✨HMS Kempenfelt (I18)
HMS Kempenfelt (I18) là một tàu khu trục lớp C được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Là một soái hạm khu trục, nó đã phục vụ cho Hạm đội Nhà trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, từng được bố trí đến vùng biển Tây Ban Nha do cuộc Nội chiến tại đây để thực thi việc cấm vận vũ khí cho cả hai phe xung đột do Pháp và Anh chủ trương. Kempenfelt được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Canada vào năm 1939 và đổi tên thành HMCS Assiniboine. Trong Thế Chiến II, nó hoạt động hộ tống các đoàn tàu vận tải trong Trận Đại Tây Dương, đánh chìm một tàu ngầm Đức, tuần tra chống tàu ngầm trong cuộc đổ bộ Normandy, và sau chiến tranh được dùng làm tàu chở binh lính để hồi hương binh lính Canada từ Châu Âu trước khi ngừng hoạt động vào giữa năm 1945. Assiniboine bị bán để tháo dỡ cùng năm đó, nhưng bị mắc cạn lúc đang được kéo đi tháo dỡ, và chỉ hoàn tất việc tháo dỡ tại chỗ vào năm 1952.
Thiết kế và chế tạo
Kempenfelt có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , và lên đến khi đầy tải. Nó có chiều dài chung , mạn thuyền rộng và mớn nước . Con tàu được cung cấp động lực bởi hai turbine hơi nước hộp số Parsons, dẫn động hai trục chân vịt, tạo ra công suất cho phép đạt tốc độ tối đa . Hơi nước cho turbine được cung cấp bởi ba nồi hơi ống nước Yarrow hoạt động ở áp suất . Kempenfelt mang theo tối đa dầu đốt cho phép nó có tầm xa hoạt động ở tốc độ đường trường . Thành phần thủy thủ đoàn bao gồm 175 sĩ quan và thủy thủ.
Chiếc tàu khu trục được trang bị bốn khẩu pháo QF Mk IX trên các tháp pháo đơn, được đặt tên 'A', 'B', 'X' và 'Y' tuần tự từ trước ra sau. Cho mục đích phòng không, Kempenfelt có một khẩu QF 3 inch 20 cwt giữa hai ống khói và hai khẩu QF 2-pounder Mk II phía sau sàn trước. Pháo 3-inch được tháo dỡ vào năm 1936, và các khẩu 2-pounder được tái bố trí trên các bệ giữa hai ống khói. Nó còn được trang bị hai bệ ống phóng ngư lôi bốn nòng trên mặt nước dùng cho ngư lôi . Ba cầu trượt được dùng để thả mìn sâu, mỗi chiếc chứa được hai quả mìn. Sau khi Thế Chiến II nổ ra, số mìn sâu mang theo được tăng lên 33 quả, được thả bởi một hoặc hai đường ray và hai máy phóng. nhỏ|trái|HMCS Assiniboine vào lúc cuối chiến tranh, với radar Kiểu 271 trên cầu tàu, cối chống tàu ngầm Hedgehog bên phải tháp pháo 'A' và pháo phòng không Oerlikon 20 mm bên cánh cầu tàu. Các cải biến cho Assiniboine trong chiến tranh thoạt tiên bao gồm việc thay thế dàn ống phóng ngư lôi phía sau bằng một khẩu pháo phòng không 12-pounder, và các khẩu 2-pounder được thay bằng súng máy Vickers.50 phòng không Mk I bốn nòng. Sau đó, tháp pháo 'Y' được tháo dỡ lấy chỗ để chứa thêm mìn sâu lên ít nhất 60 quả. Tháp pháo 'X' sau đó cũng được tháo dỡ, khẩu 12-pounder được chuyển đến vị trí này để tăng thêm chỗ mang mìn sâu. Cải biến tiếp theo là việc trang bị một dàn cối Hedgehog chống tàu ngầm, được tách ra làm đôi gắn hai bên tháp pháo 'A'; thay thế hai dàn súng máy.50 calibre Vickers giữa hai ống khói bởi hai khẩu Oerlikon 20 mm phòng không và bổ sung hai khẩu Oerlikon khác trên bệ đèn pha. Bộ điều khiển hỏa lực và máy đo tầm xa đặt trên nóc cầu tàu được thay thế bằng radar dò tìm mục tiêu Kiểu 271. Một bộ radar bước sóng mét Kiểu 286 dò tìm mặt đất tầm ngắn cũng được bổ sung cùng thiết bị định vị vô tuyến Huff-Duff đặt trên một cột ăn-ten ngắn.
Kempenfelt được đặt hàng vào ngày 15 tháng 7 năm 1930 tại xưởng tàu của hãng J. Samuel White ở Cowes trong Kế hoạch Chế tạo 1929. Nó được đặt lườn vào ngày 18 tháng 10 năm 1930, hạ thủy vào ngày 30 tháng 9 năm 1931 như là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Anh mang cái tên này, và hoàn tất vào ngày 30 tháng 5 năm 1932. Nó đặt căn cứ tại Rosyth trong hầu hết năm 1932, viếng thăm Địa Trung Hải từ tháng 1 đến tháng 3 năm 1933 trước khi quay trở về nhà, và được tái trang bị tại Devonport, hoàn tất vào tháng 1 năm 1934. Không lâu sau đó, Kempenfelt tham gia chuyến đi của Hạm đội Nhà đến Tây Ấn kết thúc vào tháng 3. Con tàu viếng thăm nhiều cảng tại khu vực Scandinavia trong thời gian còn lại của năm; Sau khi Ý xâm chiếm Abyssinia vào năm 1935, Kempenfelt cùng các tàu khác của Chi hạm đội 2 được gửi đến Hồng Hải vào tháng 8 để theo dõi sự cơ động của tàu chiến Ý cho đến tháng 4 năm 1936. Nó trải qua một đợt tái trang bị ngắn tại Devonport kéo dài cho đến tháng 6 sau khi quay trở về Anh. Trong giai đoạn đầu của cuộc Nội chiến Tây Ban Nha vào cuối năm 1936, con tàu đã giúp di tản kiều dân Anh khỏi nhiều cảng Tây Ban Nha.
Vào tháng 12, Kempenfelt bắt đầu một đợt tái trang bị rộng rãi tại Devonport kéo dài cho đến ngày 10 tháng 4 năm 1937, rồi quay trở lại vùng biển Tây Ban Nha làm nhiệm vụ phong tỏa tàu bè chở vũ khí cho các phe xung đột và bảo vệ tàu bè mang cờ Anh. Nó được sửa chữa tại Xưởng tàu Chatham trong tháng 5–tháng 6 năm 1938, và thực hiện một số chuyến viếng thăm các cảng Bắc Âu trong tháng tiếp theo. Kempenfelt được chuyển sang Chi hạm đội Portsmouth, và tiếp tục ở lại đây cho đến khi chiến tranh nổ ra vào tháng 9 năm 1939.
Được phân về Trạm Bắc mỹ và Tây Ấn, con tàu đánh dấu việc phục vụ tại vùng Caribe bằng việc chặn bắt chiếc tàu vượt phong tỏa Đức MV Hannover tại eo biển Mona giữa các đảo Hispaniola và Puerto Rico trong đêm 8-9 tháng 3 năm 1940. Thoạt tiên bị chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ ngăn chặn, thủy thủ của Hannover đã vô hiệu hóa bánh lái và bắt đầu đốt tàu. Assiniboine đã kéo con tàu đang cháy để khỏi lọt vào vùng biển của Cộng hòa Dominica trung lập trong khi chiếc tàu tuần dương phun nước chữa cháy. Hai con tàu tráo đổi nhiệm vụ vào lúc sáng, và chiếc tàu khu trục đưa một số thủy thủ lên Hannover giúp đội của Dunedin dập lửa trong khi chiếc tàu tuần dương kéo chiếc tàu chở hàng đến Kingston. Assiniboine đi đến Halifax vào ngày 31 tháng 3 để tái trang bị.
Sau khi hoàn tất việc sửa chữa, con tàu đã hộ tống các đoàn tàu vận tải tại chỗ và chung quanh Halifax cho đến ngày 15 tháng 1 năm 1941, khi được chuyển đến Greenock và biên chế vào Đội hộ tống 10 thuộc Lực lượng Hộ tống Giữa đại dương đặt căn cứ tại đây. Assiniboine đã cứu vớt những người sống sót trên chiếc SS Anchises vào ngày 28 tháng 2, nhưng bị hư hại do va chạm với chiếc MV Lairdswood vào ngày 5 tháng 4; việc sửa chữa chỉ hoàn tất vào ngày 22 tháng 5, và nó được chuyển sang St. John's, Newfoundland vào tháng 6 để tăng cường cho lực lượng hộ tống tại phía Tây Đại Tây Dương. nhỏ|phải|U-210, ảnh chụp từ sàn tàu Assiniboine, [[6 tháng 8 năm 1942]] Đang khi hộ tống Đoàn tàu vận tải SC 94 vào đầu tháng 8 năm 1942 trong thành phần Đội hộ tống C1, radar Kiểu 286 trên Assiniboine đã phát hiện tàu ngầm Đức Quốc xã U-210 vào ngày 6 tháng 8 trong sương mù dày đặc. Chiếc tàu khu trục tiếp cận đối phương, hai lần trông thấy thoáng qua chiếc tàu ngầm trước khi lẫn khuất vào sương mù. Đối thủ lại xuất hiện cắt ngang mũi chiếc tàu khu trục ở khoảng cách , và cả hai con tàu đồng thời nổ súng. Khoảng cách này quá gần khiến các khẩu pháo 4,7 inch của Assiniboine không thể tham chiến, nhưng các súng máy.50-calibre đã nhắm vào sàn tàu và tháp chỉ huy, khiến phía Đức không thể vận hành khẩu pháo , cho dù khẩu pháo flak phòng không đã khai hỏa. Hỏa lực này bắn thủng thành chiếc tàu khu trục, khiến một số thùng nhiên liệu bốc cháy và loại bỏ tháp pháo 'A' khỏi chiến đấu. Chiếc tàu khu trục không thể húc vào U-210 cho đến khi khẩu pháo 4,7 inch phía đuôi bắn trúng tháp chỉ huy, giết chết toàn bộ thành viên trên cầu tàu, và súng máy.50-calibre đã khiến khẩu pháo flak im tiếng. Điều này đã khiến cho Trung úy Sorber, sĩ quan cao cấp nhất sống sót trên U-210, ra lệnh cho chiếc tàu ngầm lặn xuống, nhưng điều này có nghĩa là nó phải giữ một hướng đi thẳng khi làm việc đó. Assiniboine tận dụng ưu thế này, húc trúng U-210 phía sau tháp chỉ huy khi nó đang lặn, làm hỏng động cơ điện, hư hại chân vịt và khiến nước tràn vào chiếc tàu ngầm. Sober ra lệnh cho nổ các thùng dằn và bỏ tàu. Chiếc tàu khu trục lại húc trúng lần nữa khi U-210 nổi lên mặt nước, thả một loạt mìn sâu được cài để nổ ở tầm nước nông, và bắn trúng thêm một phát đạn pháo 4,7 inch trước khi chiếc tàu ngầm cuối cùng bị chìm. Nó mất gần hai tháng sửa chữa tại Halifax, rồi được phân về Đội hộ tống C3 sau khi hoàn tất vào ngày 20 tháng 12.
Trên đường đi đến Londonderry, Assiniboine thả một loạt mìn sâu theo sơ đồ nông sau khi phát hiện tàu ngầm, và bị hư hại nặng đuôi tàu vào ngày 2 tháng 3 năm 1943. Con tàu được sửa chữa tại Liverpool từ ngày 7 tháng 3 đến ngày 13 tháng 7, rồi được phân về Đội hộ tống C1. Nó tiếp tục công việc hộ tống cho đến tháng 4 năm 1944 khi nó bắt đầu được đại tu tại Shelburne, Nova Scotia. Sau khi hoàn tất vào tháng 7, Assiniboine được phân về Bộ chỉ huy Tiếp cận phía Tây. Nó tiếp tục ở lại vùng biển Anh cho đến hết chiến tranh, bị hư hại do va chạm với chiếc SS Empire Bond vào ngày 14 tháng 2 năm 1945, và phải sửa chữa cho đến đầu tháng 3.
Assiniboine quay trở về Canada vào tháng 6, và được sử dụng một thời gian ngắn như tàu chở quân, cho đến khi một phòng nồi hơi của nó cháy vào ngày 4 tháng 7, đặt dấu chấm hết cho quãng đời hoạt động. Nó ngừng hoạt động vào ngày 8 tháng 8, và đưa vào danh sách loại bỏ. Trên đường được kéo đến xưởng tháo dỡ ở Baltimore, nó bị mắc cạn gần East Point, đảo Prince Edward. Nỗ lực kéo Assiniboine đi bị thất bại, và nó bị bỏ xó trong tình trạng rỉ sét cho đến khi được tháo dỡ tại chỗ vào năm 1952.