✨Lịch sử Lào (sau năm 1945)
Bài viết này trình bày chi tiết về lịch sử của Lào kể từ sau năm 1945.
Thế chiến 2
Xứ ủy Ai Lao, phân bộ của Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập vào năm 1936, trong thời kỳ này hoạt động của Đảng Cộng sản Đông Dương trong chính trị của Lào mang tính chất tuyên truyền, truyền bá chủ nghĩa cộng sản,... là chủ yếu. Các hoạt động chính để Lào độc lập đến từ chính trị triều đình phong kiến trong các vương quốc nhỏ của Lào.
Sau khi Nhật Bản tiến vào Lào, lực lượng Pháp tại đây ngày càng suy yếu, quyền kiểm soát ở Lào dần rơi vào tay người Nhật. Thái Lan đã tổ chức một số cuộc tấn công thăm dò lực lượng Pháp (Chiến tranh Pháp-Thái 1940-41) xung quanh các khu vực Pakse, Champasak và Xayabury. Nhật Bản đã đứng trung gian làm hòa giải cho Thái Lan và Pháp, theo đó một số vùng đất của Lào và Campuchia được trao cho Thái Lan theo thỏa thuận hòa bình. Điều này đã gây ra bất bình trong giới tinh hoa Lào thường thân Pháp, vì họ không có đại diện nào tham gia vào việc đàm phán này.
Sự gia tăng ảnh hưởng của Nhật Bản ở Lào cũng đã khuyến khích tinh thần chủ nghĩa dân tộc - tại Viêng Chăn năm 1941 Charles Rochet và một nhóm trí thức người Lào đã thành lập một tạp chí có tên là "Lao Nhay" (Nước Lào vĩ đại), nơi truyền bá tư tưởng chủ nghĩa dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Pramoj Seni (Đại sứ Thái Lan tại Washington, người đã từ chối trình bày lời tuyên chiến của Thái với Mỹ), Cơ quan Tình báo Chiến lược Mỹ (OSS, tiền thân của CIA) đã thành lập một phong trào chống Nhật được gọi là "Seri Thai" (Thái tự do). Máy bay đã thả vũ khí và thiết bị để chuyển cho cơ quan này, điều này đã hình thành một hệ thống du kích ở Thái Lan. Tuy nhiên, có nhiều thành viên gốc Lào chống Bangkok nhiều như chống Nhật. Mục đích thực sự của họ là sử dụng tình trạng hỗn loạn sau thất bại của quân Nhật để thành lập một nhà nước "Đại Lào", hợp nhất nước Lào ở Đông Dương thuộc Pháp và các tỉnh Đông Bắc Thái Lan thành một nước Lào thống nhất. Ít nhất thì ban đầu họ có được sự hậu thuẫn từ Hoa Kỳ. Tách khỏi Seri Thai, họ thành lập "Lao Pen Lao" (LPL - người Lào vì Lào), và đã thu hút được nhiều thành viên tham gia, trong đó có các hoàng thân và quan lại làm việc cho Pháp có học thức người Lào, đặc biệt là những người ở phía nam Lào lo sợ sự thống trị của Luang Prabang ở phía bắc. Vào tháng 2 năm 1945, Lao Pen Lao thành lập một tổ chức chống thực dân được gọi là "Sannibat lao ekkalat" (Liên đoàn Lào Độc lập).
Lào độc lập (1945-1950)
Vương quốc Lào
nhỏ|phải|Hoàng thân Phetsarath Ratanavongsa Tháng 3 năm 1945, Nhật Bản lật đổ ách thống trị của Pháp trên toàn cõi Đông Dương, bao gồm Lào. Vào ngày 8 tháng 4 năm 1945, Vua Sisavang Vong và Vương thân Phetsarath đã tuyên bố rằng vương quốc Luang Phrabang không còn là một chính quyền do Pháp bảo hộ, Nhật Bản trao trả độc lập cho Lào trên danh nghĩa. Trong khi Phetsarath là thành viên của Lao Pen Lao, thì vua Sisavang Vong là người thân Pháp, và chỉ từ bỏ sự bảo hộ khi bị Nhật Bản ép buộc và theo sự thúc giục của Vương thân Phetsarath. Tuy nhiên, vào ngày 28 tháng 8 năm 1945, Nhật Bản đầu hàng.
Từ những năm 1941, Phetsarath đã xây dựng Vệ binh Dân sự Viêng Chăn (Thống sứ Lào biết điều này, nhưng bất lực để can thiệp). Sau khi đầu hàng, người Nhật ở Lào đã bàn giao vũ khí cho lực lượng Phetsarat vào ngày 27 tháng 8 năm 1945, và Vương thân quyết định điện cho người em cùng cha khác mẹ là Hoàng thân Chao Souphanouvong, người đang ở Việt Nam (đã gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh - OSS đã cung cấp một chiếc máy bay để đưa ông từ Vinh nơi ông ở để gặp Bác Hồ ở Hà Nội), về nước để chỉ huy các lực lượng vũ trang dân tộc. Souphanouvong đến Savannakhet vào ngày 6 tháng 10 năm 1945 và phát hiện ra rằng nhánh phía nam của Lao Pen Lao đã thiết lập quân có vũ trang ở đây, dưới sự chỉ huy của Oun Sananikone (người từng là sĩ quan trong Quân đội Thái Lan trong Chiến tranh Pháp-Thái) và Phoumi Nosavan (trước đây là Thư ký của Sureté). Vào ngày 8 tháng 10 tại Thakhek, Souphanouvong thành lập Quân đội Giải phóng và Phòng vệ Lào (Armée de libération et de défense Lao - ALDL) từ đội cận vệ riêng của ông, đội quân dưới quyền gồm quân của Sananikone và Nosavan, Cận vệ Đông Dương (Garde Indochinoise - dân quân bản địa) ở Thakhek, và Vệ binh Dân sự Viêng Chăn. Hoàng thân trở thành Tổng tư lệnh, với Sananikone là phó tư lệnh (Aide-de-camp) và Nosavan là Tham mưu trưởng.
Các thành viên Lao Pen Lao phía nam đã thành lập một Ủy ban để kiểm soát khu vực này vào ngày 8 tháng 10, vào ngày 9 một cơ quan tương tự đã được thành lập tại Viêng Chăn. Những người này đồng ý hợp nhất dưới quyền Phetsarat, người đã tuyên bố Lào độc lập dưới một chính phủ mới gọi là Lao Issara ("Lào tự do" - LI, đôi khi được gọi là Lao Itsala), và Chính phủ lâm thời này (dưới quyền của Khammao Vilay, tỉnh trưởng Viêng Chăn) đã ban hành hiến pháp ngày 16 tháng 10 năm 1945. Chính quyền mới bao gồm những người theo chủ nghĩa dân tộc với nhiều thành phần khác nhau - cánh hữu, cánh tả và trung dung. Đông thời tuyên bố tất cả các hiệp ước với Pháp bị vô hiệu, và thông qua Quốc ca và quốc kỳ mới (trở thành quốc kỳ Pathet Lào, và sau đó là quốc kỳ chính thức của Lào sau khi nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào được thành lập năm 1975). Souphanouvong được làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Nội vụ.
Các vấn đề phức tạp khi, theo Hiệp định Potsdam, cuối tháng 8 năm 1945, quân đội Trung Hoa Dân Quốc do Sư đoàn 23 thuộc Quân đoàn 60 tiến vào Lào để giải giáp quân Nhật từ phía bắc vĩ tuyến 16. Nhận thấy rằng người Nhật đã rời đi, quân Trung Quốc bắt đầu cướp phá Lào, và đặc biệt là chiếm giữ rất nhiều nhiều thuốc phiện. Nhìn chung, quân Trung Quốc khá trung lập ở Lào, và chỉ hành động chống lại những tổ chức đe dọa họ. Lào Issara thường cẩn thận để tránh kích động người Trung Quốc. Đồng thời Pháp cũng đưa quân vào nam vĩ tuyến 16, lập Bộ Tham mưu quân đội viễn chinh Pháp ở Lào.
Tuy nhiên, Đại tá Imfeld (Cao ủy Pháp tại Lào) cùng một nhóm quân đội Pháp đã tiến vào chiếm Luang Prabang vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 (ngay trước khi Trung Quốc đưa quân vào Lào) và tiếp kiến vua Sisavang. Họ yêu cầu Phetsarat phải bị cách chức và quốc gia trở lại chế độ bảo hộ của Pháp. Nhà vua đồng ý, tại thời điểm đó Phetsarat và Lào Issara đã phế truất Sisavang vì sự cộng tác của ông với người Pháp, và Vương thân Phetsarat được tuyên bố là nguyên thủ quốc gia. Quân Trung Quốc đến Luang Prabang và tước vũ khí của quân đội Imfeld vào ngày 23 tháng 9 (và sau đó ông bị chính quyền Lào Issara bắt giam). Ngày 28 tháng 2 năm 1946, Pháp thoả thuận với Trung Hoa Dân quốc ký bản Hiệp ước Pháp - Hoa, tạo điều kiện cho Pháp thực hiện âm mưu chiếm lại toàn bộ Đông Dương. Quân Trung Quốc đã không rời khỏi Lào cho đến tháng 3 năm 1946.
Chính phủ lâm thời ký hiệp ước Hiệp ước tương trợ Lào - Việt ngày 16 tháng 10 năm 1945 và Hiệp định về tổ chức liên quân Lào - Việt ngày 30 tháng 10 năm 1945 với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng đến tháng 1 năm 1946, một lực lượng gồm 600 lính dù Pháp với hơn 4,000 quân địa phương bắt đầu chiến dịch chống lại Lào Issara, với sân bay Paksane là cơ sở tiếp tế chính. Bất chấp các cáo buộc của chính phủ Lào Issara, quân Trung Quốc không can thiệp và theo dõi cuộc tranh giành quyền kiểm soát Lào. Hai trong số những nhóm quân tích cực nhất là của người Hmong, nhóm Touby Ly Foung, và bạn học cũ của ông, Tiao Saykham (một thành viên hoàng gia Xieng Khouang). Hai nhóm này, với sự hỗ trợ hạn chế của Pháp, đã bao vây thành phố Xiêng Khoảng (thuộc Cánh đồng Chum) trong hai tuần trước khi nó thất thủ vào sáng ngày 27 tháng 1.
Người Hmong được sử dụng đặc biệt nhiều bởi quân đội Pháp trở lại bằng cách "kiềm chế" Quân đội Giải phóng và Phòng vệ Lào trong các thị trấn và thành phố, cắt đứt hoặc đánh bại các đơn vị "tự vệ" ở bản (làng) khác nhau. Các lực lượng Pháp, gồm cả Trung đoàn Không quân Đặc biệt Anh (SAS), và đội "biệt kích" được trang bị nhẹ với xe jeep và xe tải - bao gồm các thành phần của Trung đoàn bộ binh thuộc địa 5e (5e RIC) và quân nhảy dù "Commando Conus" (do Adrien Conus chỉ huy), bắt đầu cô lập các thành phố đô thị trong tháng 2 năm 1946, vào cuối tháng này, Quân đội Giải phóng và Phòng vệ Lào đã bị bao vây ở Luang Prabang, Viêng Chăn, Savannakhet và đặc biệt là Thakhek. Việt Minh ký một lệnh ngừng bắn với Pháp vào ngày 6 tháng 3 năm 1946 (Hiệp định sơ bộ Pháp–Việt), nhưng chính phủ Lào Issara ở Viêng Chăn vẫn tuyên bố quyết tâm tiếp tục chiến tranh vào ngày 12 tháng 3.
Người Pháp tái chiếm Muang Phine vào ngày 14 tháng 3 năm 1946, sau đó là Savannakhet vào ngày 17, Thakhek vào ngày 21, Sê Pôn vào ngày 23 và Nape vào ngày 11 tháng 4. Souphanouvong dẫn lực lượng hỗn hợp chống lại quân Pháp trước khi Pháp tiến vào Viêng Chăn, nhưng tại Thà Khẹt, quân Souphanouvong đã thất bại, và bản thân Souphanouvong bị thương nặng. Như vậy, tính đến tháng 4 năm 1946, toàn bộ miền nam và miền trung Lào nằm dưới sự kiểm soát của Pháp. Viêng Chăn thất thủ vào ngày 24 tháng 4, Chính phủ Issara Lào chạy sang Thái Lan và lập chính phủ lưu vong ở Bangkok do Phetsarat lãnh đạo. Vào giữa tháng 5, Pháp đến Luang Phrabang để giải cứu vị vua trung thành, vua Sisavang. Như một phần thưởng cho lòng trung thành của ông, vào tháng 8, người Pháp đã phong ông là Vua của Lào.
Lào Issara và Quân đội Giải phóng và Phòng vệ Lào tuy không thành công về mặt quân sự, nhưng các hành động đã nâng cao chủ nghĩa dân tộc ở Lào. Sai lầm chính của Quân đội Giải phóng và Phòng vệ Lào, không giống như Việt Minh, cố gắng chống lại cuộc chiến tranh quân sự với người Pháp. Người Pháp dễ dàng cô lập và đánh bại các đơn vị đồn trú khác nhau - mặc dù chiến đấu dũng cảm (đặc biệt là ở Ban Keun, Thakhek và Savannakhet), nhưng không thể so sánh được với lực lượng chính quy của Pháp. Bản thân Souphanouvong bị thương nặng ở Thakhek, phải nhập viện điều trị một thời gian ở Thái Lan. Sau thất bại này, các cuộc giao tranh lẻ tẻ giữa tàn dư CFEO và Quân đội Giải phóng và Phòng vệ Lào tiếp tục cho đến tháng 9.
Trong thời điểm này, phần lớn những người theo chủ nghĩa dân tộc cứng rắn đã bị xử tử, cầm tù hoặc lưu đày. Lực lượng Quân đội Giải phóng và Phòng vệ Lào còn lại giờ đã được phân chia thành hai phần đóng ở biên giới Thái Lan và ở biên giới Việt Nam. Với việc loại bỏ những người theo chủ nghĩa dân tộc này (người Pháp gọi là Lào-Việt), "modus vivendi" đã được thương lượng giữa người Pháp, những người trung thành với Lào và những người theo chủ nghĩa dân tộc ôn hòa. Bằng cách này, Vua Sisavong Vong và con trai ông, Thái tử Savang Vatthana (người không đặc biệt ái mộ Pháp), đã thành lập một chính quyền mới. Một phần của các cuộc thảo luận đã dẫn đến việc người tuyên bố lên ngôi Champasak (Hoàng thân Boun Oum) từ bỏ yêu sách của mình để ủng hộ Sisavong Vong, và do đó mở đường cho một nước Lào thống nhất với một vị vua duy nhất, vương quốc Champasak bị bãi bỏ, và Hoàng thân Boun Oum Na Champassak được bồi thường với chức danh Tổng thanh tra Vương quốc Lào. Hiệp ước đã được ký bởi Savang Vathana và Cao ủy Pháp ở Lào Jean de Raymond vào ngày 27 tháng 8. Các cuộc bầu cử đã được tổ chức cho chính phủ mới vào ngày 11 tháng 10 năm 1946, kết quả là chính phủ lâm thời của Hoàng thân Kindavong (anh cùng cha khác mẹ của Phetsarat). Chính quyền này được gọi là Chính phủ Hoàng gia Lào (RLG), và cầm quyền bằng hình thức này hay hình thức khác cho đến năm 1975. Các tỉnh của Lào đã bị Thái Lan sáp nhập vào năm 1941 được trao trả cho Lào vào ngày 7 tháng 12 năm 1946.
Nỗ lực nâng cấp Lào
Pháp đã thực hiện một nỗ lực muộn để trao cho Lào các thể chế của một nhà nước hiện đại thay cho một nhà nước phong kiến. Garde Indigène được thay thế bằng Vệ binh Quốc gia Lào, và một lực lượng cảnh sát Lào được thành lập. Các cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiến, trên cơ sở nam giới phổ thông đầu phiếu, được tổ chức vào tháng 12 năm 1946, và hiến pháp mới được công bố vào ngày 11 tháng 5 năm 1947 đã trao cho Lào một chính phủ nghị viện với Quốc hội được bầu ra. Quốc hội đã thông qua hiến pháp xác nhận tình trạng Lào là một quốc gia quân chủ lập hiến và một "nhà nước tự trị" trong Liên hiệp Pháp.
Quân đội Hoàng gia (hoặc Quốc gia) Lào (RLA) được thành lập bởi một sĩ quan người Pháp vào ngày 23 tháng 3 năm 1949, và Công ước Pháp-Lào ngày 19 tháng 7 năm 1949 đã đưa Lào trở thành một quốc gia độc lập (ít nhất là trên danh nghĩa).
Các bệnh viện và phòng khám mới cũng được thành lập, mặc dù thiếu hụt nghiêm trọng nhân viên có trình độ. Một chương trình khẩn cấp để đào tạo thêm công chức Lào cũng được thiết lập. Một trường trung học phổ thông được mở ở Viêng Chăn, và các trường mới mở ở Pakxe, Savannakhet và Luang Phrabang. Tháng 8 năm 1947 tổ chức bầu cử Quốc hội và đã có 35 đại biểu được bầu. Một vương thân hoàng gia, Hoàng thân Souvannarath, em trai của Phetsarath, đã trở thành Thủ tướng Lào với tư cách là người đứng đầu nội các gồm toàn thành viên các gia đình Lào Lùm có thế lực. Đây vẫn là một đặc điểm của chính trị Lào. Có nhiều đảng phái chính trị lên nằm quyền một thời gian, nhưng một gia đình gồm 20 người thay phiên nhau nắm quyền, thù địch với nhau vì những chức vụ được coi là chiến lợi phẩm.
Lào độc lập
Năm 1949, khi uy thế của Pháp tại Việt Nam ngày càng giảm xuống và thiện ý tiếp tục của người Lào trở nên quan trọng hơn, các nhượng bộ hơn nữa đã được thực hiện. Các bộ trưởng Lào nắm quyền kiểm soát tất cả các chức năng của chính phủ ngoại trừ các vấn đề đối ngoại và quốc phòng, mặc dù sự phụ thuộc gần như hoàn toàn kinh tế vào viện trợ của Pháp khiến nền độc lập mới này có vẻ bề ngoài hơn là thực tế. Vào tháng 2 năm 1950, Lào chính thức được tuyên bố là một quốc gia độc lập và được Hoa Kỳ và Anh công nhận.
Lào đã nộp đơn xin gia nhập Liên hợp quốc, nhưng đơn xin gia nhập đã bị Liên Xô phủ quyết. Không có biện pháp nào trong số này che giấu thực tế rằng Pháp vẫn nắm quyền kiểm soát thiết yếu đối với Lào. Các vấn đề đối ngoại, quốc phòng và tài chính trên thực tế vẫn nằm dưới sự kiểm soát của Pháp, và tài phán chỉ được trao cho các bộ trưởng Lào một cách từ từ. Quan trọng nhất, Quân đội Pháp giữ quyền hoạt động tự do tại Lào, và ra lệnh cho các lực lượng Lào mà không cần tham vấn các bộ trưởng Lào.
Trong khi đó, chính phủ lưu vong Lào Issara đã lên kế hoạch cho một cuộc nổi dậy theo chủ nghĩa dân tộc chống lại người Pháp và những gì được coi là con rối Lào của Pháp ở Viêng Chăn. Chính phủ lưu vong Lào Issara phân hóa thành hai khu vực, với hai lập trường khác nhau. Ở khu vực biên giới Thái Lan, Lào Issara duy trì lập trường chủ nghĩa dân tộc, sau đó sẽ sát nhập vào Quân đội Hoàng gia Lào; ở khu vực biên giới Việt Nam, Lào Issara tại đây duy trì theo đường lối của Việt Minh. Trong một thời gian, lực lượng Lào Issara, dưới sự chỉ huy của Souphanouvong, đã có thể hoạt động từ các căn cứ ở Thái Lan, và đạt được một số thành công, đặc biệt là xung quanh Savannakhet. nhỏ|phải|Bài phát biểu của Thủ tướng Phoui Sananikone trong thời gian chuyển giao quyền lực có hiệu lực, ngày 13 tháng 4 năm 1950. Người đứng thứ 4 và thứ 5 từ trái sang, Tiao Souvanna Phouma và Kou Voravong. Chính phủ lưu vong Lào Issara, ở Bangkok, do Phetsarat đứng đầu, người theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan, và bao gồm nhiều phe phái khác nhau liên minh một cách miễn cưỡng. Sự tồn tại của Lào Issara dựa trên một nhà nước Thái Lan thân mật, và sau Thế chiến 2 với một chế độ cầm quyền bởi Seri Thai. Tuy nhiên, vào tháng 11 năm 1947, một cuộc đảo chính quân sự ở Bangkok đã đưa Thống tướng Phibun trở lại nắm quyền với sự hậu thuẫn ngầm của Mỹ. Ông là người chống cộng sản, tìm cách khôi phục mối quan hệ với Pháp do đó đã thúc ép Lào Issara tìm kiếm mối quan hệ hợp tác với Pháp, đồng thời ra lệnh đóng cửa các cân cứ Lào Issara ở đất Thái. Giờ đây, Lào Issara chỉ có thể tiến hành các cuộc hành quân vào Lào từ lãnh thổ do lực lượng Việt Minh kiểm soát.
Vào năm 1949, Hoàng thân Souvanna Phouma bắt đầu đàm phán với Viêng Chăn, dẫn đến việc Nhà vua tuyên bố ân xá. Vào ngày 25 tháng 10 năm 1949, Lào Issara ở Bangkok giải tán Chính phủ lưu vong bất chấp sự phản đối của Phetsarat và những người khác. Các thành viên cánh hữu và trung dung của Lào Issara không còn (bao gồm Hoàng thân Souvanna Phouma, Khammao Vilay và Hoàng thân Phoui Sananikone) bay trở lại Viêng Chăn và gia nhập vào hệ thống chính trị Vương quốc Lào. Lực lượng Quân đội Giải phóng và Phòng vệ Lào ở biên giới Thái Lan-Lào đã tái gia nhập Quân đội Hoàng gia Lào và trở thành một phần của Quân đội Hoàng gia Lào mới. Tháng 8 năm 1951, Souvanna Phouma trở thành Thủ tướng, khẳng định vị thế của ông với tư cách là nhà lãnh đạo mới của Lào phi cộng sản.
Tuy nhiên, những người bất đồng chính kiến (Phetsarat, Souphanouvong, Kaysone Phomvihane và những người khác) từ chối chấp thuận lệnh ân xá, và tố cáo những người chấp thuận là những kẻ phản bội. Nouhak Phoumsavanh, lãnh đạo Quân đội Giải phóng và Phòng vệ Lào ở biên giới Việt Nam, cũng từ chối chấp thuận và tái gia nhập quân đội chính quy. Với việc Bangkok ngày càng trở nên thù địch, các chính trị gia dân tộc chủ nghĩa lưu vong đã di chuyển trở lại Đông Bắc Lào để phụ trách cuộc đấu tranh mới. Chỉ có Phetsarath là sống lưu vong ở Thái, nhưng đến nay ông đã mất đi ảnh hưởng trước đây của mình.
Cộng sản ở Lào
Đảng Cộng sản Đông Dương (ICP) được thành lập bởi Hồ Chí Minh và một số người khác tại Hồng Kông vào năm 1930. Thành viên ban đầu hoàn toàn là người Việt Nam, nhưng, như tên gọi của Đảng, Đảng đã được Quốc tế Cộng sản ở Mátxcơva giao trách nhiệm cho toàn bộ Đông Dương thuộc Pháp. Trong những năm 1930, tổ chức này đã tuyển dụng một số thành viên Lào, chủ yếu là giáo viên và các công chức cấp trung khác có trình độ học vấn phương Tây. Về mặt cấu trúc xã hội, Lào có ít cơ hội cho thuyết kích động cộng sản chính thống. Lào có rất ít giai cấp công nhân, ngoại trừ một số người trong ngành khai thác thiếc.
Không có "vấn đề nông dân" ở Lào: hơn 90% người Lào là nông dân trồng lúa và sở hữu đất đai cá nhân. Không có địa chủ như ở Trung Quốc và không có giai cấp vô sản nông thôn không có ruộng đất. Các vị trí lãnh đạo duy nhất trong Mặt trận Lào Tự do. Những người này bao gồm Faydang Lobliayao, một thủ lĩnh của người Hmong ở phía bắc, và Sīthon Kommadam, con trai của Ong Kommadam, thủ lĩnh phiến quân phía nam người Lào Thơng.
Tuy nhiên, vào cuối những năm 1940, Đảng Cộng sản Đông Dương đã tuyển dụng một số cốt cán là các nhà hoạt động, một số người trong số họ là người Lào gốc Việt như Kaysone, một số có mối quan hệ hôn nhân với người Việt Nam, chẳng hạn như Nouhak Phoumsavanh. Sự suy yếu của Pháp và sự thất bại của chính phủ Lào Issara đã tạo cơ hội, vì sau năm 1949, cuộc đấu tranh chống chế độ thực dân chỉ có thể được tiến hành từ các căn cứ ở Việt Nam và với sự hỗ trợ của những người cộng sản Việt Nam.
Vào ngày 20 tháng 1 năm 1949, quân đội Quân đội Giải phóng và Phòng vệ Lào ở phía đông bắc đã đổi tên thành "Quân đội Giải phóng Nhân dân" (tiền thân Quân đội Nhân dân Lào sau này). Các chỉ thị được ban hành dưới danh nghĩa của Pathet Lào (Nhà nước Lào) và do đó lực lượng này, dưới sự chỉ huy của Kaysone Phomvihane, được biết đến nhiều hơn với tên gọi Pathet Lào (PL). Khi những người bất đồng chính kiến cánh tả từ Lào Issara di chuyển lên phía Đông Bắc, họ đã thành lập Neo Lao Issara (NLI - "Mặt trận Giải phóng Lào" hay còn được gọi "Mặt trận Lào Tự do") tại "Đại hội Quốc gia Lào" được tổ chức tại Sam Neua vào ngày 13-15 tháng 8 năm 1950, với 150 đại biểu (từ khắp Lào) tham dự. Họ đã hệ thống hóa "12 điểm chính trị kháng chiến quốc gia", và thành lập một Chính phủ mới (Chính phủ Kháng chiến đất nước Lào) đối lập với Chính phủ Hoàng gia Lào, do Chao Souphanouvong đứng đầu.
Theo mô hình Việt Minh, họ bắt đầu xây dựng một căn cứ hỗ trợ ở các khu vực miền núi bằng sự kết hợp giữa trình độ học vấn, sức mạnh quân sự và mối đe dọa. Vào ngày 10 tháng 3 năm 1951, một đại hội chung đã được tổ chức giữa Việt Minh, Neo Lao Issara và Mặt trận Issarak của Campuchia. Điều này tuyên bố sự thống nhất về mục đích giữa những người cách mạng Việt Nam, Lào và Khmer. Những người cộng sản đã khôn khéo đề bạt đại diện của các dân tộc thiểu số vùng cao vào các vị trí lãnh đạo trong Mặt trận Lào Tự do. Những người này bao gồm Faydang Lobliayao, một thủ lĩnh của người Hmong ở phía bắc, và Sithon Kommadam, con trai của Ong Kommadam thủ lĩnh phiến quân phía nam người Lào Thơng. Vì các khu vực căn cứ của cộng sản chủ yếu là nơi sinh sống của các dân tộc thiểu số, điều này đã giúp củng cố sự hỗ trợ ở những khu vực này. Nhưng quyền lãnh đạo cộng sản vẫn nằm chắc trong tay Lào Lùm.
Những người cộng sản ở Lào nhận được sự hỗ trợ của Đảng Cộng sản Việt Nam, và trong suốt hai mươi năm chiến tranh sau đó, Đảng Nhân dân Lào được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hỗ trợ về vũ khí, tài chính và đào tạo. Một số lượng lớn lực lượng Việt Nam đã chiến đấu cùng với Pathet Lào, và các "cố vấn" Việt Nam thường đi cùng các chỉ huy quân sự của Pathet Lào. Chính phủ Lào chống cộng luôn cáo buộc Pathet Lào là những con rối của Việt Nam, nhưng đây là cáo buộc không chính xác hoàn toàn. Năm 1955, một đảng cộng sản Lào riêng biệt được thành lập, Đảng Nhân dân Lào (tiền thân của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào sau này), với Kaysone là Tổng Bí thư và Nouhak là lãnh đạo cấp cao, tất cả các thành viên của Bộ Chính trị là người Lào Lùm.
Những người cộng sản Lào và Việt Nam đã chiến đấu vì cùng một mục tiêu - đầu tiên là đánh đuổi người Pháp, sau đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội, và người Lào biết rằng họ không thể tự mình đạt được một trong hai mục tiêu này. Hệ tư tưởng cộng sản dạy rằng "chủ nghĩa quốc tế vô sản" là nghĩa vụ của tất cả những người cộng sản. Những người cộng sản Lào thoải mái chấp nhận sự lãnh đạo của Việt Nam như là cách nhanh nhất và thực sự duy nhất để đạt được mục tiêu của cách mạng.
Ngay cả khi họ đã lật đổ chính quyền, Pathet Lào vẫn phụ thuộc vào binh lính và cố vấn chính trị Việt Nam để giữ quyền kiểm soát đất nước. Chính phủ của họ có mối quan hệ với Việt Nam tương tự như các chính phủ Cộng sản Đông Âu với Liên Xô. Việc ủng hộ người Việt Nam khiến chính quyền hoàng gia Lào tuyên truyền tạo ra sự thù địch của đa số người Lào Lùm, những người không ưa người Việt Nam hơn người Pháp. Mãi cho đến những năm cuối của thập niên 1960, Pathet Lào mới bắt đầu nhận được sự ủng hộ ở các khu vực Lào Lùm.
Pathet Lào phản công (1950-1954)
Cuối năm 1952, với vị trí chiếm cứ ở Đông Bắc Lào ngày càng an toàn, và với sự hỗ trợ đắc lực của quân đội Việt Minh, PL đã mở một cuộc tổng tấn công nhằm chiếm tỉnh Sam Neua, cùng với các phần của Luang Prabang và Xiêng Khoảng. Sam Neua thất thủ vào ngày 13 tháng 4 năm 1953, cùng với Phong Saly. Luang Prabang bị bao vây, và cuộc tấn công được đẩy mạnh về phía nam và phía đông. Đến cuối năm, các thị trấn ThaKhek (thất thủ vào ngày 24 tháng 12) và Savannakhet bị bao vây, cũng như căn cứ trên bộ của Pháp tại Seno. Đường số 9 bị cắt, và tỉnh Attapu bị chiếm, cùng với Cao nguyên Boloven. Vào thời điểm Pháp thất bại ở Điện Biên Phủ vào tháng 5 năm 1954, Neo Lao Issara và Pathet Lào đang kiểm soát một phần lớn đất nước Lào, và có một đội quân thiện chiến. Họ đã được Hiệp định Geneva công nhận, và Chính phủ Hoàng gia Lào buộc phải đồng ý tổ chức các cuộc bầu cử chung để thống nhất lại Lào (sẽ được tổ chức vào năm 1955).
Lực lượng Pathet Lào
Pathet Lào được hình thành dưới sự bảo trợ của Việt Minh, và do đó được tổ chức theo mô hình của Việt Minh. Pathet Lào không được trang bị vũ khí hạng nặng. Quân đội Giải phóng và Phòng vệ Lào và Pathet Lào ban đầu được trang bị vũ khí hỗn hợp từ Pháp, Nhật Bản và (có thể) của Mỹ. Nguồn cung cấp tăng dần từ Việt Minh, vì vậy các mẫu của Trung Quốc có thể đã chuyển vào cuối Chiến tranh chống Pháp. Trang phục điển hình khá giống Việt Minh - một sự pha trộn giữa quần áo dân sự châu Âu và địa phương, với các mảnh có nguồn gốc quân sự (vải dạ, v.v.). Mũ đội đầu rất có thể sẽ là một chiếc khăn trùm đầu được quấn thành dạng khăn xếp, mũ bảo hiểm đội đầu hoặc mũ lưỡi trai.
Quân đội Hoàng gia
Khi Pháp rút sự hiện diện quân sự của họ từ Lào, Chính phủ Hoàng gia Lào đã thành lập quân đội của mình để chống lại Pathet Lào và Việt Minh. Đây là quân đội Hoàng gia Lào (RLA) đã được đào tạo từ 4,000 người năm 1951 đến 10,000 năm 1952 và 15,000 người trong năm 1953. Năm 1954, như Pháp đã rút khỏi Lào, Quân đội Hoàng gia Lào được tăng cường với 25,000 người.
Quân đội Hoàng gia Lào được trang bị, được đào tạo, trang bị và sĩ quan bởi Pháp. Vũ khí của họ chủ yếu là sản xuất của Anh (bên ngoài CFEO), với chiếc mũ Bush mặc với đồng phục Anh/Khối thịnh vượng chung. Quân Lào được xếp loại là "Chasseurs", tức là bộ binh hạng nhẹ, thiết bị của họ là của các mẫu "hạng nhẹ", như là cối 60mm thay vì 81mm và pháo tự hành 0.30" thay vì 0.50". Quân đội Hoàng gia Lào có xu hướng phân tán trong các đơn vị quy mô trung đội rải rác khắp đất nước, với Nhóm biệt kích đường không hỗn hợp (GCMA) hoạt động trên mặt đất. Đối với các hoạt động chính, họ sẽ được Quân đội viễn chinh Pháp vùng Viễn Đông (CFEO) củng cố, xây dựng một căn cứ không quân (như tại Seno).
Hiệp định Geneva (1954)
nhỏ|trái|Tướng [[Raoul Salan|Salan Pháp và Hoàng tử Sisavang Vatthana tại Luang Prabang, ngày 4 tháng 5 năm 1953]] Đầu những năm 1950 chứng kiến sự bất ổn liên tục trong chính phủ Lào ở Viêng Chăn. Sự đổ bộ của lực lượng Pháp, cùng với tiền viện trợ của Pháp và Mỹ, đã thúc đẩy sự bùng nổ kinh tế, kèm theo lạm phát cao, ở các thị trấn, nhưng điều này chẳng mang lại lợi ích gì cho đa số nông dân. Việc chuyển hướng ngân quỹ sang các mục đích quân sự đã làm chậm sự phát triển của các lĩnh vực như y tế và giáo dục. Chính phủ vẫn suy yếu, chia rẽ, và cũng ngày càng tham nhũng khi các chính trị gia hàng đầu tìm mọi cách để chính họ và người thân của họ kiếm lợi từ nguồn tiền nước ngoài đổ vào đất nước. Souvanna Phouma vẫn là chính trị gia phi cộng sản hàng đầu và giữ được sự tin tưởng của Nhà vua, nhưng những người theo cánh hữu, do Boun Oum Na Champassak lãnh đạo, phản đối chính sách liên minh và hòa giải của ông với Pathet Lào. Tuy nhiên, nền độc lập của Lào, ban đầu vẫn chỉ mang tính hình thức do Pháp cầm quyền.
Năm 1953, Lào giành được độc lập hoàn toàn từ Pháp, nhưng Pathet Lào, với sự viện trợ của Việt Nam, đã giành được quyền kiểm soát trên một vùng lãnh thổ rộng lớn, mặc dù dân cư thưa thớt, ở các khu vực miền núi dọc biên giới Việt Nam và cả một số khu vực ở phía nam. Những nơi mà sự cai trị từ Viêng Chăn chưa bao giờ phổ biến. Sự suy yếu của Pháp khiến chính phủ Hoàng gia Lào dễ bị tổn thương, và lực lượng Pathet Lào và Việt Nam tiến đến trong vòng 30 km từ Luang Phrabang. Quân đội Pathet Lào cùng với khoảng 40,000 quân Việt Minh do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy đã chiếm đóng các vùng phía bắc Lào bắt đầu từ ngày 16 tháng 4 năm 1953.
Khi người Pháp ngày càng sa lầy vào cuộc chiến ở Việt Nam, sự phản đối chính trị ở Pháp đối với cuộc chiến tranh Đông Dương ngày càng mạnh mẽ. Vào tháng 5 năm 1954, quân Pháp đã phải hứng chịu một thất bại ở Điện Biên Phủ miền Bắc Việt Nam, một thảm họa chính trị kèm với hậu quả lớn về mặt quân sự. Chính phủ Pháp từ chức và Pierre Mendès-France lên làm Thủ tướng với chủ trương rút khỏi Đông Dương. Một hội nghị quốc tế về Đông Dương đã được triệu tập tại Genève, và hội nghị diễn ra ngay sau khi Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ. nhỏ|phải|Hội nghị Geneva 1954 Đồng thời cũng có một hội nghị riêng rẽ giữa Lào và Pháp. Nghị trình Lào là một vấn đề thứ yếu tại Geneva, diễn ra từ ngày 26 tháng 4 đến ngày 21 tháng 7 năm 1954, và các quyết định về Lào được quyết định bởi việc dàn xếp sau hội nghị Việt Nam. Bộ trưởng Ngoại giao Phuy Sananikone đại diện cho chính phủ Lào và Nouhak đại diện cho Pathet Lào (như một phần của phái đoàn cộng sản Việt Nam), nhưng họ chỉ là quan sát viên do các cường quốc quyết định kết quả. Hội nghị đã được đồng ý đưa Lào trở thành một quốc gia độc lập, trung lập với một chính phủ liên minh đại diện cho tất cả các bên trong đó có Pathet Lào. Các bên đồng ý ngừng bắn vào ngày 21 tháng 7 năm 1954, và lệnh ngừng bắn có hiệu lực vào ngày 6 tháng 8 năm 1954.
Sau lệnh ngừng bắn là việc tất cả các lực lượng nước ngoài rút quân, giải tán quân đội Pathet Lào, thành lập chính phủ liên hiệp và bầu cử tự do. Khi tin tức về thỏa thuận này đến được với Lào, các chính trị gia chống cộng đã nổi giận dữ dội, trong đó tập trung vào Phuy vì đã đồng ý với các điều khoản này. Vào tháng 9, một băng nhóm được tài trợ bởi các phần tử cánh hữu đã cố gắng ám sát Phuy. Ông bị thương nhẹ, nhưng Bộ trưởng Quốc phòng Kou Voravong đã thiệt mạng. Kết quả là cuộc khủng hoảng buộc Souvanna Phouma phải từ chức, và Katay Don Sasorith thành lập chính phủ với tư cách là thủ tướng vào ngày 20 tháng 10 năm 1954. Theo Hiệp định Genève, Pháp đồng ý công nhận nền độc lập của Vương quốc Lào vào ngày 29 tháng 12 năm 1954.
Sau hội nghị Geneva (1954-1960)
Hai tháng sau hội nghị Geneva, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt đầu hành động chống lại chính phủ Hoàng gia Lào. Một tổ chức quân sự được thành lập có tên là Đoàn 100 (Đoàn cố vấn quân sự Việt Nam). Trụ sở chính của nó được thành lập tại Bản Na Mèo. Mục đích của nó là để tổ chức, đào tạo, chỉ đạo và cung cấp cho quân đội của Pathet Lào. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không có lợi ích đặc biệt nào đối với Hội nghị Geneva hay việc lập ra một nước Lào trung lập ngoài việc sử dụng họ trong việc củng cố sự kiểm soát với các phần phía đông của Lào. Theo Hiệp định Genève ở điều 13, sự chấm dứt và rút quân của các lực lượng bên ngoài chống đối - các đơn vị quân của Pháp và tình nguyện Việt Nam - rút khỏi Lào. Phần này của thỏa thuận, theo Điều 4a, sẽ được hoàn thành trong vòng 120 ngày.
Ngày 11 tháng 8 năm 1954, Ủy ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế (ICSC-Lào I) được thành lập để giám sát thỏa thuận ngừng bắn và giám sát việc giải tán các lực lượng quân sự của Pháp và Lào. ICSC-Lào I bao gồm khoảng 500 nhân viên từ Canada, Ấn Độ và Ba Lan.
Katay Don Sasorith là một nhân vật kém tinh tế hơn nhiều so với Souvanna Phouma, và ông ta nhận thấy nhiệm vụ thực hiện các hiệp định Geneva vượt quá khả năng của mình. Vấn đề cốt yếu là mặc dù quân Pháp thoái lui đúng lịch trình, nhưng lực lượng Việt Nam hỗ trợ Pathet Lào trong các khu căn cứ vùng cao thì không, và chính phủ Lào không có biện pháp nào để buộc họ phải làm như vậy. Theo các thỏa thuận, lực lượng Pathet Lào phải tập hợp tại các tỉnh Houaphan và Phongsali trước khi giải tán.
Thay vào đó, Pathet Lào và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp tục coi các tỉnh này là "vùng giải phóng", từ chối cho phép các quan chức chính phủ thực thi quyền lực, đồng thời đánh đuổi các lực lượng Hmong địa phương đã ủng hộ Pháp và hiện trung thành với chính phủ Lào. Pathet Lào cũng duy trì lực lượng ngầm ở phía nam.
Ngày 6 tháng 1 năm 1955, Hội nghị Hiệp thương chính trị giữa Neo Lao Issara và Chỉnh phủ Vương quốc Lào khai mạc tại Cánh đồng Chum, Xiengkhuang. Ngày 18 tháng 1, hội nghị tạm dừng do chính phủ Vương quốc Lào bỏ về Viêng Chăn. Dưới áp lực của người dân, hội nghị tiếp tục được nối lại ngày 3 tháng 2. Hội nghị kết thúc ngày 9 tháng 3 ra tuyên bố chung cam kết: "chấm dứt ngay mọi hoạt động công kích lẫn nhau; hai bên ra lệnh cho các lực lượng vũ trang đình chỉ mọi hoạt động tấn công quân sự; hai bên thoả thuận chuyển địa điểm Hội nghị hiệp thương chính trị từ Cánh đồng Chum, tỉnh Xiêng Khoảng về Viêng Chăn.
Sau một năm bế tắc, chính phủ Hoàng gia Lào đã tiến hành cuộc bầu cử ở phần còn lại của đất nước vào tháng 12 năm 1955. Sau cuộc bầu cử, Đảng Tiến bộ Lào (LPP) giành được 22 ghế trên 39 ghế, Đảng Độc lập Lào (LIP) do Phoui Sananikone đứng đầu giành được 7 ghế. Chính phủ của Katay bị đánh bại trong Quốc hội mới, và Souvanna Phouma trở lại nhiệm sở, vẫn quyết tâm thành lập một chính phủ liên minh trung lập. Souvanna Phouma luôn tin rằng người Lào, nếu được đoàn kết làm một, có thể giải quyết những khác biệt của chính họ, và rằng ông ta có thể đi đến một thỏa thuận với người em cùng cha khác mẹ của mình là Souphanouvong. Neo Lao Hak Sat (Mặt trận Tổ quốc Lào) được thành lập vào vào năm 1957.
Hoa Kỳ đã không phê chuẩn các hiệp định Geneva, và chính quyền Eisenhower, đặc biệt là Ngoại trưởng quân sự chống cộng, John Foster Dulles, chia sẻ quan điểm của các chính trị gia cánh hữu Lào. Dưới ảnh hưởng của Dulles, Mỹ đã hậu thuẫn cuộc chiến của Pháp ở Việt Nam, và bây giờ khi Pháp rời đi, ông quyết tâm rằng Mỹ sẽ tiếp quản vai trò hỗ trợ lực lượng chống cộng của Pháp ở Việt Nam và ngăn chặn lực lượng của Hồ Chí Minh chiếm miền Nam Việt Nam. Ông tin rằng điều này đòi hỏi phải duy trì một chính phủ chống cộng sản ở Lào và ngăn chặn Việt Nam sử dụng Lào làm con đường vận chuyển vào miền Nam Việt Nam.
Để giải quyết những điều cấm của hiệp định Geneva - mà Hoa Kỳ đã cam kết tôn trọng - Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ vào tháng 12 năm 1955 đã thành lập một phái bộ quân sự trá hình tại Viêng Chăn được gọi là Văn phòng Đánh giá Chương trình (Programs Evaluation Office - PEO). Văn phòng bắt đầu hoạt động vào ngày 13 tháng 12 năm 1955 và hoạt động dưới vỏ bọc của phái bộ viện trợ dân sự và được biên chế bởi các quân nhân và đứng đầu là một sĩ quan, tất cả đều mặc quần áo dân sự và đã bị loại khỏi Danh sách quân nhân tại ngũ của Bộ Quốc phòng.
Trong giai đoạn 1955-61, Văn phòng dần thay thế sứ mệnh quân sự của Pháp trong việc cung cấp trang thiết bị và huấn luyện cho Quân đội Hoàng gia Lào và lực lượng người Hmong chống cộng sản. Bằng cách này, Hoa Kỳ đã hỗ trợ toàn bộ chi phí cho Quân đội Hoàng gia Lào trên thực địa giống như cách mà Liên Xô và Việt Nam đã hỗ trợ cho Pathet Lào, và Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA) cung cấp thông tin tình báo và chỉ đạo chính trị. Do đó, Mỹ phản đối mạnh mẽ những nỗ lực của Souvanna Phouma nhằm đưa Pathet Lào vào chính phủ và đưa Lào trở thành một quốc gia "trung lập". Trên thực tế, ý nghĩa trung lập là cho phép Việt Nam chiếm đóng vĩnh viễn phía đông của đất nước và cho phép Pathet Lào giữ quân đội của họ trên thực địa. Những nỗ lực của Souvanna Phouma nhằm giải quyết xung đột ở Lào luôn thất bại do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ chối rút quân và sự từ chối giải giáp vũ khí của Pathet Lào.
Vào tháng 8 năm 1956 Souvanna Phouma đạt được thỏa thuận với Souphanouvong. Ông được giúp đỡ bởi anh trai của mình là Hoàng thân Phetsarath, người trở về Lào năm 1956 sau mười năm sống lưu vong, và đóng vai trò trung gian và chính khách lớn tuổi cho đến khi ông qua đời năm 1959. Một chính phủ liên minh được thành lập trong đó Souphanouvong trở thành Bộ trưởng Kế hoạch và Tái thiết, và một nhà lãnh đạo khác của Pathet Lào, Phoumi Vongvichit (1909–94) là Bộ trưởng Tôn giáo và Mỹ thuật. Pathet Lào đồng ý cho phép tái hợp nhất các tỉnh Houaphan và Phongsali, đồng thời hợp nhất quân Pathet Lào vào Quân đội Hoàng gia Lào. Các bảo đảm đã được đưa ra rằng Lào sẽ là một quốc gia trung lập và sẽ không cho phép lãnh thổ của mình được sử dụng làm căn cứ để gây hấn với bất kỳ nước láng giềng nào. Chính phủ liên hiệp ra mắt vào tháng 11/1956.
Hiệp định năm 1956 đã được Pháp, Anh, Liên Xô, Trung Quốc và cả hai chính phủ Việt Nam hoan nghênh. Hoa Kỳ không đưa ra ý kiến, và không thực hiện các lời đe dọa cắt viện trợ trước đó nếu Pathet Lào tham gia chính phủ. Nhưng ở hậu trường, đại sứ quán Hoa Kỳ tiếp tục khuyến khích các chính trị gia Lào chống cộng đặt câu hỏi về thỏa thuận này. Những người cộng sản Việt Nam và Lào cũng không có ý định tôn trọng tinh thần của hiệp định năm 1956, mà họ nhìn nhận về mặt chiến thuật thuần túy.
Một số vũ khí của Pathet Lào đã được bàn giao, và hai tiểu đoàn của quân Pathēt Lào trên danh nghĩa được chỉ định là đơn vị của Quân đội Hoàng gia Lào. Phần lớn lực lượng Pathet Lào, do Kaysone chỉ huy, đã rút về các căn cứ ở biên giới Việt Nam để chờ đợi sự phát triển. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng tiếp tục sử dụng những ngọn núi vùng biên giới làm nơi trú ẩn và tuyến đường vận chuyển an toàn (sau này được gọi là đường mòn Hồ Chí Minh).
Chính phủ Hoàng gia Lào đã làm ngơ trước điều này thay vì mạo hiểm sự thống nhất chính phủ của mình, nhưng CIA hoàn toàn biết về những sự thật này. Viện trợ của Hoa Kỳ, do Cơ quan Viện trợ Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) chỉ đạo, tiếp tục với tốc độ 40 triệu đô la một năm (ở một quốc gia 3 triệu dân), nhưng cố tình bỏ qua Bộ Kế hoạch và Tái thiết của Souphanouvong và được chuyển đến Quân đội và các chính trị gia thân thiết.
Hoa Kỳ can thiệp
Để mở rộng sự ngăn chặn thuyết domino, Hoa Kỳ cùng Anh, Pháp, Úc, New Zealand, Pakistan, Philippines, Thái Lan đã thành lập khối quân sự SEATO (Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á). Ngày 8 tháng 9 năm 1954, các nước này ký Hiệp ước phòng thủ Đông Nam Á. Điểm 4 của Hiệp ước này ghi:"trong trường hợp có xâm lược hay tiến công vũ trang chống lại những nước thành viên, các nước ký kết sẽ cùng nhau hành động"... Một điều khoản phụ nêu những nước cần SEATO bảo vệ để chống "xâm lược" và "lật đổ" trong đó có cả Lào. Với việc đặt Lào trong khối bảo trợ của Đông Nam Á, Hoa Kỳ và các nước này đã hợp pháp hóa việc chuẩn bị can thiệp vào Đông Dương.
Đi đôi với biện pháp quân sự, để nắm dân, mở rộng khu vực kiểm soát, Hoa Kỳ và chính phủ Hoàng gia Lào đẩy mạnh các cuộc càn quét, dồn dân lập ra các "khu chấn hưng", "làng đoàn kết" nhằm mục đích giành dân, cô lập lực lượng cộng sản.
Cùng với viện trợ quân sự, kinh tế, Mỹ cho thành lập hệ thống cố vấn nắm quyền chỉ huy điều hành các chính quyền thân Mỹ phục vụ cho kế hoạch xâm lược của Mỹ ở Việt Nam và Lào. Trong mỗi giai đoạn chiến tranh, các tổ chức cố vấn Mỹ đều có sự thay đổi về tên gọi để phù hợp với tình hình cụ thể. ở miền Nam Việt Nam, Mỹ thành lập tổ chức MAAG (Nhóm cố vấn hỗ trợ quân sự) từ năm 1950 khi còn làm nhiệm vụ viện trợ giúp Pháp. Đến giữa năm 1956, Mỹ cho thành lập ở Sài Gòn bốn tổ chức cố vấn với những tên gọi khác nhau MAAG, TRIM, CATO, TERM. Đồng thời cũng thiếp lập MAAG ở Lào từ năm 1961 để thay thế cho Văn phòng Đánh giá Chương trình. Sau đó bị các nước lên án, Hoa Kỳ đã thay thế bằng Văn phòng Thiết yếu (Requirements Office, RO) năm 1962 để tiếp tục cung cấp cho Quân đội Hoàng gia Lào các loại vũ khí và vật tư để hỗ trợ nỗ lực chiến tranh.
Lào trung lập (1958-1959)
Do tham nhũng trong việc phân phối viện trợ quốc tế khiến chính phủ của Souvanna Phouma sớm gặp khó khăn. Mỹ và các nhà tài trợ viện trợ khác đã nhấn mạnh vào việc cải cách tiền tệ để ngăn chặn tình trạng lạm phát phi mã mà chính họ đã gây ra do bơm tiền vào một nền kinh tế kém phát triển như vậy. Souvanna Phouma đã chống lại, vì sợ rằng sự mất giá sẽ ảnh hưởng đến người dân Lào.
Ngày 4 tháng 5 năm 1958, các cuộc bầu cử tự do đã được tổ chức, và Tập hợp Nhân dân Lào (Lao Luam Lao) được thành lập với sự hợp nhất của Đảng Dân tộc Lào (LNP) và Đảng Độc lập Lào (LIP) giành được 36 trong số 59 ghế trong Quốc hội. ICSC-Laos I bị giải tán vào ngày 20 tháng 7 năm 1958. Neo Lao Hak Sat đã giành được 9 ghế trong Quốc hội trong số 21 ghế tranh cử. Souphanouvong đã giành được ghế Viêng Chăn với số phiếu cao nhất so với bất kỳ ứng cử viên nào trong cả nước.
Vào tháng 8 năm 1958, Hoa Kỳ đã đình chỉ các khoản thanh toán viện trợ, liên minh chống cộng và các lực lượng cơ hội trong Quốc hội coi như một tín hiệu để hạ bệ Souvanna Phouma. Thủ tướng Phouma từ chức vào ngày 23 tháng 7 năm 1958, và Phoui Sananikone thành lập chính phủ với tư cách là thủ tướng vào ngày 19 tháng 8 năm 1958. Phoui nhân được sự ủng hộ của Đại sứ quán Hoa Kỳ, đã trở thành Thủ tướng Chính phủ, và các bộ trưởng Pathet Lào không được bổ nhiệm lại. Bộ trưởng Quốc phòng mới là Phoumi Nosavan, một người cánh hữu có liên hệ chặt chẽ với người Mỹ. Dưới sự chỉ huy của ông, quân đội một lần nữa trở thành lực lượng chống cộng. Hai tiểu đoàn cũ của Pathet Lào ngay lập tức quay trở lại Pathet Lào.
Vào tháng 12, Phoumi đã đình chỉ một phần hiến pháp và bắt đầu nằm quyền dưới quyền hạn khẩn cấp, ông đã sử dụng để thanh trừng những người ủng hộ Pathet Lào khỏi chế độ dân sự, và bắt giữ Souphanouvong và các lãnh đạo Pathet Lào khác ở Viang Chan. Vào tháng 7 năm 1959, giao tranh đã sớm nổ ra trên khắp đất nước. Vào thời điểm này, vị vua lớn tuổi Sisavang Vong đời và được kế vị bởi con trai của ông là Savang Vatthana, người thân Mỹ tương tự như cha ông thân Pháp, và nổi tiếng với lời tiên tri rằng ông sẽ là vị vua cuối cùng của Lào.
Việt Nam hỗ trợ
Sau khi Pathet Lào được sát nhập vào Quân đội Hoàng gia Lào, Hoa Kỳ cho rằng đây là một nguy cơ tiềm tàng việc không thực hiện các biện pháp bảo vệ "sàng lọc và tái cấu trúc". Đại sứ quán Hoa Kỳ được chỉ thị thông báo với chính phủ rằng rất khó để được Quốc hội chấp thuận viện trợ cho Lào với những người cộng sản trong Quân đội Hoàng gia Lào.
Chính phủ liên hiệp với mục tiêu đem lại hòa bình cho nước Lào đã được thành lập nhưng đế quốc Mỹ và tay sai vẫn ra sức thi hành chính sách khủng bố đối với cán bộ cách mạng và những người có tư tưởng hòa bình, tiến bộ. Nhiều cán bộ và thường dân Lào ở các tỉnh biên giới chạy sang Việt Nam lánh nạn.
Để tạo điều kiện giúp cách mạng Lào, tháng 12 năm 1958, các đơn vị Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến vào Lào và đánh chiếm một số bản ở huyện Sê Pôn, gần khu phi quân sự DMZ. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt đầu treo cờ của họ trên lãnh thổ và chính thức tuyên bố rằng nó là một phần của Việt Nam trong lịch sử.
Đối với tiền lệ, đây là một tuyên bố khiêm tốn nhất định - tuy nhiên, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đại diện cho việc đơn phương giải thích lại bản đồ của Pháp được Ủy ban Đình chiến Trung Giã sử dụng vào mùa hè năm 1954 để vẽ DMZ. Phoui nhận được quyền hạn bất thường từ Quốc hội để đối phó với cuộc khủng hoảng. Nhưng họ không hành động được gì, thất bại trong việc giành lại lãnh thổ đã mất đã dẫn tới uy tín đối với những người theo chủ nghĩa dân tộc Lào, những người đang hy vọng vào mức độ hỗ trợ lớn hơn của Hoa Kỳ.
Trước khi sự hợp nhất cuối của 1,500 quân Pathet Lào (hai tiểu đoàn) vào Quân đội Hoàng gia Lào diễn ra theo kế hoạch vào tháng 5 năm 1959, Pathet Lào đã trì hoãn buổi lễ hợp nhất để phản đối sự nghi kỵ của Chính phủ Hoàng gia Lào.
Cuối tháng 5, một trong hai tiểu đoàn Pathet Lào đóng quân gần Cánh đồng Chum đào thoát, sau đó là một tiểu đoàn gần Louangphrabang. Sự kiện này báo hiệu một sự nối lại của các hành động thù địch. Vào tháng 7, chính phủ của Phoui, sau những cuộc thảo luận kéo dài trong nội các, đã ra lệnh bắt giữ các đại biểu Mặt trận Tổ quốc Lào (LPF) tại Viêng Chăn - Souphanouvong, Nouhak, Phoumi Vongvichit, Phoun Sipaseut, Sithon Kommadan, Singkapo, và những người khác. Tiao Souk Vongsak trốn thoát không bị bắt. nhỏ|phải|Đường mòn Hồ Chí Minh đã được người Việt Nam và người Lào sử dụng từ thuở sơ khai. Đường mòn Hồ Chí Minh khoảng năm 1959 Đầu tháng 7 năm 1959, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân Lào quyết định phối hợp mở đợt hoạt động quân sự trong mùa mưa năm 1959, lấy Tiểu đoàn 2 Pathet Lào làm nòng cốt chiến đấu, chuyển từ đấu tranh công khai hợp pháp sang đấu tranh vũ trang trên toàn quốc, đẩy mạnh chiến tranh du kích, giành lại chính quyền ở thôn, bản, vận động thanh niên tòng quân, xây dựng bộ đội chủ lực và phát triển lực lượng vũ trang địa phương, chuẩn bị chiến đấu lâu dài. Đồng thời liên hệ đón số binh sĩ cũ của Tiểu đoàn 1 phân tán ở khu vực Xiêng Ngân ra vùng căn cứ, bổ sung quân số, khôi phục lại tiểu đoàn.
Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam đề xuất phương án hoạt động quân sự ở Lào. Hướng chiến lược chủ yếu là Thượng Lào, lấy hai tỉnh Sầm Nưa và Phôngsali làm căn cứ. Trung Lào là hướng hoạt động phối hợp, Hạ Lào thì xây dựng lực lượng chính trị, quân sự bí mật rồi tiến tới đấu tranh vũ trang. Phương châm hoạt động là kết hợp quân sự với chính trị, tác chiến tuyên truyền với xây dựng.
Thực hiện chủ trương giúp Lào mở đợt hoạt động trong mùa mưa năm 1959, Tổng Quân ủy Việt Nam chỉ thị cho Quân khu Tây Bắc (nay là Quân khu 2) và Quân khu 4 cử một số đơn vị cấp đại đội, tiểu đoàn, phối hợp với các đơn vị Pathet Lào tiến công một số cứ điểm của địch ở sát biên giới Việt - Lào, sau đó chia thành ba bộ phận theo ba hướng trở về Lào chiến đấu. Bộ phận thứ nhất gồm Tiểu đoàn 2, do Kaysone trực tiếp chỉ đạo; Lê Chưởng, phụ trách Đoàn trưởng Đoàn cán bộ Việt Nam giúp Lào cùng đi với tiểu đoàn tiến từ Đông Nam Sầm Nưa lên vùng Đông Nam Xiêng Khoảng (hướng chủ yếu). Bộ phận thứ hai, gồm Tiểu đoàn 4, do Khamtai Siphandon trực tiếp chỉ đạo, tiến từ Mương Xon - Bắc Sầm Nưa, Phôngsali - Luang Phrabang đến Xiêng Ngân (hướng thứ yếu). Bộ phận thứ ba do một đại đội của Tiểu đoàn 1 phụ trách từ Bắc đường 8 đến đường 12 - Khăm Muộn (hướng phối hợp). Các Tiểu đoàn 1, 2, 4 đều có một tổ chuyên gia và bộ phận điện đài đi cùng theo từng hướng. Các cuộc tấn công đã thiết lập chiến thuật, quân đội Nhân dân Việt Nam cùng Pathet Lào tấn công các cứ điểm, sau đó rút lui và để cho Pathet Lào giữ các vị trí vừa được chiếm. Chiến thuật này tạo ra sự che giấu việc Quân đội Nhân dân Việt Nam can thiệp vào công việc của Lào. Nên ngày 6 tháng 11 năm 1959, Tiểu ban điều tra tình hình Lào của Liên hợp quốc báo cáo Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc xác nhận không có Quân đội Nhân dân Việt Nam xâm lược Lào. Đồng thời được sự hỗ trợ của các đơn vị Pathet Lào, nhân dân các địa phương đã nổi dậy, giải phóng một số huyện vùng rộng lớn giáp biên giới.
Những lời đồn về Quân đội Nhân dân Việt Nam ở các vùng lân gây tác động đáng sợ đến tinh thần chiến đấu của Quân đội Hoàng gia Lào, và lực lượng địa phương. Ở vùng núi tỉnh Houaphan vào mùa hè năm đó có một đại úy quân đội Hoàng gia Lào trẻ tuổi tên là Kong Le. Kong Le năm quyền hai đại đội thuộc Tiểu đoàn Nhảy Dù số hai đi tuần tiễu hầu khu vực giáp biên giới Việt Nam. Khi quay trở lại Sầm Nưa mà không gặp địch, nhưng đã thấy rằng các đồn tan hoang, nên đã tháo chạy khỏi thị trấn.
Chiến lược của Đảng Lao động Việt Nam hiện đã quyết định xâm nhập miền Nam Việt Nam. Đồng thời, Đảng cũng vạch ra một nhiệm vụ là hỗ trợ Đảng Nhân dân Lào, bên cạnh nhiệm vụ của Đảng Nhân dân Lào là lãnh đạo cuộc cách mạng ở Lào. Chiến lược tiến về phía Nam của Hà Nội đã mở những con đường đầu tiên xuyên qua địa hình cực kỳ hiểm trở của huyện Sê Pôn vào giữa năm 1959, nơi đã trở thành Đường mòn Hồ Chí Minh.
Ngày 12 tháng 9 năm 1959, Bộ Quốc phòng Việt Nam ra Quyết định số 446-QĐ/QP thành lập Đoàn 959 (còn gọi là Đoàn công tác miền Tây). Nhiệm vụ: làm chuyên gia về quân sự cho Quân ủy Trung ương và Bộ Chỉ huy tối cao Quân giải phóng Nhân dân Lào, tổ chức chi viện vật chất của Việt Nam cho cách mạng Lào và trực tiếp chỉ huy các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam hoạt động ở khu vực Sầm Nưa, Xiêng Khoảng, Viêng Chăn. Đoàn sẽ tiếp tục tồn tại cho đến năm 1968, khi Quân đội Nhân dân Việt Nam trực tiếp chiến đấu và lực lượng Pathet Lào đã lớn mạnh.
Lào thất bại trong việc trung lập (1960-1964)
nhỏ|trái|Trung tâm huấn luyện Lực lượng vũ trang Lào tại Khang Khai, Lào, tháng 3 năm 1960 Bất chấp sự đàn áp Pathet Lào, chính phủ của Phoui đã không trao cho những người cực hữu quyền lực mà họ muốn, vào tháng 12/1959, Phoumi Nosavan đã tổ chức cuộc đảo chính quân sự đầu tiên của Lào. Viêng Chăn bị chiếm đóng và Phoui bị bắt, nhưng Phoumi buộc phải rút lui khi Nhà vua, trước sự thúc giục của các đại sứ phương Tây, từ chối bổ nhiệm ông làm Thủ tướng, và đã bổ nhiệm Kou Abhay làm Thủ tướng. Một thỏa hiệp đã đạt được theo đó một người họ hàng của hoàng gia, Hoàng thân Somsanith Vongkotrattana, trở thành Thủ tướng danh nghĩa trong khi Phoumi vẫn giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng và trở thành người có quyền lực thực sự trong chính phủ.
Chính phủ mới đã ngay lập tức bối rối trước cuộc vượt ngục đầy kịch tính của Souphanouvong và các nhà lãnh đạo Pathet Lào khác khỏi nhà tù, ngày 24/5/1960, họ đã giác ngộ binh lính, sĩ quan canh gác trại giam, đồng thời những người đã cùng họ về căn cứ cách mạng. Chính phủ cũng bị phản đối bởi các phần tử quân đội tiếp tục ủng hộ Souvanna Phouma và các chính sách trung lập của ông.
Ngày 9 tháng 8 năm 1960, Đại úy Kong Le tổ chức một cuộc đảo chính chớp nhoáng, yêu cầu Quốc hội họp và phục hồi Souvanna Phouma. Đối mặt với một đám đông giận dữ ủng hộ cuộc đảo chính, Quốc hội chấp thuận và Souvanna Phouma thành lập chính phủ thứ ba của mình. Văn phòng Đánh giá Chương trình đã được Air America sơ tán ngay lập tức. Trong nỗ lực vô hiệu hóa phe đối lập cánh hữu, Souvanna Phouma đề nghị đưa Phoumi Nosavan vào chính phủ mới, nhưng thay vào đó, Phoumi đã xuống phía nam để cùng Boun Oum Na Champasak thành lập một "Ủy ban Cách mạng" chống cộng với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ.
Cuộc đảo chính của Kong đã chia rẽ quân đội, với một số đơn vị đồn trú ủng hộ ông và một số hỗ trợ Phoumi. Tuy nhiên, vì người Mỹ đang chi trả chi phí cho quân đội, các đơn vị của Kong không thể trụ vững được lâu, và không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tìm kiếm liên minh với Pathet Lào, một động thái mà Souvanna Phouma ủng hộ bằng cách bay đến trụ sở Pathet Lào tại vùng núi Sầm Nưa để đưa ra lời kêu gọi chung với Souphanouvong về sự thống nhất và trung lập của Lào. Đây là một cuộc đảo chính mang tính tuyên truyền lớn đối với Pathet Lào, và dẫn đến một cuộc tiến công mới của Pathet Lào - Việt, vốn đã sớm chiếm hầu hết miền bắc và miền đông của Lào.
Lần đầu tiên Pathet Lào bắt đầu nhận được viện trợ quân sự và tài chính đáng kể của Liên Xô, và các cố vấn Liên Xô đã xuất hiện ở Lào. Đối với Mỹ, đây là một tín hiệu cho một cuộc chiến toàn diện. Viện trợ ồ ạt được gửi đến Phoumi và Boun Oum ở phía nam, vào tháng 10, họ tiến về phía Viêng Chăn. Số lượng đại biểu cần thiết của Quốc hội đã họp tại Savannakhet và tuyên bố Souvanna Phouma bị phế truất và thay thế bởi Boun Oum. Vào tháng 12, đội quân cực hữu tiến đến Viêng Chăn và sau ba ngày giao tranh ác liệt, trong đó có khoảng 500 người bị chết, đã chiếm được thành phố. Souvanna Phouma chạy sang Campuchia, trong khi lực lượng của Kong rút lui đến các khu vực Pathet Lào, hiện đã chiếm một phần lớn đất nước.
Tại thời điểm này, bầu không khí chính trị quốc tế thay đổi với sự kết thúc của Chính quyền Eisenhower và lễ nhậm chức của John F. Kennedy. Chính quyền Kennedy có quan điểm rằng lợi ích của Mỹ được phục vụ tốt nhất bằng cách chấm dứt xung đột Lào thông qua việc thực thi các hiệp định Geneva năm 1956, một chính sách mà Kennedy đã đồng ý tại hội nghị thượng đỉnh của ông với Nikita Khrushchev ở Vienna vào tháng 6 năm 1961. Kết quả là hội nghị Geneva được triệu tập lại, nhưng cả người Mỹ và người Liên Xô đều gặp một số khó khăn để "những con rối" của họ đồng ý thỏa hiệp. Phoumi và Boun Oum lo sợ rằng bất kỳ thỏa thuận nào sẽ cướp đi chiến thắng quân sự của họ và đưa Souvanna Phouma th