✨Lexington (lớp tàu chiến-tuần dương)
Lớp _Lexington_ là lớp tàu chiến-tuần dương duy nhất được Hải quân Hoa Kỳ đặt hàng. Sáu chiếc trong lớp - được đặt những cái tên liên quan đến Chiến tranh Độc lập Hoa Kỳ - được vạch kế hoạch như một phần của Chương trình Phát triển Hải quân 1916 lớn lao, nhưng việc chế tạo chúng liên tục bị tạm dừng dành ưu tiên cho những tàu hộ tống và chống tàu ngầm. Trong khi bị trì hoãn, thiết kế của lớp được thay đổi nhiều lần; thoạt tiên được thiết kế để mang mười khẩu pháo 355 mm (14 inch)/50 caliber và 18 khẩu pháo 127 mm (5 inch)/51 caliber với tốc độ tối đa 35 knot; phiên bản thiết kế cuối cùng có tám khẩu pháo 406 mm (16 inch)/50 caliber Mark 2 và 16 khẩu pháo 152 mm (6 inch)/53 caliber với tốc độ tối đa 33,25 knot nhằm tăng cường hỏa lực và bảo vệ (việc giảm tốc độ tối đa chủ yếu là do việc bổ sung thêm vỏ giáp).
Trong khi việc chế tạo bốn chiếc trong lớp cuối cùng phải hủy bỏ và tháo dỡ vào năm 1922 để tuân thủ những quy định của Hiệp ước Hải quân Washington, hai chiếc (Lexington và Saratoga) được cải biến thành những tàu sân bay hạm đội đầu tiên của Hoa Kỳ. Cả hai đã được sử dụng rộng rãi trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, khi Lexington thực hiện nhiều cuộc không kích trước khi bị đánh chìm trong trận chiến biển Coral, và Saratoga tham chiến tại Thái Bình Dương và Viễn Đông. Cho dù bị ngư lôi đánh trúng trong hai dịp khác nhau, Saratoga đã sống sót đến hết cuộc chiến và chỉ bị đánh chìm như một mục tiêu thử nghiệm bom nguyên tử trong Chiến dịch Crossroads.
Thiết kế
Nguồn gốc
Ngay từ năm 1912, Hải quân Hoa Kỳ đã nghĩ đến việc chế tạo những chiếc tàu chiến-tuần dương mới nhằm đối chọi với bốn chiếc thuộc lớp Kongō mà Hải quân Đế quốc Nhật Bản đang chế tạo. Tuy nhiên, khi cân nhắc việc Quốc hội sẽ không chấp thuận chế tạo mọi chiếc tàu chiến-tuần dương nào mà không giảm bớt số thiết giáp hạm, Hải quân quyết định rằng những thiết giáp hạm, như là lớp Nevada mới thuộc thế hệ "Siêu-Dreadnought" mà việc chế tạo vừa mới được bắt đầu, là quan trọng hơn; vì Quốc hội - trong cái nhìn của Hải quân – đã không chấp thuận đủ số lượng thiết giáp hạm cần thiết. Vào năm 1903, Hải quân đề nghị Hoa Kỳ mỗi năm sẽ chế tạo hai chiếc thiết giáp hạm, nhưng Quốc hội từ chối, chấp thuận chỉ một chiếc cho năm 1904 (tài khóa 1905), hai chiếc vào năm 1905 (tài khóa 1906), một chiếc cho cả 1906 và 1907 (tài khóa 1907-1908), một chiếc cho cả 1912 và 1913 (tài khóa 1913-1914). Việc chấp thuận chế tạo hai chiếc thay vì một thuộc lớp New York vào năm 1910 (tài khóa 1911) rõ ràng là "một thứ vinh quang của cá nhân Bộ trưởng Hải quân von Lengerke Meyer".
Tuy nhiên, vào năm 1916, nước Mỹ ở trong tình thế phải chuẩn bị cho chiến tranh, và Hải quân Mỹ bắt đầu chế tạo nhiều kiểu tàu nhằm hỗ trợ cho cuộc đối đầu sắp đến. Trong năm này, Hải quân đã đặt lườn hai thiết giáp thuộc lớp Tennessee, mười tàu tuần dương thuộc lớp Omaha và 50 tàu khu trục thuộc lớp Wickes cùng những con tàu khác. Thêm vào đó, họ đặt hàng sáu chiếc tàu chiến-tuần dương mới thuộc lớp Lexington. Những con tàu này, cùng với các lớp Omaha và Wickes, được dự định trong thành phần lực lượng tuần tiễu nhanh đạt tốc độ 65 km/h (35 knot) sẽ hỗ trợ một hạm đội thiết giáp hạm lớn. Tuy nhiên, những con tàu này không được đặt lườn ngay lập tức, vì việc chế tạo các tàu chiến chủ lực phải tạm ngừng dành các ụ tàu cho việc chế tạo các tàu buôn và tàu khu trục trong chiến tranh chống tàu ngầm. với ký tự "CC" nhấn mạnh đến kiểu tàu chiến-tuần dương. Mặc dù lớp tàu này được vạch kế hoạch như là những tàu chiến-tuần dương đầu tiên của Hải quân Mỹ, chúng không phải là thiết kế hoàn toàn mới, nhưng là thiết kế mở rộng dựa trên các kiểu thiết kế tàu tuần dương 10.000 và 14.000 tấn sẵn có.
Khoảng năm 1918, các sĩ quan tham mưu Hải quân Mỹ tại Anh bị ấn tượng rất mạnh bởi chiếc tàu chiến-tuần dương mới của Anh Quốc HMS Hood (51) thuộc lớp Admiral. Vì con tàu này được mô tả như một "thiết giáp hạm nhanh", họ chủ trương Hoa Kỳ nên phát triển một lớp thiết giáp hạm nhanh của riêng mình. Trong khi nhiều bản phác thảo được thực hiện, Bộ hải quân cho rằng chúng sẽ khiến cho mọi lớp tàu chiến khác trở nên lỗi thời, nên họ kiên trì theo kiểu lớp South Dakota thông thường hơn. Tuy nhiên, những ý tưởng từ chiếc Hood được nhanh chóng tiếp thu và áp dụng vào lớp Lexington, bắt đầu một bản tái thiết kế cuối cùng cho lớp này. Những ảnh hưởng từ chiếc Hood được chứng tỏ qua việc giảm bớt độ dày đai giáp chính, chuyển đổi sang kiểu vỏ giáp nghiêng, và bổ sung thêm bốn ống phóng ngư lôi bên trên mặt nước cộng thêm vào số bốn ống phóng dưới nước vốn đã có trong thiết kế ban đầu. Các thay đổi khác bao gồm việc mở rộng thân tàu cho một hệ thống bảo vệ ngư lôi, và đai giáp đứng được tăng lên 228 mm (9 inch). Một kiểu nồi hơi mới cho phép giảm số lượng nồi hơi xuống còn 16. Một lần nữa, với số lượng ống thoát khí được giảm bớt, số ống khói lần này giảm xuống chỉ còn hai chiếc. Tuy nhiên, những cải tiến này lại làm gia tăng trọng lượng rẽ nước của con tàu lên đến 43.500 tấn, nặng hơn 300 tấn so với lớp thiết giáp hạm South Dakota đang được chế tạo, và nặng hơn 10.900 tấn so với lớp _Colorado'' trước đó. nhỏ|phải|Một bức tranh mô tả thiết kế cuối cùng của lớp Lexington với hai ống khói Tuy nhiên, một số vấn đề vẫn tồn tại, như được chứng minh bởi kinh nghiệm của chiếc tàu chiến-tuần dương Anh Quốc HMS Queen Mary trong trận Jutland; nó bị đánh chìm chỉ với một quả đạn pháo Đức duy nhất đã xuyên thủng lớp sàn tàu bọc thép 228 mm (9 inch) làm nổ tung một trong các hầm đạn của nó. Thiết kế của lớp Lexington yêu cầu một lớp vỏ giáp dày 76 mm (3 inch) trên nóc tháp pháo, chỉ đạt một phần ba so với chiếc Queen Mary.
Vũ khí
Thiết kế ban đầu của lớp Lexington trang bị dàn pháo chính gồm mười khẩu 355 mm (14 inch)/50 caliber kiểu Mark 4, 5 hoặc 6 được gắn trên bốn tháp pháo (hai tháp pháo ba nòng và hai tháp pháo nòng đôi). Được thiết kế vào năm 1916 và được đưa vào sử dụng năm 1918, những khẩu pháo này đã được trang bị cho các lớp thiết giáp hạm Tennessee và New Mexico.
Các thiết kế sau đó đề nghị kiểu pháo 406 mm (16 inch)/50 caliber Mark 2 hoặc Mark 3 vốn được dự định sẽ trang bị cho lớp thiết giáp hạm South Dakota (1920). Những kế hoạch sau này dự định sẽ trang bị chúng cho lớp thiết giáp hạm Iowa, nhưng việc thiếu sót thông tin giữa các phòng thiết kế đã khiến cho kiểu 406 mm (16 inch)/50 caliber Mark 7 được sử dụng thay thế. Kết quả là, tất cả số pháo Mark 2 và 3 còn lại ngoại trừ ba khẩu đều được chuyển cho Lục quân cũng để sử dụng trong vai trò phòng thủ duyên hải.
Về giàn hỏa lực hạng hai trên thiết kế nguyên thủy, lớp Lexington được trang bị 18 khẩu 127 mm (5 inch)/51 caliber. Kiểu vũ khí này thoạt tiên được trang bị cho các lớp thiết giáp hạm Florida và Wyoming, và sau đó trở thành hỏa lực hạng hai cho mọi thiết giáp hạm Mỹ được chế tạo trước Hiệp ước Hải quân Washington. Ngoài ra, nhiều tàu khu trục, tàu ngầm và tàu chiến phụ trợ được chế tạo trong giai đoạn này đã sử dụng chúng như giàn hỏa lực chính. Dàn pháo hạng hai sau đó được nâng cấp lên 14 khẩu 152 mm (6 inch) /53 caliber được bố trí trên các tháp súng nhỏ trong một đợt tái thiết kế. Những khẩu pháo này trở thành giàn hỏa lực chính trên lớp tàu tuần dương hạng nhẹ Omaha cùng các tàu ngầm Narwhal, Nautilus và Argonaut; và chúng trở thành dàn pháo hạng hai cho lớp thiết giáp hạm South Dakota.
Cải biến thành tàu sân bay
Công việc chế tạo những chiếc tàu chiến-tuần dương cuối cùng cũng được bắt đầu vào những năm 1920 và 1921, sau một giai đoạn trì hoãn kéo dài gần năm tháng. Tuy nhiên, vào tháng 7 năm 1921, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Charles Evans Hughes kêu gọi tổ chức một cuộc hội nghị tại Washington D.C. sẽ được tổ chức vào tháng 11. Mục tiêu đặt ra là nhằm kìm chế các chương trình phát triển hải quân đang gia tăng nhanh chóng và cực kỳ tốn kém tại nhiều nước. Đối với Hải quân, rõ ràng là những chiếc tàu chiến-tuần dương mới đắt tiền, bị một số người cho là đã lạc hậu, sẽ trở thành những đối tượng rất hấp dẫn để hủy bỏ. Vì thế, các nghiên cứu được thực hiện nhằm khảo sát các khả năng cải biến một hoặc nhiều chiếc tàu chiến-tuần dương cho các mục đích khác: một phương án chuyển đổi thành tàu sân bay, trong khi một phương án khác biến nó thành một tàu biển chở khách vượt Đại Tây Dương.
Mọi cuộc tranh luận về vấn đề cải biến chúng đều bị dập tắt khi Hiệp ước Hải quân Washington được ký kết. Theo những điều khoản của Hiệp ước, mọi tàu chiến chủ lực đang được chế tạo thuộc các nước tham gia ký kết (Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Pháp, Ý và Nhật Bản) phải hủy bỏ và tháo dỡ. Đối với các lớp tàu chiến-tuần dương, hạn chế này bao gồm lớp Lexington của Mỹ, lớp Amagi của Nhật Bản và lớp G3 của Anh. Tuy nhiên, Hiệp ước cho phép các nước tham gia giữ lại hai tàu chiến chủ lực đang chế tạo để cải biến chúng thành tàu sân bay. Nhưng ngay cả việc gia tăng thêm 6.000 tấn (từ 27.000 lên 33.000 tấn) vẫn hầu như không đủ cho việc cải biến- cần phải có một biện luận sáng tạo về một điều khoản trong Hiệp ước để cho phép cải biến mà không cần tháo bỏ phân nửa số động cơ, điều mà Hải quân Mỹ không muốn thực hiện.
Nếu không có điều khoản này, hai chiếc tàu sân bay sẽ gặp rắc rối lớn. Những ước lượng được thực hiện vào năm 1928 cho biết Lexington có trọng lượng rẽ nước thực là 35.689 tấn và Saratoga là 35.544 tấn; cho dù trong các tài liệu chính thức, con số được đưa ra là 33.000 tấn với một chú thích là: "[con số này] không bao gồm tải trọng cho phép theo Chương 11, điều 3, khoản 1, của Hiệp ước Washington cung cấp các phương tiện chống không kích và tàu ngầm". Con số về tải trọng này tiếp tục gắn liền trong suốt cuộc đời hoạt động của chúng.
- USS Constellation (CC-2) được đặt lườn tại Newport News, Virginia bởi hãng Newport News Shipbuilding vào ngày 18 tháng 8 năm 1920. Lườn tàu sau đó được tháo dỡ tại chỗ. vì công việc chế tạo nó tiến triển nhiều hơn (35,4% so với 22,7%).
- USS United States (CC-6) được đặt lườn tại Philadelphia, Pennsylvania, bởi Xưởng Hải quân Philadelphia vào ngày 25 tháng 9 năm 1920.