm của nó tại vịnh Biscay trong các hoạt động chống tàu ngầm. Vào ngày 8 tháng 8, nó bị một quả bom lượn đối phương tấn công bất thành, và vào ngày 13 tháng 8, nó cùng Ottawa cứu vớt những người sống sót từ chiếc tàu ngầm U-270 vốn bị đánh chìm bởi mìn sâu thả từ một máy bay Sunderland. Những nhiệm vụ này kéo dài cho đến tháng 10, khi nó quay trở về Canada để tái trang bị. Việc đại tu tiến hành tại Shelburne, Nova Scotia kéo dài từ tháng 11 năm 1944 đến 20 tháng 3 năm 1945. Sau đó St. Laurent quay trở lại phục vụ tháng 4 năm 1945, được điều về Lực lượng Hộ tống Halifax với vai trò bảo vệ vận tải ngoài khơi bờ biển phía Đông Canada. Sau khi Đức đầu hàng vào ngày 6 tháng 5, nó được sử dụng vào việc vận chuyển binh lính hồi hương cho đến khi ngừng hoạt động vào ngày 10 tháng 10 năm 1945. St. Laurent được bán và tháo dỡ vào năm 1947.