✨Tribal (lớp tàu khu trục) (1936)
Lớp tàu khu trục Tribal, còn được gọi là lớp _Afridi_, là một lớp tàu khu trục được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh, Canada và Australia ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Xuất phát từ một thiết kế thất bại về một kiểu tàu tuần dương hạng nhẹ dành cho hạm đội, Những chiếc thuộc lớp Tribal được thủy thủ đoàn và công luận tán thưởng trong hoạt động nhờ sức mạnh của chúng, thường trở thành biểu tượng gây thanh thế trong phục vụ.
Là một trong những lớp tàu khu trục hiện đại và mạnh mẽ nhất của Hải quân Hoàng gia, lớp Tribal đã phục vụ một các nổi bật hầu như trên mọi mặt trận của Thế Chiến II. Chỉ có một nhóm nhỏ thuộc Hải quân Hoàng gia Anh sống sót qua chiến tranh, tất cả đều bị tháo dỡ do đã bị sử dụng quá mức. Những chiếc lớp Tribal khác của các nước trong khối Thịnh Vượng Chung tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh lạnh, và hoạt động nổi bật trong Chiến tranh Triều Tiên. Chỉ có một chiếc lớp Tribal còn sống sót cho đến hôm nay: HMCS Haida, hiện là một tàu bảo tàng tại Hamilton Harbour, Ontario, Canada.
Lịch sử thiết kế
Từ năm 1926, mọi tàu khu trục của Hải quân Hoàng gia đều là sự phát triển kế thừa tiếp nối nhau dựa trên hai chiếc nguyên mẫu và . Trong những năm giữa hai cuộc thế chiến, sự phát triển về vũ khí và động lực đã khiến cho đến giữa những năm 1930, các tàu khu trục "tiêu chuẩn sau thế chiến" của Anh bị các thiết kế của nước ngoài lấn át, đặc biệt là của Nhật Bản, Đức và Ý. Kiểu tàu khu trục này dựa trên "Thiết kế V", một thiết kế thất bại về một kiểu tàu tuần dương hạm đội nhỏ, mà một biến thể của thiết kế này đã trở thành lớp tàu tuần dương Dido. Thiết kế dự kiến một con tàu tải trọng , có tốc độ , tầm xa hoạt động , và một dàn pháo chính gồm năm khẩu .
Mặc dù thiết kế này bị từ chối cho vai trò một tàu tuần dương hạm đội, Chúng cũng được trang bị một dàn phóng ngư lôi bốn nòng. Ba nồi hơi ống nước Admiralty hoạt động ở áp lực nhiệt độ cung cấp hơi nước cho các turbine Parsons với hộp số giảm tốc đơn cấp, dẫn động hai trục chân vịt, tạo ra công suất ở tốc độ vòng xoay 350 rpm. Công suất này đủ cho con tàu di chuyển với tốc độ tối đa . Con tàu mang theo 525 tấn dầu đốt, cung cấp tầm xa hoạt động ở tốc độ đường trường hoặc ở tốc độ . Thủy thủ đoàn của con tàu bao gồm 190 sĩ quan và thủy thủ. Vũ khí ngư lôi bao gồm một bệ bốn nòng vận hành bằng điện mang ngư lôi Mk. IX; và vũ khí chống tàu ngầm gồm hai máy phóng và một đường ray thả mìn sâu, với tổng cộng 30 quả mìn được mang theo.
Chế tạo
Hải quân Hoàng gia Anh đã đặt hàng bảy chiếc lớp Tribal vào ngày 10 tháng 3 năm 1936, cùng một đợt thứ hai gồm chín chiếc vào ngày 9 tháng 6 cho một lực lượng gồm hai chi hạm đội. Đặt hàng của Canada bao gồm bốn chiếc tại các xưởng đóng tàu Anh vào năm 1940 (hoàn tất vào năm 1942 và 1943); cùng bốn chiếc khác tại các xưởng đóng tàu Canada ở Halifax vào năm 1942. Những chiếc sau này chỉ hoàn tất sau khi chiến tranh kết thúc.
Tổng cộng từ năm 1937 đến năm 1945, hai mươi bảy chiếc thuộc lớp Tribal đã được chế tạo. Chi phí ước lượng của mỗi chiếc là vào khoảng 340.000 Bảng Anh không kể vũ khí, và chi phí chung là khoảng 520.000 Bảng Anh. Vũ khí phòng không tầm gần gồm một dàn pháo 2-pounder bốn nòng và hai dàn súng máy Vickers bốn nòng là một bước tiến đáng kể so với các lớp tàu khu trục trước đó và mạnh hơn vũ khí tầm gần của hầu hết tàu khu trục các nước khác vào năm 1939. Tuy nhiên, trước chiến tranh, Hải quân Hoàng gia suy đoán rằng các tàu khu trục sẽ hoạt động chủ yếu như là tàu hộ tống cho hạm đội chiến trận, Cột ăn-ten chính được cắt ngắn và ống khói phía sau được hạ thấp để cải thiện góc bắn vũ khí phòng không. Khi đã sẵn có, pháo tự động Oerlikon 20 mm phòng không được tăng cường, trước tiên là bổ sung, và sau đó là thay thế cho súng máy 0.5 inch. Trữ lượng mìn sâu mang theo cũng tăng thêm, từ 30 lên 46 quả.
Đến năm 1944, bốn chiếc lớp Tribal của Anh còn sống sót được trang bị một cột ăn-ten trước cao dạng lưới để mang radar Kiểu 293 chỉ thị mục tiêu và radar Kiểu 291 cảnh báo trên không, cùng một radar Kiểu 285 được bổ sung vào bộ điều khiển-đo tầm xa. Hai chiếc đầu tiên do Canada chế tạo, Micmac và Nootka, được trang bị ba bệ pháo nòng đôi và một bệ nòng đôi như là tiêu chuẩn vào thời đó, với bệ pháo được trang bị điều khiển kíp nổ phòng không cải tiến; trong khi hai chiếc Tribal do Canada chế tạo sau cùng có tám nòng pháo QF 4-inch Mk XVI R.P.C. và từ bốn đến sáu khẩu Bofors 40 mm như là tiêu chuẩn, cùng một bộ điều khiển hỏa lực Mk VI. một cặp súng cối Squid để chống tàu ngầm, cùng một khẩu đội /50 Mark 33 nòng đôi tại vị trí "X" để phòng không. Cảm biến radar và sonar cũng được nâng cấp cho vai trò mới, và sau khi tái trang bị, những chiếc Tribal của Canada đã tiếp tục phục vụ cho đến những năm 1960. Khẩu pháo tận cùng phía đuôi được tháo dỡ, chỗ trống được cải thiện để trang bị súng cối Squid chống tàu ngầm. Những giới hạn ngân sách đã khiến cho việc hiện đại hóa chiếc Tribal thứ ba của Australia, Bataan, không được thực hiện; và một sự kết hợp của việc thiếu hụt nhân lực và tình trạng lạc hậu nhanh chóng đã khiến cho cả ba chiếc trong lớp được cho ngừng hoạt động vào cuối những năm 1950. đây là lần đổ bộ lên tàu đối phương cuối cùng của Hải quân Hoàng gia. Gurkha bị mất sớm trong chiến tranh khi bị máy bay ném bom Đức đánh chìm ngoài khơi Stavanger. Bedouin, Punjabi, Eskimo và Cossack tham gia trận Narvik thứ hai, nơi Eskimo bị thổi tung mũi tàu.
1941
Vào tháng 5 năm 1941, Somali, Bedouin và Eskimo cùng với tàu khu trục lớp N Nestor và các tàu tuần dương , và đã bắt giữ chiếc tàu khảo sát thời tiết Đức München, chiếm được các bảng giải mật mã Enigma. Cũng trong tháng đó, Zulu, Sikh, Cossack và Maori đụng độ với thiết giáp hạm Đức Bismarck, trong khi Mashona bị máy bay Đức đánh đắm trong các hoạt động này. Tại Địa Trung Hải, Mohawk bị mất trong thành phần Lực lượng K do trúng ngư lôi từ tàu khu trục Ý Luca Tarigo vào tháng 4, trong khi Cossack, Sikh, Zulu và Maori tham gia Chiến dịch Substance, một đoàn tàu tăng viện giải vây cho Malta đang bị phong tỏa. Cossack trúng ngư lôi từ tàu ngầm U-boat Đức U-563 vào tháng 10 trong khi hộ tống cho Đoàn tàu HG 74 tại Đại Tây Dương về phía Tây Gibraltar, và bị đắm sau đó đang khi được kéo đi. Maori và Sikh nằm trong số những người chiến thắng trong Trận mũi Bon vào tháng 12.
1942
Vào năm 1942, Matabele đắm do trúng ngư lôi từ tàu ngầm U-boat U-454 trong biển Barents; Maori bị một quả bom đánh trúng phòng động cơ đang khi neo đậu tại Grand Harbour, Valletta, Malta vào tháng 2, nó bốc cháy và sau đó nổ tung tại nơi neo đậu. Punjabi bị đắm do bị thiết giáp hạm Anh húc phải vào tháng 5 trong lúc đang làm nhiệm vụ hộ tống khi sương mù dày đặc. Đến tháng 6, Bedouin bị loại khỏi vòng chiến sau khi đụng độ với các tàu tuần dương Raimondo Montecuccoli và Eugenio di Savoia của Hải quân Ý trong Chiến dịch Harpoon; Cũng trong tháng đó, Somali trúng ngư lôi từ tàu ngầm U-boat U-703 đang khi hộ tống cho Đoàn tàu QP 14 quay trở về từ Nga. Mặc dù được kéo đi, nó đắm bốn ngày sau đó do biển động mạnh làm vỡ lườn tàu. thumb|right|Một [[tem bưu chính Canada năm 1944 trình bày một tàu khu trục lớp Tribal]] Những chiếc lớp Tribal của Canada cũng hoạt động tích cực: Athabaskan bị trúng một quả bom lượn Đức đang khi hoạt động trong khu vực vịnh Biscay, và bị loại khỏi vòng chiến trong hơn ba tháng, trong khi hộ tống nhiều đoàn tàu vận tải Bắc Cực.
1944
Eskimo, Ashanti, Athabaskan, Haida, Huron, Nubian, Tartar và sau đó là Iroquois đã hoạt động tích cực trong khu vực eo biển Manche trước và sau Chiến dịch Overlord, đánh chìm hay làm hư hại một loạt tàu đối phương.
Đến tháng 4, Athabaskan và Haida đụng độ với hai tàu phóng lôi E-boat Đức trong eo biển Manche. Athabaskan bị đánh chìm bởi một quả ngư lôi từ chiếc T24, trong khi Haida truy đuổi T-27 buộc đối phương phải mắc cạn; Ngoài ra, Haida và Eskimo cũng đánh chìm tàu ngầm U-boat Đức U-971 bằng mìn sâu và hải pháo tầm gần, cứu được 53 người sống sót. Sau đó, Eskimo mắc tai nạn va chạm với tàu khu trục Javelin khiến nó bị loại khỏi hoạt động mất 5 tháng.
Sau cuộc đổ bộ Normandy, Nubian được gửi đi hộ tống các tàu chiến thuộc Hạm đội Nhà tham gia vào việc bảo vệ Đoàn tàu JW 59 đi Nga cũng như bảo vệ các cuộc không kích từ tàu sân bay nhắm vào thiết giáp hạm Đức Tirpitz và các mục tiêu khác tại Na Uy. Iroquois và Haida đã gặp gỡ tàu tuần dương thuộc lực lượng Pháp Tự do Jeanne d'Arc vốn đã đi từ Algiers đến Cherbourg chuyên chở Chính phủ lâm thời Pháp. Iroquois sau đó hộ tống cho chiếc tàu biển chở hành khách đưa Thủ tướng Winston Churchill đi dự Hội nghị Quebec thứ hai.
1945
Eskimo, Nubian và Tartar trải qua đợt tái trang bị nhỏ và nhiệt đới hóa trước khi được gửi đi gia nhập Hạm đội Đông tại Ấn Độ Dương khi chiến tranh tại Đại Tây Dương đi vào giai đoạn kết thúc. Tại đây, chúng tham gia hộ tống các đơn vị chủ lực của Hải quân Hoàng gia và bắn phá bờ biển. Sau đó, Nubian và Tartar nằm trong lực lượng dự phòng trong Trận chiến eo biển Malacca, nơi tàu tuần dương Nhật Haguro bị đánh chìm. Eskimo và Nubian sau đó hoạt động tuần tra chống tàu bè, đánh chìm một tàu buôn Nhật và một tàu săn tàu ngầm gần Sumatra. Đây là hoạt động mặt biển chống tàu nổi đối phương sau cùng của Hải quân Hoàng gia trong Thế Chiến II. Đến tháng 7, Nubian và Tatar chuẩn bị cho Chiến dịch Zipper, một kế hoạch đổ bộ lực lượng Anh lên Malaya.
Trong giai đoạn này, những chiếc lớp Tribal của Canada cũng hoạt động tích cực: Haida, Huron và Iroquois đã hộ tống các đoàn tàu vận tải đi sang Nga cho đến tháng 5 năm 1945, khi Đức đầu hàng. Sau đó chúng tham gia hộ tống các tàu chiến Anh giải phóng Na Uy sau khi Đức đầu hàng. Iroquois sau đó tham gia cùng các tàu tuần dương Anh , và tàu khu trục Savage tại Copenhagen, rồi hướng đến Wilhelmshaven, để hộ tống cho các tàu tuần dương Đức Prinz Eugen và Nürnberg đầu hàng. Sau đó, những chiếc Tribal Canada quay trở về cảng Halifax để tái trang bị nhiệt đới hóa nhằm hoạt động tại Viễn Đông, nhưng công việc bị hủy bỏ do Nhật Bản đầu hàng vào tháng 8 năm 1945, và được đưa về lực lượng dự bị.
Sau chiến tranh
Hai mươi ba chiếc lớp Tribal đã được chế tạo trước và trong Thế Chiến II: mười sáu chiếc cho Hải quân Hoàng gia Anh, bốn chiếc cho Hải quân Hoàng gia Canada và ba chiếc cho Hải quân Hoàng gia Australia. Mười ba chiếc đã bị mất trong chiến tranh: gồm sáu chiếc của Anh bởi không kích, bốn của Anh và một của Canada do tấn công bằng ngư lôi, một của Anh do hỏa lực phòng thủ duyên hải ngoài khơi Tobruk, và một của Anh do va chạm với một thiết giáp hạm Anh. thumb|right|[[HMCS Haida (G63)|HMCS Haida, tàu bảo tàng tại Hamilton, Ontario]] Bốn chiếc của Anh còn sống sót được cho ngừng hoạt động và tháo dỡ trong những năm 1948 và 1949, Trong khi những chiếc lớp Tribal của Canada và Australia được tái trang bị và hiện đại hóa để phục vụ sau chiến tranh. Bốn chiếc vẫn đang được tiếp tục chế tạo tại Canada khi Thế Chiến II kết thúc được hoàn tất và hiện đại hóa, trong khi năm chiếc đang được chế tạo tại Australia bị hủy bỏ.
Các con tàu của Canada và Australia, ngoại trừ Micmac, đã hoạt động trong Chiến tranh Triều Tiên, khi mà Bataan vào một lúc đã hộ tống cho chiếc tàu sân bay hạng nhẹ Hoa Kỳ cùng tên. Những chiếc lớp Tribal của Canada và Australia đã tiếp tục hoạt động cho đến cuối những năm 1950 và đầu những năm 1960, khi chúng dần dần được cho ngừng hoạt động và bị bán để tháo dỡ.
Chỉ có một chiếc trong lớp được giữ lại. HMCS Haida được bảo tồn và neo đậu tại cảng Hamilton, Ontario, Canada như một tàu bảo tàng. Mũi của chiếc , bị máy bay Đức đánh chìm vào ngày 12 tháng 2 năm 1942, nằm ở độ sâu bên dưới mặt biển tại cảng Marsamxett, Valletta, Malta, và là một địa điểm lặn thường xuyên.