✨Lịch sử hành chính An Giang
Lịch sử hành chính An Giang được xem là bắt đầu từ cuộc cải cách hành chính của Minh Mạng năm 1832, khi thành lập 12 tỉnh từ các dinh trấn ở miền Nam. Sau cuộc sáp nhập tỉnh, thành Việt Nam 2025, về mặt hành chính, An Giang được chia làm 102 đơn vị hành chính cơ sở, gồm 14 phường, 85 xã, và 3 đặc khu (gồm đặc khu Phú Quốc, đặc khu Kiên Hải và đặc khu Thổ Châu).
Thời Chúa Nguyễn và Nhà Tây Sơn
Trước khi thành lập tỉnh
Vùng đất An Giang ngày nay, khi xưa thuộc đất Kompong Long, được sử Việt chép là Tầm Phong Long, vốn thuộc vùng ảnh hưởng vương quốc Chân Lạp. Đến năm Đinh Sửu 1757, quốc vương Chân Lạp là Outey II (sử Việt chép là Nặc Tôn) dâng đất này cho chúa Nguyễn để tạ ơn công sức đã đưa ngài ấy lên ngôi chính vương Chân Lạp. Chúa Nguyễn Phúc Khoát sai Nguyễn Cư Trinh vào nhận đất Tầm Phong Long, lập thành 3 đạo là: Tân Châu, Đông Khẩu (Sa Đéc), Châu Đốc; và cho tất cả trực thuộc dinh Long Hồ.
Từ thời thuộc Chân Lạp cho đến tận đầu nhà Nguyễn, đất An Giang còn hoang hóa, rất ít dân cư. Những năm đầu thời vua Gia Long, nhà Nguyễn mới tổ chức mộ dân đến khai hoang định cư, và cho thuộc vào thuộc trấn Vĩnh Thanh (1 trong 5 trấn của thành Gia Định).
Thời Nhà Nguyễn
Tỉnh An Giang
Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), vua Minh Mạng chia trấn Vĩnh Thanh thành hai tỉnh An Giang và Vĩnh Long. Tỉnh An Giang (chữ Hán: 安江), đồng thời chia thành 2 phủ (với 4 huyện): phủ Tuy Biên (gồm 2 huyện: Tây Xuyên, Phong Phú), phủ Tân Thành (gồm 2 huyện: Đông Xuyên và Vĩnh An). Cùng lúc, đặt ra chức An-Hà tổng đốc thống lĩnh cả hai tỉnh An Giang và Hà Tiên, lỵ sở đặt tại tỉnh thành Châu Đốc của tỉnh An Giang. Địa bàn tỉnh An Giang dưới thời nhà Nguyễn rất rộng. So với địa giới hành chính ngày nay bao gồm toàn bộ tỉnh An Giang, thành phố Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, một phần tỉnh Đồng Tháp và huyện Giá Rai (thuộc tỉnh Bạc Liêu).
Tháng 4 năm 1824, Nặc Ông Chân (Ang Chan II), hiến tặng nhà Nguyễn thông qua Nguyễn Văn Thoại (để trả ơn ông Thoại), 3 vùng Chân Sum (còn gọi là Chân Thành hay Chân Chiêm, nằm giữa Giang Thành và Châu Đốc), Mật Luật (Ngọc Luật, cũng nằm giữa Giang Thành và Châu Đốc), Lợi Kha Bát (Prey Kabbas), Takeo). Nhà Nguyễn chỉ lấy 2 đất Chân Sum và Mật Luật (Mật Luật sau thành đất huyện Tây Xuyên). Chân Sum sau được phân vào hai huyện Hà Âm và Hà Dương từng thuộc phủ Tĩnh Biên (Tịnh Biên)/tỉnh Hà Tiên, trước khi chia về cho tỉnh An Giang.
An Giang là một trong sáu tỉnh đầu tiên ở Nam Kỳ (Nam Kỳ lục tỉnh) vào thời nhà Nguyễn độc lập, thành lập năm 1832 dưới triều vua Minh Mạng. phải|nhỏ|Bản đồ cổ tỉnh An Giang nhà Nguyễn có tên là An Giang toàn đồ (安江全圖) in trong địa bạ tỉnh An Giang năm 1836. Năm 1833, tỉnh An Giang bị quân Lê Văn Khôi nổi dậy chiếm đóng, nhà Nguyễn phải điều binh đánh dẹp, cuối cùng Án sát An Giang là Bùi Văn Lý lấy lại được tỉnh thành (Châu Đốc) từ tay của quân Khôi. Năm 1833-1834, quân nước Xiêm La, theo cầu viện của Lê Văn Khôi, tiến vào An Giang theo đường sông Cửu Long đánh nhà Nguyễn, bị quân nhà Nguyễn do Trương Minh Giảng, Nguyễn Xuân đánh bại trên sông Vàm Nao.
Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), nhà Nguyễn lấy thêm đất Ba Thắc (Bassac, thuộc Cao Miên) sáp nhập vào An Giang và lập thành phủ Ba Xuyên. Đất Ba Thắc cũ chia thành 2 huyện Phong Nhiêu và Phong Thịnh. Đồng thời nhập thêm huyện Vĩnh Định của tỉnh Vĩnh Long vào phủ Ba Xuyên, khiến phủ Ba Xuyên có 3 huyện: Phong Nhiêu, Phong Thịnh và Vĩnh Định.
Phân chia hành chánh tỉnh An Giang năm 1836:
- Phủ Tân Thành:
-Huyện Vĩnh An:
: -Tổng An Hội gồm 1 xã Sùng Văn và 4 thôn: An Tịch, Tân Lâm, Tân Qui Đông, Tân Xuân : -Tổng An Mỹ gồm 7 thôn: An Thuận, Phú An, Phú Hựu, Phú Nhơn, Tân An Đông, Tân Hựu, Tân Nhơn; : -Tổng An Thạnh gồm 7 thôn: Hội An, Mỹ An, Tân An Trung, Tân Đông, Tân Khánh, Tân Khánh Tây, Tân Mỹ; : -Tổng An Thới gồm 5 thôn: Nhơn Qưới, Tân Dương, Tân Long, Tân Thạnh, Vĩnh Thạnh; : -Tổng An Tĩnh gồm 3 thôn: Phú An Đông, Tân Thuận, Tân Tịch; : -Tổng An Trung gồm 6 thôn: Bình Tiên, Tân Phú Đông, Tân Phú Trung, Tân Phú, Tân Qui Tây, Vĩnh Phước; : -Tổng An Trường gồm 8 thôn: Định Hòa, Đông Thành, Đông Thành Trung, Kim Bồn, Mỹ Thuận, Phù Ly, Tân Lộc Trung, Tân Phong;
-Huyện Vĩnh Định:
: -Tổng Định An gồm 3 thôn: Đông Phú, Long Hưng, Phú Mỹ Đông; : -Tổng Định Bảo gồm 8 thôn: Nhơn Ái, Tân An, Tân Lợi, Tân Thạnh Đông, Thới Bình, Thường Thạnh, Thường Thạnh Đông, Trường Thành; : -Tổng Định Khánh gồm 11 thôn: An Khánh, An Thạnh Nhì, An Thạnh Nhứt, Châu Hưng, Châu Khánh, Đại Hòa, Đại Hữu, Đại Thạnh, Hòa Mỹ, Phong Phú, Phú Hữu; : -Tổng Định Thới gồm 6 thôn: Bình Thủy, Phú Long, Tân Lộc Đông, Thới An, Thới An Đông, Thới Hưng;
- Phủ Tuy Biên:
-Huyện Đông Xuyên:
: -Tổng An Lương gồm 12 thôn: Bình Thạnh Đông, Hòa Thạnh, Lý Nhơn, Mỹ Hội Đông, Nhơn An, Nhơn Lương, Tân Hưng, Toàn Đức, Vĩnh Hậu, Vĩnh Lộc, Vĩnh Toàn, Mỹ Lương; : -Tổng An Phú gồm 7 thôn: An Hòa, Bình Hòa Tây, Nhơn Hòa, Tân Bình, Định An, Long Hậu, Tân Lộc; : -Tổng An Thành gồm 10 thôn: Long Hưng, Long Khánh, Long Sơn, Phú Lâm, Tân An, Tân Thiện, Vĩnh Hòa, Vĩnh Lạc, Vĩnh Lợi, Vĩnh Xương; : -Tổng An Toàn gồm 9 thôn: Kiến Long, Kiến Thạnh, Mỹ Chánh, Mỹ Hưng, Mỹ Long, Mỹ Phú, Toàn Đức, Toàn Đức Đông, Tú Điền;
-Huyện Tây Xuyên:
: -Tổng Châu Phú gồm 29 thôn: An Nông, An Thạnh, Bình Thạnh, Hưng An, Khánh An, Long Thạnh, Nhơn Hòa, Nhơn Hội, Phú Cường, Thân Nhơn Lý, Thới Hưng, Vĩnh Bảo, Vĩnh Điều, Vĩnh Hội, Vĩnh Khánh, Vĩnh Lạc, Vĩnh Ngươn, Vĩnh Phước, Vĩnh Tế Sơn, Vĩnh Thành, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Thọ, Vĩnh Thông, Vĩnh Trung, Vĩnh Trường, Châu Phú, Vĩnh Gia, Vĩnh Hòa Trung, Vĩnh Lạc Trung; : -Tổng Định Phước gồm 9 thôn: Mỹ Phước, Mỹ Thạnh, Tân Thuận Đông, Thạnh Hòa Trung, Thoại Sơn, Thới Thuận, Vĩnh Chánh, Vĩnh Phú, Vĩnh Trinh; : -Tổng Định Thành gồm 6 thôn: Bình Đức, Bình Hòa Trung, Bình Lâm, Bình Mỹ, Vĩnh Thạnh Trung, Vĩnh Thuận.
Năm Minh Mạng thứ 20 (1839), nhà Nguyễn đặt thêm huyện An Xuyên (tách từ phần đất huyện Vĩnh An ra) lệ thuộc vào phủ Tân Thành. Cùng năm này, nhà Nguyễn còn cắt đất huyện Chân Thành phủ Chân Chiêm thuộc Trấn Tây Thành (xứ Cao Miên do nhà Nguyễn bảo hộ) hợp với phần đất cắt từ huyện Tây Xuyên để lập hai huyện Hà Dương (ở bờ Nam sông Vĩnh Tế) và Hà Âm (ở bờ Bắc sông Vĩnh Tế) của tỉnh Hà Tiên (sau chuyển sang tỉnh An Giang), nhập thêm thổ huyện Ô Môn (tên gọi cũ của vùng đất thuộc Cao Miên (Trấn Tây Thành) có nhiều người Khmer sinh sống) vào thành huyện Phong Phú, thổ huyện Mật Luật (Ngọc Luật) của Trấn Tây Thành vào huyện Tây Xuyên.
Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), Thiệu Trị trích phủ Tĩnh Biên cùng huyện Hà Dương của tỉnh Hà Tiên, sáp nhập vào An Giang. Năm 1844, trích thêm huyện Hà Âm của tỉnh Hà Tiên nhập vào phủ Tĩnh Biên, lúc này phủ Tĩnh Biên gồm các huyện Hà Âm, Hà Dương. Năm Tự Đức thứ 3 (1850), nhà Nguyễn bỏ phủ Tĩnh Biên, cho nhập 2 huyện Hà Âm và Hà Dương vào phủ Tuy Biên. Vào thời vua Tự Đức tỉnh An Giang gồm có 3 phủ với 10 huyện: Hà Âm, Hà Dương, Phong Phú, Tây Xuyên, Đông Xuyên, Vĩnh An, An Xuyên, Phong Nhiêu, Phong Thịnh, Vĩnh Định.
- Phủ Tuy Biên (绥边):
- Huyện Hà Âm, trước là đất huyện Châu Thành nước Cao Miên, gồm 2 tổng (có thể là 2 tổng với tên là Thành Tín và Quy Đức, sau này được tổ chức lại thành 2 tổng nằm ngay bên bờ kênh Vĩnh Tế của tỉnh Châu Đốc năm 1901) với 40 làng xã (Vĩnh Thông, Vĩnh Bảo, Vĩnh Lạc, Vĩnh Gia, Vĩnh Điều, Thân Nhơn Lý...), phía tây giáp huyện Hà Châu tỉnh Hà Tiên, phía nam giáp huyện Hà Dương, phía đông giáp huyện Tây Xuyên, phía bắc giáp nước Cao Miên. Theo Đại Nam nhất thống chí: huyện Hà Âm nằm bên trái (tả, tức bờ phía tây bắc) sông Vĩnh Tế. Như vậy, vào thời này, vùng đất huyện Hà Âm thuộc phần đất giáp biên giới của Campuchia với Việt Nam, tức là phần đất huyện Kiri Vong, và có thể cả phần đất các huyện Kaoh Andaet, Bourei Cholsar thuộc tỉnh Takeo, Campuchia.
-Huyện Hà Dương (河陽), nguyên là đất huyện Chân Thành nước Cao Miên, gồm 4 tổng (Thành Tâm, Thành Ý, Thành Lễ, Thành Ngãi (hay Thành Nghĩa)) với 40 làng xã (Vĩnh Quới, Hưng Nhượng, An Nông, An Thạnh, Phú Thạnh, Nhơn Hòa, Thới Sơn, Tà Đảnh, Thuyết Nạp, Trát Quan, Tu Tế, Văn Giáo, Vĩnh Trung, Xuân Tô, An Cư, Ba Chút, Bích Trì, Bôn Ca, Châu Lăng, Lê Huất, Lương Đô, Phi Yên, Trầm Văn, An Tức, Đôn Hậu, Giai Âm, Nam Qui, Phi Cấm, Tri Tôn, Cô Tô, Nam Chỉ, Ngôn Nạp, Ô Lâm,...), phía tây giáp huyện Hà Châu tỉnh Hà Tiên, phía nam giáp huyện Kiên Giang tỉnh Hà Tiên, phía đông giáp huyện Tây Xuyên, phía bắc giáp huyện Hà Âm. Đất huyện Hà Dương vào thời nay thuộc các huyện Châu Thành, Thoại Sơn và Tri Tôn của tỉnh An Giang.
-Huyện Phong Phú (豐富) từng là đất huyện Vĩnh Định và đất thổ huyện Ô Môn (của Cao Miên), gồm 3 tổng với 31 làng xã, phía tây giáp huyện Kiên Giang tỉnh Hà Tiên, phía nam giáp huyện Vĩnh Định (phủ Ba Xuyên), phía bắc giáp 2 huyên Tây Xuyên và An Xuyên (phủ Tân Thành). Đất huyện Phong Phú nay có thể là đất thuộc các quận huyện Thốt Nốt, Ô Môn,... của thành phố Cần Thơ. Đại Nam nhất thống chí chép: "Sông Cần Thơ ở bờ Tây sông Hậu, cách huyện Phong Phú 3 dặm về phía đông,..., bờ phía tây là thủ sở đạo Trấn Giang cũ,..."
-Huyện Tây Xuyên (西川) nguyên là đất đạo Châu Đốc cùng huyện Vĩnh Định và thổ huyện Mật Luật (của Cao Miên), nằm ở bờ Tây sông Hậu, gồm 3 tổng (Châu Phú, Định Thành, Định Phước) với 38 làng xã, phía tây giáp huyện Hà Dương, phía nam giáp huyện Long Xuyên tỉnh Hà Tiên, phía đông và phía bắc giáp huyện Đông Xuyên (phủ Tân Thành). Đất huyện Tây Xuyên nay có thể là đất thuộc các huyện thị Châu Đốc, An Phú, Châu Phú, Châu Thành, thành phố Long Xuyên,... của tỉnh An Giang.
- Phủ Tân Thành (新成):
-Huyện Đông Xuyên nguyên là đất huyện Vĩnh Định (gồm đạo Tân Châu) nằm ở phía đông sông Hậu Giang (giữa sông Tiền và sông Hậu), gồm 4 tổng với 33 làng xã, phía tây và phía nam giáp huyện Tây Xuyên, phía đông giáp các huyện Kiến Đăng, (Kiến Phong) tỉnh Định Tường, phía bắc giáp nước Cao Miên. Đất huyện Đông Xuyên nay có thể là thuộc đất các huyện thị Tân Châu, An Phú, Phú Tân,... của tỉnh An Giang.
-Huyện Vĩnh An (永安) gồm 4 tổng với 36 làng xã, phía tây giáp huyện Phong Phú, phía nam và phía đông giáp huyện An Xuyên, phía bắc giáp huyện Kiến Phong tỉnh Định Tường. Đất huyện Vĩnh An có thể nay là đất thuộc huyện Chợ Mới và một số huyện phía nam tỉnh Đồng Tháp (nằm giữa sông Tiền và sông Hậu) là: Lấp Vò, Lai Vung, Sa Đéc (đạo Đông Khẩu). Theo Đại Nam nhất thống chí thì đạo Đông Khẩu ở bờ Nam sông Sa Đéc thuộc địa phận huyện Vĩnh An.
-Huyện An Xuyên (安川) gồm 3 tổng với 25 làng xã, phía tây giáp huyện Phong Phú, phía nam giáp huyện Vĩnh Định, phía đông giáp tỉnh Vĩnh Long, phía bắc giáp tỉnh Định Tường. Đất huyện An Xuyên có thể nay thuộc các huyện thị phía nam tỉnh Đồng Tháp (nằm giữa sông Tiền và sông Hậu) là: Lấp Vò, Lai Vung, Châu Thành... và có thể là cả đất huyện Bình Minh tỉnh Vĩnh Long ngày nay.
- Phủ Ba Xuyên (巴川):
-Huyện Vĩnh Định (永定) nguyên trước là huyện Vĩnh Định tỉnh Vĩnh Long nhà Nguyễn sau cắt sang An Giang, gồm 4 tổng (Định Thới, Định An, Định Khánh, và Trấn Giang (tức Cần Thơ)) với 19 làng xã, phía tây giáp huyện Phong Nhiêu, phía nam giáp huyện Phong Thịnh, phía đông và phía bắc giáp tỉnh Vĩnh Long nhà Nguyễn. Đất huyện Vĩnh Định nay có thể là vùng đất giáp bờ sông Hậu thuộc các tỉnh Hậu Giang (chủ yếu), Sóc Trăng (một phần).
-Huyện Phong Nhiêu (豐饒), gồm 3 tổng với 17 làng xã, phía tây giáp huyện Kiên Giang tỉnh Hà Tiên, phía nam giáp biển Đông, phía đông và phía bắc giáp huyện Vĩnh Định. Nay đất huyện Phong Nhiêu có thể thuộc phần phía tây 2 tỉnh Hậu Giang và Sóc Trăng, cùng phần phía đông hay toàn bộ tỉnh Bạc Liêu.
-Huyện Phong Thịnh (豐盛), đến năm Tự Đức thứ 3 (1850) bị nhập vào cùng huyện Vĩnh Định với sự kiêm quản của phủ lỵ nên bị xóa tên. Toàn bộ đất huyện Phong Thịnh có thể là nằm trọn vẹn trong địa bàn tỉnh Sóc Trăng ngày nay.
Các tổng đốc An Giang-Hà Tiên của nhà Nguyễn: Trương Minh Giảng nhiệm kỳ 1832-1836 Lê Đại Cương (có tội, bị cách chức) Trương Minh Giảng nhiệm kỳ: 3(âm)/1838 - 1840 Dương Văn Phong nhiệm kỳ: 9(âm)/1840 - 3(âm)/1841 (bi cách chức) Nguyễn Văn Chương (tức Nguyễn Tri Phương) tuần phủ kiêm quyền hộ lý tổng đốc 1841 Phạm Văn Điển nhiệm kỳ 1841-1842 (ốm chết) *Nguyễn Công Nhàn nhiệm kỳ 1842-1844 (bị cách chức)
Nguyễn Văn Chương (tức Nguyễn Tri Phương) nhiệm kỳ 1844-1845 Tôn Thất Bạch nhiệm kỳ 1845-1847 Doãn Uẩn nhiệm kỳ 1847-1850 (ốm chết) Cao Hữu Bằng (Cao Hữu Dực) nhiệm kỳ 1850-1859 (ốm chết) Nguyễn Công Nhàn nhiệm kỳ 1859-1861 (bị cách chức) Phan Khắc Thận (1861-1867 (khi Pháp chiếm An Giang) Các Tuần phủ (tỉnh trưởng) An Giang nhà Nguyễn Lê Đại Cương nhiệm kỳ 1832-1836 Dương Văn Phong nhiệm kỳ 1838-1840 Nguyễn Tri Phương 1841 Nguyễn Công Trứ nhiệm kỳ 1842-1844
Doãn Uẩn nhiệm kỳ 1844-1847 Cao Hữu Dực 1847-1850 Phan Khắc Thận 1859-1861 Lê Đức
Tỉnh Hà Tiên
Thời Pháp thuộc và Nhật thuộc
Tỉnh Long Xuyên và tỉnh Châu Đốc
Năm 1868, thực dân Pháp chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ là An Giang, Vĩnh Long và Hà Tiên. Lúc này, thực dân Pháp dần xóa bỏ tên gọi tỉnh An Giang cùng hệ thống hành chính phủ huyện cũ thời nhà Nguyễn ở khu vực này, đồng thời cũng đặt ra các hạt Thanh tra. Theo đó, tỉnh An Giang bị đổi tên thành tỉnh Châu Đốc, do lấy theo tên gọi nơi đặt lỵ sở của tỉnh là thành Châu Đốc. Tỉnh Châu Đốc khi đó gồm các hạt Thanh tra, vốn lấy tên gọi theo địa điểm nơi đặt lỵ sở như: hạt Châu Đốc (phủ Tuy Biên cũ), hạt Sa Đéc (phủ Tân Thành cũ) và hạt Ba Xuyên (phủ Ba Xuyên cũ):
-Hạt Châu Đốc (phủ Tuy Biên cũ), đặt lỵ sở tại Châu Đốc, gồm 2 huyện: Đông Xuyên và Hà Dương
-Hạt Sa Đéc (phủ Tân Thành cũ), đặt lỵ sở tại Sa Đéc, gồm 3 huyện: An Xuyên, Vĩnh An và Phong Phú
-Hạt Ba Xuyên (phủ Ba Xuyên cũ), đặt lỵ sở tại Sóc Trăng, gồm 3 huyện: Vĩnh Định, Phong Nhiêu và Phong Thạnh
Sau này, hạt Thanh tra Ba Xuyên cũng được đổi tên thành hạt Thanh tra Sóc Trăng. Về sau, hạt Thanh tra Châu Đốc cũng tách ra để thành lập thêm hạt Thanh tra Long Xuyên; hạt Thanh tra Sa Đéc tách ra hợp với một phần đất thuộc tỉnh Vĩnh Long trước đây để thành lập hạt Thanh tra Trà Ôn. Một năm sau, Tòa Bố chính từ Trà Ôn lại dời về Cái Răng.
Ngày 5 tháng 6 năm 1871, hạt Thanh tra Long Xuyên và hạt Thanh tra Châu Đốc nhận thêm phần đất đai thuộc địa bàn tổng Phong Thạnh vốn thuộc huyện Kiến Phong, tỉnh Định Tường vào thời nhà Nguyễn độc lập như sau:
-Hạt Châu Đốc: lấy phần đất 3 làng An Bình, An Long và Tân Thạnh thuộc tổng Phong Thạnh, huyện Kiến Phong. Phần đất này nằm ở phía tây bắc Đồng Tháp Mười, sau gọi là tổng An Phước thuộc hạt Châu Đốc.
-Hạt Long Xuyên: lấy địa phận các làng Tân Phú, Tân Thạnh của tổng Phong Thạnh, huyện Kiến Phong để lập tổng mới gọi là tổng Phong Thạnh Thượng thuộc hạt Long Xuyên.
Theo Nghị định ngày 5 tháng 1 năm 1876, thực dân Pháp bỏ hẳn hệ thống Nam Kỳ lục tỉnh thời nhà Nguyễn, đồng thời các hạt Thanh tra được thay bằng hạt tham biện (arrondissement), các thôn đổi thành làng. Vùng đất Nam Kỳ lúc này bị chia thành 4 khu vực hành chính (circonscription) do thực dân Pháp đặt ra, trong đó có khu vực Bassac (Hậu Giang) cai quản các hạt tham biện: Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên, Rạch Giá, Trà Ôn và Sóc Trăng. Tuy nhiên, hạt tham biện Sa Đéc lại thuộc về khu vực Vĩnh Long. Ngày 23 tháng 2 năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định mới lấy huyện Phong Phú và một phần huyện An Xuyên và Tân Thành để lập hạt Cần Thơ với thủ phủ là Cần Thơ. Hạt Cần Thơ thuộc khu vực Bassac (Hậu Giang).
Năm 1882, thiết lập hạt tham biện Bạc Liêu trên cơ sở tách 3 tổng Quảng Long, Quảng Xuyên và Long Hưng của hạt tham biện Rạch Giá hợp với 2 tổng Thạnh Hòa và Thạnh Hưng tách từ hạt tham biện Sóc Trăng chuyển sang. Lỵ sở Bạc Liêu thuộc địa bàn tổng Thạnh Hòa vốn trước đó thuộc hạt tham biện Sóc Trăng. Như vậy địa bàn tỉnh An Giang cũ gồm các hạt tham biện Sa Đéc, Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ, Sóc Trăng và Bạc Liêu nằm trong 2 khu vực Vĩnh Long và Bassac (Hậu Giang).
Ngày 12 tháng 8 năm 1888, hạt tham biện Rạch Giá bị giải thể, nhập vào hạt tham biện Long Xuyên. Ngày 27 tháng 12 năm 1892, thực dân Pháp lại tái lập hạt tham biện Rạch Giá. Năm 1888, Hà Tiên cho thuộc về hạt tham biện Châu Đốc, đến cuối năm 1892 lại phục hồi hạt tham biện Hà Tiên.
Theo Nghị định của Toàn quyền Đông Dương vào ngày 20 tháng 12 năm 1899 thì kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1900, đổi tất cả các hạt ở Nam Kỳ thành tỉnh. Địa bàn tỉnh An Giang cũ chia ra thành 6 tỉnh giống như thời kỳ trước đây: Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và Bạc Liêu. Tình hình đó kéo dài cho đến năm 1956.
Vào thời Pháp thuộc, vùng đất tỉnh An Giang ngày nay (thuộc Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) là phần đất thuộc Châu Đốc và Long Xuyên. Phần đất của hai tỉnh này khi đó còn bao gồm cả một phần đất thuộc về các huyện thành Hồng Ngự, Tân Hồng, Tam Nông và Thanh Bình (của tỉnh Đồng Tháp), huyện Vĩnh Thạnh, các xã thuộc huyện Cờ Đỏ và quận Thốt Nốt (của TP. Cần Thơ) và một phần nhỏ huyện Giang Thành (thuộc tỉnh Kiên Giang) ngày nay.
Tỉnh Châu Đốc
Năm 1903, tỉnh Châu Đốc ban đầu có 3 quận: Tân Châu, Tri Tôn và Tịnh Biên. Năm 1917, Châu Đốc thành lập thêm quận Châu Thành, đến năm 1919 thì đổi tên là quận Châu Phú. Tuy nhiên năm 1939 lại đổi về tên quận Châu Thành như cũ. Ngày 19 tháng 12 năm 1929, thực dân Pháp lập thêm quận Hồng Ngự thuộc do tách ra từ quận Tân Châu cùng tỉnh.
Tỉnh lỵ Châu Đốc đặt tại làng Châu Phú thuộc tổng Châu Phú, quận Châu Thành. Từ ngày 9 tháng 2 năm 1913 đến ngày 9 tháng 2 năm 1924, tỉnh Hà Tiên bị giải thể, trở thành một quận thuộc tỉnh Châu Đốc. Sau đó, lại tách ra trở thành tỉnh Hà Tiên độc lập như trước.
Tỉnh Long Xuyên
Năm 1917, thực dân Pháp cho thành lập ở tỉnh Long Xuyên 3 quận trực thuộc: Châu Thành, Chợ Mới và Thốt Nốt. Năm 1953, tỉnh Long Xuyên thành lập thêm hai quận mới là Núi Sập và Lấp Vò. Quận Thoại Sơn được thành lập do tách tổng Định Phú ra khỏi quận Châu Thành; quận Lấp Vò được thành lập do tách tổng An Phú ra khỏi quận Thốt Nốt cùng tỉnh.
Tỉnh lỵ Long Xuyên thuộc khu vực hai làng Bình Đức và Mỹ Phước cùng thuộc tổng Định Phước, quận Châu Thành. Dựa theo các Sắc lệnh ngày 31 tháng 1 năm 1935 và 16 tháng 12 năm 1938, thị xã Long Xuyên trực thuộc tỉnh Long Xuyên được thành lập bao gồm phần đất nội ô tỉnh lỵ trước đó. Ngày 29 tháng 12 năm 1952, chính quyền Quốc gia Việt Nam thân Pháp quyết định công nhận đô thị tỉnh lỵ Long Xuyên trở thành thị xã hỗn hợp (commune mixte) trực thuộc tỉnh Long Xuyên.
Giai đoạn 1945 - 1954
Về phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, tỉnh Châu Đốc và tỉnh Long Xuyên nằm trong danh sách 21 tỉnh ở Nam Bộ. Lúc này, Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ chủ trương bỏ cấp tổng, bỏ đơn vị làng, thống nhất gọi là xã, đồng thời bỏ danh xưng quận, gọi thay thế bằng huyện. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đến năm 1956 cũng thống nhất dùng danh xưng là xã, tuy nhiên vẫn gọi là quận cho đến năm 1975.
Ngày 12 tháng 9 năm 1947, theo chỉ thị số 50/CT của Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ (chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), lúc bấy giờ có sự thay đổi sắp xếp hành chính của tỉnh Châu Đốc và Long Xuyên, thành lập các tỉnh mới có tên là Long Châu Tiền và Long Châu Hậu như sau:
-Tỉnh Long Châu Tiền nằm ở phía bờ trái (tả ngạn) sông Hậu, hai bên sông Tiền, thuộc khu 8 và có 5 huyện: Tân Châu, Hồng Ngự, Chợ Mới, Châu Phú B và Lấp Vò. Ngày 14 tháng 5 năm 1949, huyện Lấp Vò được trả về tỉnh Sa Đéc. Cũng trong năm đó, huyện Tân Châu của tỉnh Long Châu Tiền chia thành 2 huyện mới là Phú Châu và Tân Châu.
-Tỉnh Long Châu Hậu nằm ở phía bờ phải (hữu ngạn) sông Hậu và có 6 huyện: Tịnh Biên, Tri Tôn, Thốt Nốt, Thoại Sơn, Châu Phú A và Châu Thành (bao gồm 2 tỉnh lỵ Long Xuyên và Châu Đốc). Năm 1949, chính quyền Cách mạng giao huyện Thốt Nốt về cho tỉnh Cần Thơ, đến năm 1954 lại trả huyện Thốt Nốt về cho tỉnh Long Xuyên quản lý trở lại như trước.
Tháng 10 năm 1950 tỉnh Long Châu Hậu hợp nhất với Hà Tiên thành tỉnh Long Châu Hà, gồm 8 huyện: Tịnh Biên, Tri Tôn, Châu Phú A, Châu Thành, Thoại Sơn, Thốt Nốt, Giang Châu (hợp nhất hai huyện Giang Thành và Châu Thành của tỉnh Hà Tiên cũ), Phú Quốc. Tháng 7 năm 1951, hợp nhất 2 huyện Tri Tôn và Tịnh Biên thành huyện Tịnh Biên; hợp nhất 2 huyện Châu Thành và Thoại Sơn thành huyện Châu Thành.
Ngày 14 tháng 5 năm 1949, chính quyền Việt Minh lại quyết định tách quận Lấp Vò ra khỏi tỉnh Long Xuyên để nhập vào tỉnh Sa Đéc.
Tháng 6 năm 1951, tỉnh Long Châu Tiền hợp nhất với tỉnh Sa Đéc thành tỉnh Long Châu Sa, gồm 7 huyện: Châu Thành của tỉnh Sa Đéc cũ), Lai Vung, Cao Lãnh, Tân Hồng, Tân Châu, Phú Châu, Chợ Mới. Trong đó, hai huyện Tân Hồng và Tân Châu vốn là hai huyện Hồng Ngự và Tân Châu của tỉnh Long Châu Tiền trước đó. Tháng 7 năm 1951, nhập huyện Lấp Vò vào tỉnh Long Châu Sa.
Tuy nhiên, tên các tỉnh Long Châu Tiền, Long Châu Hậu, Long Châu Sa và Long Châu Hà không được chính quyền Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại và chính quyền Việt Nam Cộng hòa công nhận.
.
Năm 1954, chính quyền Việt Minh giải thể các tỉnh Long Châu Sa và Long Châu Hà, đồng thời khôi phục lại các tỉnh Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc và Hà Tiên như cũ.
Về phía Quốc gia Việt Nam
Ngày 19 tháng 5 năm 1947, Chính phủ lâm thời Cộng hòa Nam Kỳ tự trị thân Pháp quyết định tách đất quận Thốt Nốt để lập thêm quận Lấp Vò ban đầu cùng thuộc tỉnh Long Xuyên; quận lỵ đặt tại Lấp Vò (thuộc làng Bình Đông).
Năm 1953, chính quyền Quốc gia Việt Nam thân Pháp lại quyết định thành lập thêm tại Long Xuyên một quận mới là quận Núi Sập, với quận lỵ đặt tại Núi Sập (thuộc làng Thoại Giang) do tách tổng Định Phú ra khỏi quận Châu Thành cùng tỉnh
Giai đoạn 1954 - 1975
Về phía Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa
Tỉnh Hà Tiên - Tỉnh Rạch Giá - Tỉnh Kiên Giang
Ngày 9 tháng 3 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 32-NV**.** Theo đó, ranh giới quận An Phước, thuộc tỉnh Rạch Giá, là ranh giới chi khu An Phước.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 143-NV. Theo đó, tỉnh Kiên Giang (tỉnh lỵ Rạch Giá). Tên cũ: Rạch Giá + Hà Tiên.
Ngày 1 tháng 12 năm 1956, Bộ trưởng Nội vụ Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 69-BNV/HC**.** Theo đó, sáp nhập địa phận xã Rạch Giá (thị xã cũ) vào xã Vĩnh Thành Vân, thuộc quận Châu Thành Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.
Ngày 3 tháng 1 năm 1957, Bộ trưởng Nội vụ Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 7-BNV/HC/NĐ về việc ấn định các đơn vị hành chính tỉnh Kiên Giang.
Ngày 30 tháng 8 năm 1957, Bộ trưởng Nội vụ Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 280-BNV/HC/NĐ. Theo đó, thành lập xã Vĩnh Tân và xã Tân Bằng thuộc quận Kiên An, tỉnh Kiên Giang. Xã Vĩnh Tân, gồm: ấp Vĩnh An I, Vĩnh An II, Vĩnh Lợi, Phước Hòa, Phước Hiệp. Xã Tân Bằng, gồm: các ấp 1, 2, 3, 4, 5, Cái Bát, 2 Ấp (từ rạch Tắc tới rạch Cây Khô thuộc phạm vi xã Khánh An), 4 ấp (từ rạch Cây Khô tới giáp ranh xã Vân Khánh Đông).
Ngày 30 tháng 8 năm 1957, Bộ trưởng Nội vụ Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 281-BNV/HC/NĐ**.** Theo đó, tỉnh Kiên Giang (tỉnh lỵ Rạch Giá), gồm các đơn vị hành chánh kể sau:
Ngày 27 tháng 9 năm 1957, Bộ trưởng Nội vụ Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 299-BNV/HC/NĐ**.** Theo đó, xã Lộc Trì và xã Kỳ Lộ thuộc quận Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang hợp thành một xã lấy tên là Lộc Kỳ.
Ngày 27 tháng 12 năm 1957, Bộ trưởng Nội vụ Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 368-BNV/HC/NĐ**.** Theo đó, quận Kiên An tỉnh Kiên Giang, gồm thêm xã Vĩnh Tuy.
Ngày 17 tháng 1 năm 1958, Bộ trưởng Nội vụ Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 12-BNV/NC/NĐ**.** Theo đó, hoàn địa phận xã Vĩnh Tân vào địa hạt xã Vĩnh Tuy, quận Kiên An, tỉnh Kiên Giang.
Ngày 13 tháng 6 năm 1958, Bộ trưởng Nội vụ Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 314-BNV/HC/NĐ**.** Theo đó, phân tách quận Kiên Bình thuộc tỉnh Kiên Giang, làm 2 quận: quận Kiên Bình và quận Kiên Hưng. Danh sách các đơn vị hành chánh thuộc tỉnh Kiên Giang nay sửa đổi như sau:
Ngày 28 tháng 7 năm 1958, Bộ trưởng Nội vụ Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 412-BNV/HC/PG/NĐ**.** Theo đó, sáp nhập những xã sau đây thuộc quận Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang: xã Lộc Kỳ vào xã Mỹ Đức, lấy tên là xã Mỹ Đức; xã Trà Tiên vào xã Phú Mỹ, lấy tên là Phú Mỹ; xã Vĩnh Phú vào xã Vĩnh Điều, lấy tên là xã Vĩnh Điều.
Ngày 3 tháng 10 năm 1958, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 555-BNV/HC/P7/NĐ**.** Theo đó, sáp nhập: xã Vĩnh Tuy, quận Kiên An, vào địa phận quận Kiên Hưng; hai xã Long Thạnh và Vĩnh Thạnh, quận Kiên Hưng vào địa phận quận Kiên Bình.
Ngày 27 tháng 5 năm 1960, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 665-BNV/HC/NĐ**.** Theo đó, thành lập xã Vĩnh An đặt thuộc quận Kiên Long, tỉnh Kiên Giang.
Ngày 12 tháng 2 năm 1960, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 41-NV. Theo đó, thành lập tại tỉnh Kiên Giang một quận mới lấy tên là quận Kiên Long, quận lỵ đặt tại xã Vĩnh Thuận, ngã ba Kinh Cạnh Đền và con kinh nối liền Sông Trèm Trẹm với Rạch Ngã Ba Đình. Địa giới quận Kiên Long gồm có: các xã Vĩnh Bình, Vĩnh Hòa, Vĩnh Thuận, Vĩnh Phong nguyên thuộc quận Kiên An (Kiên Giang); xã Vĩnh Tuy nguyên thuộc quận Kiên Hưng (Kiên Giang), trừ 2 ấp Phước Hòa và Phước Hiệp (cù lao Xép Cái Tàu); một phần đất của xã Vĩnh Lộc, quận Phước Long, tỉnh Ba Xuyên.
Ngày 27 tháng 5 năm 1960, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 665-BNV/HC/NĐ. Theo đó, thành lập xã Vĩnh An đặt thuộc quận Kiên Long, tỉnh Kiên Giang.
Ngày 31 tháng 10 năm 1960, Bộ trưởng Nội vụ Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 1435-BNV/NC8/NĐ**.** Theo đó, danh sách các đơn vị hành chính thuộc tỉnh Kiên Giang nay sửa đổi như sau về phần quận Kiên An. Quận Kiên An, quận lỵ Đông Yên: tổng Thanh An gồm các xã: Đông Yên, Tây Yên, Đông Thái, Đông Hòa, Lại Sơn và tổng Thanh Biên gồm các xã: Tân Bằng, Vân Khánh Đông, Đông Hưng, Đông Thạnh.
Ngày 31 tháng 5 năm 1961, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 138-NV**.** Theo đó, chuyển ấp Mỹ Quới, nguyên thuộc xã Mỹ Lâm tỉnh Kiên Giang; ấp Sơn Hiệp nguyên thuộc xã Sóc Sơn tỉnh Kiên Giang; một phần ấp Mỹ Thạnh, nguyên thuộc xã Mỹ Lâm tỉnh Kiên Giang về quận Huệ Đức của tỉnh An Giang.
Ngày 31 tháng 5 năm 1961, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 514-NV**.** Theo đó, thành lập tại tỉnh Kiên Giang một quận mới lấy tên là quận Kiên Lương, quận lỵ đặt tại xã An Bình. Quận Kiên Lương gồm 5 xã: Thổ Sơn, An Bình, Bình Trị, An Hòa, Dương Hòa.
Ngày 4 tháng 9 năm 1961, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 891-NV**.** Theo đó, tách một phần đất của xã Thổ Sơn thuộc quận Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang, lập thành một xã, lấy tên là xã Đức Phương. Xã Thổ Sơn nay gọi là xã Tín Đạo.
Ngày 24 tháng 12 năm 1961, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 244-NV. Theo đó, chuyển các quận Kiên Hưng và Kiên Long về tỉnh Chương Thiện mới lập.
Ngày 8 tháng 4 năm 1963, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 306-NV**.** Theo đó, thành lập tại phần phía Nam quận Kiên An, tỉnh Kiên Giang, một quận mới, lấy tên là quận Hiếu Lễ.
Ngày 18 tháng 4 năm 1963, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 38-NV**.** Theo đó, hai xã Thới An và Hóa Quản thuộc quận Kiên Hưng, tỉnh Chương Thiện hoàn nhập về quận Kiên Bình, tỉnh Kiên Giang.
Ngày 8 tháng 9 năm 1964, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 246-NV**.** Theo đó, bãi bỏ quận Hiếu Lễ (tỉnh Kiên Giang) và quy hoàn các xã của quận này về quận Kiên An. Quận lỵ quận Kiên An được dời đến Thứ Ba, xã Tây Yên.
Ngày 26 tháng 5 năm 1966, Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 907-NĐ/NV**.** Theo đó, sáp nhập xã Lại Sơn thuộc quận Kiên An tỉnh Kiên Giang vào địa phận quận Kiên Thành cùng tỉnh.
Ngày 12 tháng 8 năm 1966, Đặc ủy hành chánh Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 26-ĐUHC/NC/6**.** Theo đó, thành lập một xã mới lấy tên là xã An Thới đặt thuộc quận Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Địa phận xã An Thới nằm trên phần đất phía nam xã Dương Đông hiện hữu, gồm có 2 ấp: Hưng Văn và Lạc Quới.
Ngày 25 tháng 11 năm 1967, Tổng trưởng Nội vụ Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 7-BNV/NC/19**.** Theo đó, thành lập một xã mới lấy tên là xã An Phước đặt thuộc quận Kiên Thành, tỉnh Kiên Giang. Địa phận xã An Phước, gồm có các ấp An Lạc, An Thành, An Thới, An Ninh nguyên thuộc xã Bình An, quận Kiên Thành và ấp Vĩnh Phú nguyên thuộc xã Vĩnh Hòa Hiệp cùng quận.
Ngày 20 tháng 11 năm 1970, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 144-SL/NV**.** Theo đó, tái lập quận Hiếu Lễ thuộc tỉnh Kiên Giang, quận lỵ đặt tại xã Đông Hưng. Địa phận quận Hiếu Lễ, gồm có các xã Đông Hưng, Đông Thanh, Vân Khánh Đông và Tân Bằng, nguyên thuộc quận Kiên An cùng tỉnh.
Ngày 17 tháng 10 năm 1972, Tổng trưởng Nội vụ Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 677-BNV/HCĐP/26/X**.** Theo đó, sáp nhập ấp Tân Lợi thuộc xã Tân Bằng, quận Hiếu Lễ, tỉnh Kiên Giang vào xã Vân Khánh Đông cùng quận.
Ngày 16 tháng 11 năm 1972, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 163-SL/NV**.** Theo đó, phần đất nguyên thuộc phường Vĩnh Hiệp nằm về phía tây kinh Rạch Giá - Long Xuyên sáp nhập vào xã Mỹ Lâm, quận Kiên Thành, tỉnh Kiên Giang. Phần đất nguyên thuộc phường Vĩnh Hiệp nằm về phía đông kinh Rạch Giá - Long Xuyên sáp nhập vào xã Mông Thọ, quận Kiên Tân, tỉnh Kiên Giang. Khu phố Phó Cơ Điều được cải biến thành xã Phó Cơ Điều và đặt thuộc quận Kiên Thành, tỉnh Kiên Giang.
Ngày 2 tháng 5 năm 1973, Tổng trưởng Nội vụ Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 215-BNV/HCĐP/26.X/NĐ**.** Theo đó, thành lập một xã mới lấy tên là xã Thổ Châu, đặt thuộc quận Kiên Thành, tỉnh Kiên Giang. Lãnh thổ xã Thổ Châu, gồm quần đảo Thổ Châu (hải đảo Poulo Poniang) và các hải đảo kế cận.
Ngày 16 tháng 11 năm 1973, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 830-NĐ/NV**.** Theo đó, thiết lập một xã mới lấy tên là xã Phi Thông, thuộc quận Kiên Tân, tỉnh Kiên Giang. Lãnh thổ xã Phi Thông, gồm một phần đất của xã Mỹ Lâm, quận Kiên Thành và một phần đất của xã Mông Thọ, quận Kiên Tân.
Ngày 27 tháng 11 năm 1973, Tổng trưởng Nội vụ Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 562-BNV/HCĐP**.** Theo đó, thành lập tại tỉnh Kiên Giang 3 xã mới lấy tên là: xã Tân Cảnh và xã Thạnh Lợi thuộc quận Kiên Tân, xã Lâm Yên thuộc quận Kiên An. Địa phận của: xã Tân Cảnh là phần đất của xã Tân Hiệp, quận Kiên Tân, tách ra; xã Thạnh Lợi là phần đất xã Thạnh Đông, quận Kiên Tân, tách ra; xã Lâm Yên là phần đất xã Đông Yên quận Kiên An, tách ra.
Tỉnh Long Xuyên - Tỉnh An Giang
Ngày 17 tháng 2 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 22-NV. Theo đó, chuyển địa phận quận Phong Thạnh Thượng và tổng An Bình (thuộc tỉnh Long Xuyên) về tỉnh Phong Thạnh mới lập.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 143-NV**.** Theo đó, tỉnh An Giang (tỉnh lỵ Long Xuyên), gồm các đơn vị hành chánh kể sau đây:
Ngày 6 tháng 8 năm 1957, Bộ trưởng Nội vụ Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 252-BNV/HC/NĐ**.** Theo đó, thành lập trong địa hạt tỉnh An Giang một quận mới, lấy tên là quận An Phú. Địa hạt quận nầy, gồm các xã sau đây: Khánh Bình, Khánh An, Nhơn Hội, Phú Hội, Vĩnh Hội Đông, Phước Hưng, Vĩnh Lộc, Phum Soài, Phú Hữu (trước thuộc tổng An Phú, quận Châu Phú), Vĩnh Hậu, Vĩnh Phong, Đa Phước, Vĩnh Trường (trước thuộc tổng Châu Phú, quận Châu Phú). Quận lỵ đặt tại xã Phước Hưng.
Ngày 9 tháng 1 năm 1958, Bộ trưởng Nội vụ Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 4-BNV/NC/NĐ**.** Theo đó, lập xã Vĩnh Xương, thuộc quận Tân Châu, tỉnh An Giang. Địa phận xã Vĩnh Xương, gồm những phần đất tách ra trong xã Tân An.
Ngày 4 tháng 3 năm 1958, Bộ trưởng Nội vụ Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 51-BNV/NC/NĐ**.** Theo đó, tách ra một phần đất của xã Thạnh Quới để lập thành xã Thạnh An, thuộc quận Thốt Nốt, tỉnh An Giang.
Ngày 26 tháng 7 năm 1958, Bộ trưởng Nội vụ Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 406-BNV/HC/NĐ. Theo đó, sáp nhập ấp Long Bình thuộc xã Long Kiến vào xã An Thạnh Trung, thuộc quận Chợ Mới, tỉnh An Giang.
Ngày 14 tháng 1 năm 1959, Bộ trưởng Nội vụ Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 67-BNV/NC/8/NĐ. Theo đó, bãi bỏ xã Phước Đức, thuộc quận Châu Thành, tỉnh An Giang. Địa phận xã Phước Đức được sáp nhập vào xã Mỹ Phước và xã Bình Đức cùng quận lấy rạch Long Xuyên làm đích phân chia.
Ngày 7 tháng 3 năm 1959, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 82-NV. Theo đó, giao hoàn về xã Long Kiến thuộc quận Chợ Mới tỉnh An Giang, phần đất nằm giữa rạch Ông Chưởng và rạch Chưng Đùng của xã An Thạnh Trung cùng thuộc quận Chợ Mới.
Ngày 1 tháng 8 năm 1960, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 929-BNV/NC8/NĐ**.** Theo đó, xã Thuyết Nạp và xã Yên Cư thuộc tổng Thành Ý, quận Tri Tôn, tỉnh An Giang, nay được sáp nhập lại thành một xã mới, lấy tên là xã An Cư.
Ngày 9 tháng 9 năm 1960, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 1228-BNV/NC8/NĐ**.** Theo đó, xã Phụm Soài, xã Vĩnh Phong và một phần đất xã Vĩnh Hậu (phía nam Kinh Xáng) thuộc quận An Phú, tỉnh An Giang, nay sáp nhập lại thành một xã mới, lấy tên xã Châu Phong đặt thuộc tổng Châu Phú, quận Châu Phú cùng tỉnh.
Ngày 20 tháng 9 năm 1960, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 1258-BNV/NC8/NĐ**.** Theo đó, xã Nam Quy, thuộc tổng Thành Lễ, quận Tri Tôn, tỉnh An Giang và xã Châu Làng thuộc tổng Thành Ngãi cùng quận, nay được sáp nhập lại thành một xã mới, lấy tên là xã An Lạc đặt thuộc tổng Thành Ngãi cùng quận. Xã Tà Đãnh và xã Trác Quan thuộc tổng Thành Ý, quận Tri Tôn, tỉnh An Giang, nay được sáp nhập lại thành một xã mới, lấy tên xã An Hảo.
Ngày 31 tháng 5 năm 1961, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 138-NV. Theo đó, chuyển xã Thạnh Phú (trước thuộc quận Thốt Nốt tỉnh An Giang nay sáp nhập vào quận Khắc Trung mới lập tỉnh Phong Dinh.
Ngày 25 tháng 6 năm 1964, Tổng trưởng Nội vụ Việt Nam Cộng hòa ban hành 780-BNV/NC**.** Theo đó, sáp nhập xã Vĩnh Trinh nguyên thuộc tổng Định Phước quận Châu Thành An Giang vào tổng Định Mỹ quận Thốt Nốt cùng tỉnh.
Ngày 8 tháng 9 năm 1964, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 246-NV**.** Theo đó, quy hoàn 2 ấp Tân An và Tân Lợi thuộc xã Thới Long, quận Phong Phú, tỉnh Phong Dinh, về xã Thuận Hưng, quận Thốt Nốt, tỉnh An Giang.
Ngày 11 tháng 5 năm 1965, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 726-NV**.** Theo đó, dời quận lỵ quận Huệ Đức từ Ba Thê (xã Vọng Thê) về Núi Sập (xã Thoại Sơn).
Tỉnh Châu Đốc
Ngày 17 tháng 2 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 22-NV**.** Theo đó, tái lập tỉnh Châu Đốc, tỉnh lỵ đặt tại Châu Đốc. Địa phận tỉnh Châu Đốc, gồm có:
Ngày 3 tháng 1 năm 1966, Ủy viên Nội vụ Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 8-BN/NC/13. Theo đó, hành lập một xã mới lấy tên là xã Vĩnh Hòa đặt thuộc tổng An Thành, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc. Địa phận xã Vĩnh Hòa, gồm có cù lao Cỏ Găng, Cồn Nhỏ và Cồn Tàu, nguyên là ấp Tân Phước, thuộc xã Tân An cùng tổng và quận.
Ngày 22 tháng 4 năm 1972, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 414-NĐ/NV. Theo đó, dời văn phòng quận Châu Phú tỉnh Châu Đốc từ tỉnh lỵ đến xã Mỹ Đức.
Thị xã Rạch Giá
Ngày 20 tháng 11 năm 1970, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 144-SL/NV**.** Theo đó, cải biến xã Vĩnh Thanh Vân và xã An Hòa thuộc quận Kiên Thành tỉnh Kiên Giang thành thị xã. Thị xã này được lấy tên là thị xã Rạch Giá.
Ngày 7 tháng 6 năm 1971, Tổng trưởng Nội vụ Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 480-BNV/HCĐP/26/ĐT/NĐ**.** Theo đó, địa phận thị xã Rạch Giá được chia ra thành 6 khu phố sau đây:
Ngày 22 tháng 8 năm 1972, Tổng trưởng Nội vụ Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 553-BNV/HCĐP/NĐ. Theo đó, cải danh khu phố tại các thị xã thành phường.
Ngày 16 tháng 11 năm 1972, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 163-SL/NV ===
Giai đoạn 1975 - 2025
Tỉnh Kiên Giang
Tỉnh An Giang
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, hai tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc hợp nhất thành tỉnh An Giang. Khi hợp nhất, tỉnh An Giang có 10 đơn vị hành chính gồm 2 thị xã: Long Xuyên, Châu Đốc và 8 huyện: Châu Phú, Châu Thành, Chợ Mới, Huệ Đức, Phú Châu, Phú Tân, Tịnh Biên, Tri Tôn. Tỉnh lị đặt tại thị xã Long Xuyên.
;1977: *Quyết định 56-CP ngày 11 tháng 3 năm 1977 của Hội đồng Chính phủ về việc hợp nhất một số huyện thuộc tỉnh An Giang:
Hợp nhất huyện Huệ Đức và huyện Châu Thành thành một huyện lấy tên là huyện Châu Thành.
Hợp nhất huyện Tri Tôn và huyện Tịnh Biên thành một huyện lấy tên là huyện Bảy Núi.
;1979: Quyết định 181-CP ngày 25 tháng 4 năm 1979 của Hội đồng Chính phủ điều chỉnh địa giới và đổi tên một số xã và thị trấn thuộc tỉnh An Giang: Huyện Bảy Núi:
Tách các ấp Hòa An, Bình An của xã Tà Đảnh, một phần đất của xã Tú Tề lập thành một xã mới lấy tên là xã Tân Lập.
Tách ấp Huệ Đức của xã Cô Tô lập thành một xã mới lấy tên là xã Tân Tuyến.
Tách các ấp Voi 1, Voi 2 của xã Tú Tề lập thành một thị trấn lấy tên là thị trấn Chi Lăng.
Tách các ấp Cây Me, Xoài Tòng A, Xoài Tông B, Cơray Ven và một phần các ấp kinh Ô Bà Lẫy của xã Tri Tôn lập thành một thị trấn lấy tên là thị trấn Bảy Núi.
Xã Tri Tôn đổi tên thành xã Núi Tô.
Xã Ô Lâm đổi tên thành xã An Phước
Xã An Tức đổi tên thành xã An Ninh
Xã Châu Lăng đổi tên thành xã An Lạc.
Xã Lê Trì đổi tên thành xã An Lập
Xã Tà Đảnh đổi tên thành xã Tân Cương
Xã Lương Phi đổi tên thành xã An Thành
Xã Trác Quan đổi tên thành xã An Hảo
Xã Văn Giáo đổi tên thành xã Thới Thuận
Xã Tú Tề đổi tên thành xã Tân Lợi
*Huyện Châu Phú
Tách các ấp Bình Nghĩa, Bình Hòa 1 của xã Bình Long, ấp Vĩnh Tiền, ấp Vĩnh Quới của xã Vĩnh Thạnh Trung lập thành một thị trấn lấy tên là thị trấn Cái Dầu.
Tách các ấp Mỹ Thiện 1, Mỹ Thiện 2 của xã Mỹ Đức và ấp Vĩnh Hòa của xã Vĩnh Thạnh Trung lập thành một xã lấy tên là xã Mỹ Phú.
Tách gần trọn ấp Vĩnh Bình của xã Vĩnh Thạnh Trung và một phần nhỏ ấp Mỹ Hòa của xã Mỹ Đức lập thành một xã lấy tên là xã Ô Long Vĩ.
Tách các ấp Bình Chánh, Bình An của xã Bình Long và một nửa ấp Bình Chơn của xã Bình Mỹ lập thành một xã lấy tên là xã Bình Phú.
Tách ấp Bình Chánh và nửa ấp Bình Chơn của xã Bình Mỹ lập thành một xã lấy tên là xã Bình Chánh.
Sáp nhập ấp Mỹ Thuận 2 của xã Mỹ Đức vào xã Vĩnh Thạnh Trung
Sáp nhập một phần ấp Vĩnh Bình của xã Vĩnh Trung vào xã Mỹ Đức.
Sáp nhập ấp Bình An, ấp Thạnh Lợi của xã Thạnh Mỹ Tây vào xã Vĩnh Thạnh Trung.
Sáp nhập một phần ấp Bình An của xã Bình Long vào xã Thạnh Mỹ Tây.
Sáp nhập một phần ấp Bình Chánh của xã Bình Mỹ vào xã Bình Long.
*Huyện Chợ Mới:
Tách các ấp Phú Hạ 1, Phú Hạ 2, Kiến Quới 1, Kiến Quới 2, Kiến Thuận 1, Kiến Thuận 2 và Kiến Hưng 2 của xã Kiến An lập thành một xã lấy tên là xã Kiến Thành.
Tách các ấp Long Phú 1, Long Phú 2, Long Quới 1, Long Quới 2 của xã Long Điền lập thành một xã lấy tên là Long Điền B.
Tách các ấp Bình Phú, Bình Quới, Bình Thạnh 1, Bình Thạnh 2, 2/3 ấp An Mỹ và 1/3 ấp An Thạnh của xã Hòa Bình lập thành một xã lấy tên là xã Hòa An.
*Huyện Phú Tân:
Tách ấp Phú Mỹ Thượng của xã Phú Lâm, ấp Hòa Bình và ấp Hòa An của xã Hòa Lạc lập thành một xã lấy tên là xã Phú Thành.
Tách ấp Phú Thạnh của xã Phú Lâm lập thành một xã lấy tên là xã Phú Thạnh.
Tách ấp Phú Hữu của xã Phú Lâm và ấp Phú Xương của xã Phú An lập thành một thị trấn lấy tên là thị trấn Chợ Vàm.
Tách ấp Phú Mỹ Hạ, một phần ấp Phú Mỹ Thượng của xã Phú An lập thành một xã lấy tên là xã Phú Thọ.
Tách các ấp Bình Phú 1, Bình Phú 2 và ấp Bình Tây 1 của xã Bình Thạnh Đông lập thành một xã mới lấy tên là xã Phú Bình.
*Huyện Châu Thành:
Tách ấp Hòa Long, ấp Hòa Phú của xã Hòa Bình Thạnh, một phần ấp Bình Phú của xã Bình Hòa, một phần đất ấp Bình Thạnh (Xép Bà Lý trở lên phía bắc) của phường Bình Đức, thị xã Long Xuyên, lập thành một thị trấn lấy tên là thị trấn An Châu.
Tách ấp Bình An của xã Bình Thủy, ấp An Hòa của xã Bình Hòa lập thành một xã lấy tên là xã An Hòa.
Tách ấp Hòa Lợi của xã Hòa Bình Thạnh, một phần ấp Đông Phú 2 của xã Vĩnh Nhuận lập thành một xã lấy tên là xã Vĩnh Lợi.
Tách các ấp Đông Bình 1, Đông Bình Trạch, Trung Bình 2, Tây Bình, nửa ấp Đông Bình 2 của xã Vĩnh Trạch và ấp Đông Phú 1 của xã Vĩnh Nhuận lập thành một số xã lấy tên là xã Vĩnh Thành.
Tách 1/2 ấp Vĩnh Bình và 1/3 ấp Vĩnh Thuận của xã Vĩnh Hanh lập thành một xã lấy tên là xã Vĩnh Bình.
Tách 1/2 ấp Vĩnh Bình của xã Vĩnh Hanh lập thành một xã lấy tên là xã Vĩnh An.
Tách ấp Tân Phú của xã Vọng Thê lập thành một xã lấy tên là xã Tân Phú.
Tách ấp Tây Phú, ấp Hai Trân của xã Vọng Thê lập thành một xã lấy tên là xã Tây Phú.
Tách ấp Vọng Đông và ấp Hạc Phong của xã Vọng Thê lập thành một xã lấy tên là xã Vọng Đông.
Tách ấp Trung Phú 1 và ấp Trung Phú 2 của xã Vĩnh Nhuận lập thành một xã lấy tên là xã Vĩnh Phú.
Tách ấp Mỹ Thành, 1/4 ấp Mỹ Thới và ấp Phú Hữu của xã Định Mỹ lập thành một xã lấy tên là xã Định Thành.
Tách 2/3 ấp Tây Khánh của xã Vĩnh Chánh lập thành một xã lấy tên là xã Vĩnh Khánh.
Sáp nhập ấp Vĩnh Hòa A, ấp Vĩnh Hòa B và 1/3 ấp Vĩnh Thuận (theo lòng kinh Sáu về nối với mương Trâu Hương Quan Giảng) của xã Vĩnh Hanh vào xã Cần Đăng.
Sáp nhập một phần các ấp Đông An, Tây Bình A, Tây Bình B của xã Vĩnh Chánh (theo lòng rạch Mạc Cần Vện) vào xã Vĩnh Trạch.
Sáp nhập một phần các ấp Tây Bình và Bắc Thạnh của xã Thoại Giang vào thị trấn Núi Sập (theo lòng kinh Long Xuyên đi Rạch Giá và bờ đê đất ở khoảng giữa kinh E và kinh D).
Đổi tên xã Thoại Sơn thành xã Thoại Giang
Đổi tên thị trấn Đông Sơn thành thị trấn Núi Sập.
*Huyện Phú Châu:
Sáp nhập ấp Long Châu của xã Long Phú, một phần ấp Phú An B, ấp Phú Hưng và ấp Phú Hữu của xã Phú Vĩnh vào xã Tân An.
Sáp nhập ấp Tân Thạnh của xã Tân An vào xã Vĩnh Hòa.
Chia xã Tân An thành hai xã lấy tên là xã Long An và xã Tân An.
Sáp nhập Cù Lao Cở Túc (tức ấp Vĩnh Thạnh) của xã Vĩnh Trường vào xã Vĩnh hậu.
Sáp nhập ấp Long Hưng của xã Long Phú vào thị trấn Tân Châu
Thành lập ở vùng kinh tế mới Kinh Năm một xã mới lấy tên là xã Phú Lộc
*Thị xã Châu Đốc:
Chuyển xã Châu Phú A thành phường Châu Phú A.
Chuyển xã Châu Phú B thành phường Châu Phú B.
Sáp nhập 1/2 ấp Châu Thới 1 và 1/2 ấp Châu Thới 2 của phường Châu Phú A vào phường Châu Phú B (theo đường rãnh lòng kinh Vĩnh tế, qua lòng kinh cầu số 4 đến giữa lộ núi Sam – Châu Đốc).
Tách ấp Mỹ Chánh 1, 1/2 ấp Mỹ Hòa (theo kinh đào thẳng ra sông Hậu Giang) của xã Mỹ Đức, huyện Châu Phú, ấp Châu Long 1, ấp Châu Long 6 của phường Châu Phú B lập thành một xã lấy tên là xã Vĩnh Mỹ.
;1979: *Quyết định 300-CP ngày 23 tháng 8 năm 1979 của Hội đồng Bộ trưởng về việc điều chỉnh địa giới một số huyện và thị xã thuộc tỉnh An Giang:
Chia huyện Bảy Núi thành hai huyện lấy tên là huyện Tri Tôn và huyện Tịnh Biên.
Huyện Tri Tôn gồm có các xã Núi Tô, Tân Cương, Tân Tuyến, Cô Tô, An Phước, An Ninh, An Lạc, An Thành, Ba Chúc, Lạc Quới, Vĩnh Gia, An Lập và thị trấn Tri Tôn (trước là thị trấn Bảy Núi).
Huyện Tịnh Biên gồm có các xã Nhơn Hưng, Thới Sơn, Thới Thuận, Vĩnh Trung, An Phú, An Cư, An Nông, Xuân Tô, Tân Lợi, An Hảo, Tân Lập và thị trấn Chi Lăng.
Ranh giới giữa hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên quy định như sau: Bắt đầu từ cột mốc số 115 (biên giới với Cam-pu-chia) thẳng hướng đông nam đến trụ đá số 1 trên lộ Lê Trì - Tịnh Biên (cách ngã ba Sóc Tức 150 mét) rồi quẹo xuống phía nam song song với lộ Tịnh Biên – Tri Tôn theo đường mòn về phía đông ven chân núi Nam Quy vòng lên phía bắc đi thẳng đến ngã tư Kinh Tri Tôn - Mạc Cần Dưng (cầu sắt số 13) theo giữa lòng kinh đến giáp ranh huyện Châu Thành (cầu sắt số 10).
Chia huyện Châu Thành thành hai huyện lấy tên là huyện Châu Thành và huyện Thoại Sơn
Huyện Châu Thành gồm có các xã Vĩnh An, Vĩnh Bình, Vĩnh Hạnh, Cần Đăng, An Hòa, Bình Hòa, Vĩnh Thành, Vĩnh Lợi, Vĩnh Nhuận, Tân Phú, Hòa Bình Thạnh và thị trấn An Châu.
Huyện Thoại Sơn gồm có các xã Phú Hòa, Vĩnh Trạch, Vĩnh Chánh, Vĩnh Khánh, Định Thành, Định Mỹ, Vĩnh Phú, Tây Phú, Vọng Đông, Vọng Thê, Thoại Giang và thị trấn Núi Sập.
Ranh giới giữa hai huyện Châu Thành và Thoại Sơn quy định như sau: Bắt đầu từ giữa lòng kinh Tư Kề (phần giáp ranh với huyện Tri Tôn) nối liền với Kinh Làng, kinh Ba Dầu đến ngã năm Ba Bần theo giữa lòng kinh Long Xuyên đi Rạch giá đến giáp ranh thị xã Long Xuyên.
Sáp nhập xã Bình Thủy của huyện Châu Thành vào huyện Châu Phú.
Sáp nhập xã Mỹ Hòa Hưng của huyện Châu Thành vào thị xã Long Xuyên.
Sáp nhập xã Vĩnh Tế của huyện Châu Phú vào thị xã Châu Đốc.
;1980: *Quyết định 125-CP ngày 23 tháng 4 năm 1980 của Hội đồng Chính phủ về việc đổi tên một số xã thuộc huyện Phú Tân, tỉnh An Giang:
Xã Hoà Hảo đổi tên thành xã Tân Hoà;
Xã Châu Giang đổi tên thành xã Phú Hiệp;
Xã Hưng Nhơn đổi tên thành xã Phú Hưng;
Thị trấn Mỹ Lương chuyển thành xã Phú Mỹ.
;1984:
- Quyết định 8-HĐBT ngày 12 tháng 1 năm 1984 của Hội đồng Bộ trưởng về việc phân vạch địa giới phường, thị trấn và một số xã của thị xã Long Xuyên và của các huyện Châu Phú, Chợ Mới, Phú Châu, Phú Tân thuộc tỉnh An Giang như sau:
*Thị xã Long Xuyên
Thành lập phường Mỹ Xuyên trên cơ sở tách khóm 4, khóm 7 của phường Mỹ Long và một phần ấp Tây Khánh A của xã Mỹ Hoà.
Thành lập xã Mỹ Khánh trên cơ sở tách ấp Bình Hoà của xã Mỹ Hoà và một phần khóm Bình Khánh của phường Bình Đức.
Thành lập xã Mỹ Thạnh trên cơ sở tách các ấp Thới Thạnh, Thới An, Đông Thạnh và 1/2 ấp Long Hưng của xã Mỹ Thới.
*Huyện Châu Phú.
Thành lập xã Đào Hữu Cảnh trên cơ sở tách các ấp Hưng Thới, Hưng Thuận, Hưng Trung và ấp Long Châu 4 của xã Thạnh Mỹ Tây.
Sáp nhập một phần ấp Vĩnh Bình của xã Vĩnh Thạnh trung vào xã Thạnh Mỹ Tây cùng huyện.
*Huyện Chợ Mới.
Thành lập xã Long Giang trên cơ sở tách các ấp Long Thuận, Long Phú, Long Mỹ 1, Long Mỹ 2, Long Thạnh 1, Long Thạnh 2 của xã Long Kiến.
Sáp nhập ấp Long Qưới 1 và ấp Long Qưới 2 của xã Long Kiến vào xã Long Điền b cùng huyện.
Sáp nhập một phần ấp Long Bình của xã Long Kiến vào xã An Thạnh Trung cùng huyện.
Sáp nhập ấp An Ninh của xã An Thạnh Trung vào xã Long Kiến cùng huyện.
*Huyện Phú Châu.
Thành lập xã Lê Chánh trên cơ sở tách ấp Vĩnh Thạnh của xã Châu Phong và ấp Phú Hữu của xã Phú Vĩnh.
Thành lập xã Quốc Thái trên cơ sở tách ấp 4 của xã Nhơn Hội, ấp 1 của xã Phước Hưng và các cồn Bắc, cồn Nam, cồn Liệt sĩ của xã Phú Hữu.
Thành lập thị trấn An Phú trên cơ sở tách ấp Phước Thạnh của xã Đa Phước và một phần ấp 4 của xã Phước Hưng.
Sáp nhập một phần ấp 1 của xã Vĩnh Lộc vào xã Phú Hữu cùng huyện.
*Huyện Phú Tân.
Thành lập xã Phú Xuân trên cơ sở tách một phần đất dọc theo bờ kênh Thầu Nông của các xã Phú An, Phú Thọ, Hiệp Xương.
Thành lập xã Phú Long trên cơ sở tách ấp Long Hậu của xã Long Sơn và phần lớn đất của ấp Phú Thượng thuộc xã Phú Thành.
Sáp nhập một phần đất của xã Hiệp Xương vào xã Phú Thành cùng huyện.
;1986: *Quyết định 56-HĐBT ngày 10 tháng 5 năm 1986 của Hội đồng Bộ trưởng về việc thành lập thị trấn Nhà Bàng thuộc huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang:
Thành lập thị trấn Nhà Bàng (thị trấn huyện lỵ Tịnh Biên, tỉnh An Giang) trên cơ sở 227,5 hécta diện tích tự nhiên với 4. 673 nhân khẩu của xã Thới Sơn và 311,5 hécta tự nhiên với 2. 548 nhân khẩu của xã Nhơn Hưng cùng huyện.
Thị trấn Nhà Bàng có tổng diện tích tự nhiên 539 hécta với 7221 nhân khẩu.
Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, xã Thới Sơn còn 1.762,5 hécta tự nhiên với 4.334 nhân khẩu.
Xã Nhơn Hưng còn 2.328 hécta diện tích tự nhiên với 3.547 nhân khẩu.
;1991: *Quyết định số 373-HĐBT ngày 13 tháng 11 năm 1991 của Hội đồng Bộ trưởng chia huyện Phú Châu thành hai huyện: An Phú và Tân Châu.
Huyện An Phú có thị trấn An Phú và 12 xã: Đa Phước, Khánh An, Khánh Bình, Nhơn Hội, Phú Hội, Phú Hữu, Phước Hưng, Quốc Thái, Vĩnh Hậu, Vĩnh Hội Đông, Vĩnh Lộc, Vĩnh Trường.
Huyện Tân Châu có thị trấn Tân Châu và 9 xã: Châu Phong, Lê Chánh, Long An, Long Phú, Phú Lộc, Phú Vĩnh, Tân An, Vĩnh Hòa, Vĩnh Xương.
;1993: *Nghị định 76-CP ngày 28 tháng 10 năm 1993 của Chính phủ thành lập, đổi tên một số xã thuộc các huyện Châu Thành, Thoại Sơn, Tịnh Biên, Tri Tôn: Huyện Châu Thành: -Thành lập xã Bình Thạnh trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và dân số của xã Bình Hòa. *Huyện Thoại Sơn: -Thành lập xã Mỹ Phú Đông trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và dân số của các xã Tây Phú, Vĩnh Phú, An Bình và Định Mỹ.
Huyện Tịnh Biên: Xã Thới Thuận đổi tên thành xã Văn Giáo. *Huyện Tri Tôn:
-
Xã An Phước đổi tên thành xã Ô Lâm.
-
Xã An Ninh đổi tên thành xã An Tức.
-
Xã An Lạc đổi tên thành xã Châu Lăng.
-
Xã An Lập đổi tên thành xã Lê Trì.
-
Xã Tân Cương đổi tên thành xã Tà Đảnh.
-
Xã An Thành đổi tên thành xã Lương Phi.
*Các xã nói trên thuộc các huyện Tịnh Biên, Tri Tôn được đổi lại thành tên cũ trước năm 1979.
;1995: *Nghị định 60-CP ngày 7 tháng 10 năm 1995 của Chính phủ thành lập xã Lương An Trà thuộc huyện Tri Tôn:
Thành lập xã Lương An Trà thuộc huyện Tri Tôn trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và dân số của các xã Lương Phi, An Tức, Ô Lâm.
;1997: *Nghị định 75-CP ngày 16 tháng 6 năm 1997 của Chính phủ về việc thành lập thị trấn Phú Mỹ thuộc huyện Phú Tân, tỉnh An Giang:
Thành lập thị trấn Phú Mỹ thuộc huyện Phú Tân, tỉnh An Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã Phú Mỹ.
Thị trấn Phú Mỹ có 701 ha diện tích tự nhiên và 27.043 nhân khẩu. Địa giới hành chính thị trấn Phú Mỹ: Đông giáp tỉnh Đồng Tháp; Tây giáp xã Phú Hưng; Nam giáp xã Tân Hoà; Bắc giáp xã Phú Thọ.
;1999: *Nghị định 09/1999/NĐ-CP ngày 01 tháng 3 năm 1999 của Chính phủ về việc thành lập thành phố Long Xuyên, thuộc tỉnh An Giang:
Thành lập thành phố Long Xuyên thuộc tỉnh An Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Long Xuyên.
Thành phố Long Xuyên có 10.687 ha diện tích tự nhiên và 245.149 nhân khẩu, gồm 10 đơn vị hành chính cơ sở là các phường: Mỹ Long, Mỹ Bình, Mỹ Xuyên, Mỹ Phước, Bình Đức và các xã: Mỹ Hòa, Mỹ Thới, Mỹ Thạnh, Mỹ Khánh và Mỹ Hòa Hưng.
Địa giới hành chính thành phố Long Xuyên: Đông giáp huyện Chợ Mới và huyện Lấp Vò (tỉnh Đồng Tháp); Tây giáp huyện Thoại Sơn; Nam giáp huyện Thốt Nốt (tỉnh Cần Thơ); Bắc giáp huyện Châu Thành.
;1999: *Nghị định 64/1999/NĐ-CP ngày 02 tháng 8 năm 1999 của Chính phủ về việc thành lập một số phường thuộc thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang:
Thành lập phường Mỹ Thạnh trên cơ sở toàn bộ 1.389,82 ha diện tích tự nhiên và 24.881 nhân khẩu của xã Mỹ Thạnh.
Thành lập phường Mỹ Thới trên cơ sở toàn bộ 2.000,31 ha diện tích tự nhiên và 19.875 nhân khẩu của xã Mỹ Thới.
Thành lập phường Bình Khánh trên cơ sở 628,80 ha diện tích tự nhiên và 24. 820 nhân khẩu của phường Bình Đức (gồm khóm Bình Thới 1, 2, 3 và khóm Bình Chánh 1, 2, 3, 4, 5).
Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, phường Bình Dức có 1.106,80 ha diện tích tự nhiên và 16.058 nhân khẩu.
Thành lập phường Mỹ Quý trên cơ sở 472,22 ha diện tích tự nhiên và 9.983 nhân khẩu của phường Mỹ Phước (gồm các Khóm Mỹ Phú, Mỹ Qưới và Mỹ Tho).
Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, phường Mỹ Phước có 369,35 ha diện tích tự nhiên và 24.459 nhân khẩu.
;2002: *Nghị định 29/2002/NĐ-CP ngày 22 tháng 3 năm 2002 của Chính phủ về việc điều chỉnh địa giới hành chính để thành lập phường Núi Sam, thị xã Châu Đốc, thị trấn Phú Hoà và đổi tên xã Phú Hoà thành xã Phú Thuận, huyện Thoại Sơn tỉnh An Giang: