✨Hoàng tử

Hoàng tử

thumb|phải|Tranh vẽ các tiểu hoàng tử của [[Minh Hiến Tông.]]

Hoàng tử (chữ Hán: 皇子; tiếng Anh: Imperial Prince), mang nghĩa "Con trai của Hoàng thất", là danh từ chỉ những người con trai của Hoàng đế trong vùng văn hóa chữ Hán như Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản cùng Hàn Quốc. Đối với những người mang tước Vương, con trai của họ được gọi là Vương tử (王子; Royal Prince). Vợ của Hoàng tử thường gọi là Hoàng tức hay Hoàng túc, Hoàng tử phi (Công nương).

Tuy nhiên trong ngôn ngữ hiện đại của Việt Nam, do sự không nhất quán xưng hô của quân chủ Việt Nam (Quốc vương và Hoàng đế) nên sự phân biệt giữa "Hoàng tử" cùng "Vương tử" không rõ ràng, thông thường từ "Hoàng tử" dùng để chỉ đến "Con trai Vua" nói chung.

Trung Quốc

Từ thời Tiên Tần đến Lưỡng Hán

Từ thời Tiên Tần, địa vị "Con trai của Vua", bất luận Thiên tử hay chư hầu, thì cũng đều vượt trội hơn Công khánh và con cháu quý tộc khác. Ngoại trừ Trữ quân sẽ kế vị, những Vương tử cùng Công tử đều có đặc quyền riêng trong hệ thống xã hội, một trong những đặc quyền ấy chính là được sở hữu đất phong truyền thừa, gọi là Thực ấp (食邑), cùng với tước hiệu trong hệ thống quý tộc có thể truyền thừa vĩnh viễn.

Thời điểm Vũ vương nhà Chu lập quốc, ngoài người kế vị thì các Vương tử không thể kế vị thường được phong làm Quốc quân của các nước chư hầu, tước Công, tước Hầu hoặc tước Bá. Nhưng thông thường họ được là [Trọng; 仲], [Thúc; 叔] hay [Quý; 季] kèm tên thật hoặc tên của đất phong. Một số ví dụ điển hình là Quắc Trọng, Quắc Thúc thời Văn vương, Chu thúc Đán, Khang thúc Phong, Thành thúc Vũ, Nhiễm quý Tái thời Vũ vương, Đường thúc Ngu thời Thành vương hay như Vương thúc Hổ (tức Vương thúc Văn công) thời Tương vương được phong tước Hầu, lập hẳn một nước gọi là Vương Thúc. Con của các chư hầu gọi là Công tử, cũng có thể được ban thực ấp cùng tước phong, nhưng không thể trở thành quốc quân chư hầu như các con của Thiên tử được.

thumb|Bích họa Vương công thời Đông Hán cưỡi chiến xa có ngựa kéo.

Sau thời kỳ Tần Thủy Hoàng, con của các Thiên tử đều được gọi là "Hoàng tử" bởi vì các vị Thiên tử đã là Hoàng đế. Con của Hoàng tử, tức cháu nội của Hoàng đế được gọi bằng danh xưng Hoàng tôn (皇孫). Cháu của Hoàng tử, tức cháu chắt của Hoàng đế là Hoàng tằng tôn (皇曾孫). Nhìn chung, nguyên tắc để gọi bằng chữ "Hoàng" này đều phải lấy thân phận bản thân đối với Hoàng đế đương kim, còn nếu không chỉ có thể dùng "Tôn" cùng "Tằng tôn" như thông thường khi nói về con cháu. Những cách gọi này có từ đời Tây Hán và các đời sau đều sử dụng, nhưng trước mắt xét vào thời Hán thì có vẻ chỉ có hậu duệ của Hoàng thái tử mới gọi như vậy, như Lưu Tiến - con trai của Vệ Thái hậu Lưu Cứ và là cháu nội Hán Vũ Đế, được gọi là 「"Sử Hoàng tôn"」. Trong khi đó, Lưu Tương được gọi 「"Cao Hoàng đế Đích trưởng tôn"」 mà thôi. Điều này có liên hệ với việc Hoàng thất Đại tông kế vị và Hoàng thất Tiểu tông được phái ra làm Phiên vương.

Chế độ Đông Á xem trọng phụng sự tổ tiên, nhưng chỉ cho một người con trai cả nhận nhiệm vụ này. Cha mẹ sau khi qua đời, con cái chia nhà, con trai trưởng thụ hưởng lớn nhất và tiếp tục nhang khói - được gọi là 「"Đại tông"; 大宗」, mà các con trai thứ đều chia nhánh khác, gọi là 「"Tiểu tông"; 小宗」. Việc "phân nhà" này của dân gian cũng được chế độ quân chủ Đông Á thu dụng, từ đời Chu thì các chư hầu sớm áp dụng khi đã có các "Tông tử" kế thừa và các con thứ ra riêng. Và những Tiểu tông này được gọi chung bằng danh xưng 「Tông thất; 宗室」.

Các vị Hoàng tử từ thời Tây Hán, ngoại trừ Hoàng tử được chọn làm Trữ quân mà thụ phong Hoàng thái tử, trở thành "Đại tông" của Hoàng thất, còn các Hoàng tử khác sẽ thường được phong Chư hầu Vương (諸侯王), tức rằng họ sẽ được phong tước Vương và được ban một lãnh thổ bố trí xung quanh kinh thành để lập "Quốc gia" riêng. Điều này có nghĩa, những Chư hầu Vương này hoàn toàn có thực quyền cai quản vùng đất ấy như một chư hầu thời nhà Chu, bao gồm có quân đội, hệ thống quan lại và chính sách cai trị thuế má riêng biệt, ngoại trừ chức Thừa tướng sẽ do tự triều đình bổ nhiệm thì các quan chức còn lại như Thái phó cùng Ngự sử đại phu sẽ do tự Chư hầu Vương bổ nhiệm. Chính vì như thế, các con của Chư hầu Vương vẫn sẽ là "Vương tử", con trai thừa kế sẽ gọi "(Tên nước) Thái tử", người vợ cả là "Vương hậu" cùng mẹ là "Vương thái hậu", sánh với Hoàng thái tử, Hoàng hậu và Hoàng thái hậu của triều đình. Quan hệ giữa các Tiểu quốc và triều đình Đại Hán ở kinh sư đều theo mô hình 「"Nước nhỏ (chư hầu) tồn tại cùng nước lớn (kinh sư)"」, cũng gọi là Phiên vương (藩王; nghĩa là "Tước Vương che chắn ở biên giới"). Từ cuối Tây Hán và sang thời Đông Hán, tuy mang danh nghĩa là Tiểu quốc, nhưng các Tiểu quốc đều là từ 1 đến 4 loại quận trong Đế quốc hợp thành, đây gọi là 「Quận quốc; 國郡」. Quyền lực của các Hoàng tử Vương theo các triều sau cũng dần thu hẹp, kể từ thời Hán Cảnh Đế thì Phiên vương không có quyền trị dân mà do quan viên xử lý, quyền bổ nhiệm quan chức cũng như số lượng quan chức đều bị hủy hoặc bị giảm, các chức vụ có qua lại mật thiết với trung ương như "Nội sử" đảm nhiệm vấn đề trị dân.

Bất luận là Tây Hán hay Đông Hán, các Hoàng tử Vương đều áp dụng chế độ thừa kế Thế tập võng thế (世袭罔替), có nghĩa "Truyền thừa vĩnh viễn nguyên tước vị", tước hiệu của vị Chư hầu Vương sẽ được Đích trưởng tử kế thừa vĩnh viễn, các con thứ thụ phong tước Hầu, thứ nữa phải ra làm quan. Việc này chỉ chấm dứt khi dòng dõi vị Hoàng tử ấy không còn ai hoặc bị luận tội tạo phản mà đoạt đất phong, đây gọi là 「"Quốc trừ"; 國除」. Nhìn chung quá trình thừa tước Hoàng tử Tông thân thời kỳ Lưỡng Hán như sau:

  • Hoàng tử thụ phong Phiên vương;
  • Hoàng tử Vương mất, con cả tập tước Vương của cha, con thứ đều phong tước Hầu;
  • Hoàng tôn tước Hầu mất, con cả tập tước, con thứ làm Thái thú của quận;
  • Con cả của Thái thú sau khi cha mất thì nhậm Quận thủ, con cả của Quận thủ tiếp kế thừa Huyện lệnh, thứ nữa phải thi Hiếu liêm làm quan;

Dòng chi chi trưởng thừa tước, chi thứ không có cũng là chủ trương của việc thừa kế, những con thứ và hậu duệ khi không thừa tước Hầu sẽ phải trải qua học tập ra làm quan, đây không chỉ nhà Hán khởi đầu mà còn là một gợi ý cho các triều đại sau, bởi vì không phải lúc nào triều đình cũng có thể duy trì tôn vinh cho thành viên hoàng thất. Những người có học hạnh, hoặc chiến công, cũng có thể từ tước Hầu đổi lên Vương, như Lưu Chương; không thì chỉ có thể đến Thứ sử, rồi từ từ nếu trong nhà không có ai cống hiến thì cũng tự trở nên sa sút, như nhà Hán Quang Vũ Đế Lưu Tú và Lưu Bị. Đãi ngộ hậu duệ chi lớn và chi nhỏ này tiếp tục được duy trì cho đến triều Đường.

Trải qua Ngụy-Tấn đến Đường-Tống

Kể từ sau Tào Ngụy, tuy thừa kế chế độ triều Hán, nhưng quyền lực đất phong của các Hoàng tử Phiên vương ngày càng bị tiêu giảm, không chỉ phạm vi đất phong ngày càng nhỏ mà năng lực tự trị đất phong cũng dần hạn chế, dù thực chất việc suy giảm này có từ tận Loạn bảy nước thời Hán Cảnh Đế. Sau đó Loạn bát vương thời Đông Tấn xảy đến, khiến nhiều triều đại về sau càng cân nhắc tiêu giảm thế lực của Hoàng tử Phiên vương.

Từ thời kỳ này, qua nhà Tấn rồi thời kỳ Nam Bắc triều, các triều đại liền có hiện tượng các Phiên vương đều nhậm các chức vụ trong cơ quan trung ương hoặc trị sự tại địa phương như Thứ sử, Tri châu hoặc Châu mục. Bên cạnh đó, vị trí chức quan kiêm nhậm của các Hoàng tử Phiên vương cũng không cố định vĩnh viễn mà tùy thời bổ nhiệm các vị trí khác nhau. Điều này khiến các Phiên vương tuy vẫn có khả năng cống hiến bảo vệ triều đình của gia tộc mình, nhưng lại "Tùy thời thay đổi" khiến họ rất khó độc đoán ổn định. Đây cũng bắt đầu từ chính sách của Tào Ngụy, cũng vì e ngại thế lực Phiên vương đời Hán mà quản lý Hoàng tử cùng Tông thân rất chặt chẽ, sánh với như bị cầm tù (ví dụ Trần Tư vương Tào Thực), nhưng cũng chính vì thế Tào Ngụy lại không chống đỡ được thế lực quyền thần họ Tư Mã của nhà Tấn vì không có phe cánh Phiên vương bảo vệ. Bản thân triều Tào Ngụy từng hạ tước Vương xuống thành tước Công, nhưng chẳng bao lâu sau lại cho đổi lại. Triều Tấn sau khi soán Ngụy, tiếp tục chủ trương giao quyền hành quan chức trong triều cho Phiên vương, nhưng lại bắt đầu để một số người có thực ấp lên cả vạn hộ, như Thành Đô vương Tư Mã Dĩnh đến 10 vạn hộ, hoặc Quảng Lăng vương Tư Mã Duật có 5 vạn hộ, hơn xa triều Ngụy chủ trương nghìn hộ. Cũng từ Ngụy-Tấn, dần có khái niệm Thân vương (親王) chỉ đến con hoặc anh em trai Hoàng đế mang tước Vương.

thumb|Trần Tư vương [[Tào Thực, Hoàng tử triều Tào Ngụy.]]

Các Hoàng tử được ban phong thực ấp thì lấy tên đất phong làm hiệu, mà đất phong đều là quận hoặc huyện, có thể nhiều hơn một đơn vị, sau khi được ban cho Hoàng tử nào thì nơi đó liền đổi tên dưới danh nghĩa Tiểu quốc, như quận Nhữ Nam được chọn làm đất phong thì gọi 「"Nhữ Nam quốc"; 汝南國」. Từ triều Bắc Chu, bắt đầu có dấu hiệu sử dụng tên Tiểu quốc, như Vũ Văn Hiến phong Tề vương. Sang các triều đại Nam triều, xuất hiện chính thức tước phong Quận vương (郡王) cho các Hoàng tử Tông thân, bởi vì đất phong đều là lấy quận làm phong quốc. Nhà Lương còn độc đáo chia khái niệm Thân vương, Hoàng tử cùng Hoàng huynh và Hoàng đệ phong Quận vương, còn gọi Chính vương, mà con trai kế tục họ được gọi là Tự vương (嗣王).

Triều đại nhà Tùy tiếp nối triều Bắc Chu, xuất hiện tên tước Vương là các Tiểu quốc cổ đại (như Hán, Tấn, Chu) mà không còn là tên Quận quốc nữa. Sang đến thời nhà Đường, cách thức phong tước Vương cho Hoàng tử Tông thân đều có biến hóa lớn:

  • Lấy tên Tiểu quốc gia phong: đều là Hoàng tử, loại này chỉ có 1 chữ trước tước Vương, gọi là 「Nhất tự Vương; 一字王」, ví dụ "Yên vương", "Ninh vương" hay "Triệu vương",... Đây thường được gọi chung là "Thân vương", nhưng chữ "Thân" này không đem lên tước chính thức mãi đến thời Thanh.
  • Lấy tên quận hoặc huyện gia phong: thường có 2 chữ, được gọi là 「Nhị tự Vương; 二字王」, thường dành cho con của Hoàng thái tử, Hoàng tử hoặc đại công thần khác họ (như Quách Tử Nghi từng được phong "Phần Dương Quận vương"). Đây thường được gọi chung là "Quận vương", tước phong có từ thời kỳ Nam triều trước đó.
  • Ngoài ra còn có địa vị đặc thù là 「Tự vương」, tức "Vương tước kế Tự", thường dành cho người trực tiếp kế thừa nguyên tước vị của Thân vương. Cả ba hạng tước Vương này cũng đều được quy hoạch lương bổng Phẩm cấp, trong đó Thân vương hàm "Chính nhất phẩm" còn Tự vương cùng Quận vương hàm "Tòng nhất phẩm".

Các vị Hoàng tử triều Đường nhận các chức quan quản hạt từng địa phương, như Thứ sử hoặc Châu mục dù còn rất sớm, tương lai khi trưởng thành cũng sẽ tùy chỉ thị mà tiếp quản công việc, hoặc thiên chuyển sang địa phương khác. Ngoài ra, các Hoàng tử cùng con cháu còn có phủ đệ được thiết trí trong kinh thành hoặc khu vực được phái đến, họ tuy cũng còn có phong "Thực ấp" nhưng lại giới hạn ở trang viên quản hạt, không có quyền ảnh hưởng dân sinh mà chỉ nhận cung ứng theo quy định. Bên cạnh đó, thời Đường bắt đầu xem xét tư cách tập tước, tức là các Hoàng tử và hậu duệ của họ có thể vĩnh viễn "Thế tập võng thế" hay không đều do triều đình quyết định, không còn hiển nhiên thừa tập vĩnh viễn như các triều trước. Tuy hạn chế Tông thân tập tước, nhưng triều Đường vì lý do quân sự mà tương đối lạm phong "Quận vương" cho công thần khác họ, giống như Quách Tử Nghi, rồi quyền thần Chu Toàn Trung từng là "Đông Bình vương", sau thăng "Lương vương" mà soán Đường để kiến lập Hậu Lương.

Sang đời nhà Tống, đại khái vẫn giữ ba hạng "Thân vương", "Tự vương" cùng "Quận vương" như triều Đường. Cũng theo triều Đường, triều Tống không để người thụ phong quản lý dân sinh mà chỉ nhận chu ứng dựa theo sổ sách, triều đình cũng ra sức siết chặt không có hiện tượng tập tước của Tông thân, cũng không có chủ trương lạm phong tước hiệu cho công thần khác họ dù rất lạm phong để truy tặng cho ngoại thích. Tuy nhiên quá trình gia phong và đẳng cấp huy hiệu của triều Tống lại cực kỳ phức tạp, có thể nói là phức tạp bậc nhất trong lịch sử. Quá trình ấy như sau: :::Các Hoàng tử triều Tống khi còn nhỏ sẽ được chọn một tên đất phong 2 chữ bằng quận hoặc 1 chữ Quốc hiệu trong Tam đẳng Quốc hiệu (三等國號). Cái gọi "Tam đẳng Quốc hiệu" chính là ba hạng mức Quốc hiệu chỉ 1 chữ, bao gồm Tiểu quốc (小國), Thứ quốc (次國) và Đại quốc (大國), mà mỗi hạng là cả chục cái tên Quốc hiệu, mỗi tên Quốc hiệu lại có thứ tự lớn nhỏ khác nhau trong danh sách định sẵn. :::Khi quyết định gia phong, Hoàng tử sẽ thụ phong Quận công dựa vào tên của quận ấy, hoặc Quốc công dựa vào Quốc tiệu hàng Tiểu quốc, kèm đó là một loạt chức trị sự như Phòng ngự sứ, Tiết độ sứ, Thứ sử hoặc Châu mục. Đến khi lớn một chút, liền phong thành "Quận vương""Thân vương", trong khi "Quận vương" là tên quận khác, mà từ "Thân vương" lại tiến hành chọn một Quốc hiệu khác, bắt đầu cũng từ hàng Tiểu quốc, về sau càng sống thọ, hoặc có huân công, hoặc có truy tặng thì sẽ được chọn tên từ Thứ quốc và Đại quốc mà gia phong.

Vì vậy ở thời Tống, tình trạng thay đổi phong hiệu Thân vương diễn ra hết sức thường xuyên, mỗi lần thay tên hiệu là giáng phong hoặc là gia phong lên tùy vào công lao hoặc tội trạng của người thụ tước. Điều này cũng diễn ra tương tự với các Hoàng nữ.

Tới triều Minh và Thanh

Sang thời nhà Minh, hoàng triều họ Chu áp dụng chính sách phong tước rất lạm, không chỉ áp dụng chế độ "Thế tập võng thế" toàn vẹn, mà tất cả những nam duệ của Hoàng tử đều thụ hưởng tước phong qua các đời. Cụ thể:

  • Toàn bộ Hoàng tử đều là Thân vương (親王);
  • Ngoại trừ Đích trưởng tử của Thân vương sẽ được phong Vương thế tử (王世子) và tương lai tập tước, cháu nội Đích tôn thụ Vương thế tôn (王世孫), các con trai khác đều thụ phong Quận vương (郡王). Áp dụng cho cả con thứ của Thái tử và trường hợp nhập Tự, song từ Gia Tĩnh đã hạn chế;
  • Con trai Đích tử của Quận vương thụ phong Quận vương Thế tử (郡王世子), sau gọi Trưởng tử (長子), mà cháu nội Đích tôn thụ phong Trưởng tôn (長孫), còn các con trai khác phong Trấn quốc Tướng quân (鎮國將軍). Áp dụng cho cả nhập Tự, song từ Gia Tĩnh đã hạn chế;
  • Từ đây lần lượt phong như nhau qua các đời: các con trai của "Trấn quốc Tướng quân" đều phong Phụ quốc Tướng quân (輔國將軍), tương tự xuống dưới có Phụng quốc Tướng quân (奉國將軍), Trấn quốc Trung úy (鎮國中尉), Phụ quốc Trung úy (輔國中尉) và Phụng quốc Trung úy (奉國中尉). Đến bậc "Phụng quốc Trung úy" thì con trưởng thế tập vĩnh viễn không hàng tước vị;

Cũng như các triều Đường-Tống, phong hiệu cho "Thân vương" đều dùng tên Tiểu quốc và có 1 chữ, còn "Quận vương" đều là tên quận huyện và có 2 chữ. Còn hai vị thứ "Tướng quân" cùng "Trung úy" không có phong hiệu.

Ban đầu, triều Minh cũng phái Hoàng tử làm Phiên vương, toàn quyền tọa trấn tại từng vùng đất đai riêng biệt như các Chư hầu Vương thời Hán, nhưng từ Sự biến Tĩnh Nan mà vấn đề này phải thay đổi. Về sau đó, chế độ Phiên vương của nhà Minh tiếp tục duy trì, nhưng quyền quản hạt lại do các quan viên địa phương đó nắm giữ, các Hoàng tử chỉ đến đất phong và duy trì sinh hoạt. Theo quy định thời Minh, hơn 10 tuổi thì các Hoàng tử đều thụ phong Thân vương, nhận Bảo ấn, sau đó qua một đoạn thời gian lại được phân ra các địa phương lớn như phủ, quận hoặc huyện trấn thủ, không có chiếu lệnh thì không quay về, đây được gọi là chế độ 「Tựu phiên; 就藩」.

Để chuẩn bị cho các Hoàng tử làm Phiên vương tựu trấn, triều đình sẽ kiến thiết phủ đệ tại các địa phương để Hoàng tử đến cư trú sau khi đến tuổi, cũng lấy đó làm "nhà chính" cho hậu duệ của mình. Hai mức "Thân vương phủ" cùng "Quận vương phủ" triều Minh khác xa nhau, các vương phủ dành cho Thân vương cơ bản là một Hoàng cung thu nhỏ khi còn cho xây cả nhà Tông miếu cùng Cung thành Tứ môn, cũng có quan viên và binh lính riêng dù số lượng hạn chế, trong khi vương phủ của Quận vương là Tứ hợp viện cùng diện tích lẫn quy hoạch đều khiêm tốn hơn. Dù đã "Tựu phiên" cùng có trang viên tại địa phương, triều đình nhà Minh vẫn duy trì lương bổng định kỳ cho các Hoàng tử. Thời đầu Hồng Vũ triều Minh Thái Tổ, mức cao nhất cho Thân vương là hơn 50.000 thạch, và Quận vương với hơn 25.000 thạch theo năm, chỉ từ cuối Hồng Vũ mới giảm còn tiêu chuẩn 10.000 cho Thân vương và 2.000 cho Quận vương. Qua các đời sau, tuy rằng các Hoàng đế nhà Minh đã cố gắng giảm bổng lộc cho một vương phủ chỉ còn tầm 2.000 thạch hằng năm, nhưng đó là chưa kể mức độ ban thưởng tùy các dịp, nên nhìn chung thì chi phí duy trì các chi hệ Hoàng tử Tông thân triều Minh đều rất cao. Đến tận thời Vạn Lịch, số lượng vương phủ của Tông thân - tính cả Thân vương phủ lẫn Quận vương phủ - đã vượt hơn 35 phủ, mà mỗi phủ được duy trì trung bình 1.000 thạch, vị chi mỗi năm thì triều Minh phải chi ít nhất 35.000 thạch cho các vương phủ. Việc duy trì 「"Thế tập võng thế"」, lại ra ân điển toàn bộ hậu duệ của Hoàng tử đều thụ phong tước hiệu cùng hiện tượng duy trì tình trạng 「"Nhập tự"」 để tiếp nối hương hỏa các Thân vương phủ, đã khiến tình trạng Tông thân triều Minh có "tước vị mặc định" rất phổ biến, hiện tượng này vượt trội hơn hầu hết các triều đại trong lịch sử nếu so với hai triều Đường-Tống hay thậm chí cả triều Hán. Đây là lý do khiến triều Minh phải đối phó gánh nặng kinh tế hết sức khổng lồ.

Kể từ niên hiệu Gia Tĩnh thời Minh Thế Tông, triều Minh dần có hạn chế chính sách phong tước, dần tiến hành giảm đi tước phong. Đây là bởi vì khi ấy dòng dõi Tông thất có tước phong quá nhiều mà bổng lộc các tước phong đều cao, không chỉ có tình trạng Thân vương hoặc Quận vương không con mà đem "Nhập tự" để duy trì, triều Minh còn phải chịu chi phí xây dựng vương phủ quá mức khổng lồ, chính điều này đã gây nên tình trạng gánh nặng kinh tế đáng sợ của triều đại nhà Minh. Sự thay đổi của Thế Tông nhằm mục đích hạn chế phong tước cho những con trai của Thân vương nhập Tự, họ sẽ không đồng thời phong "Thế tử" cùng "Quận vương" mặc định như thời Sơ kỳ nữa, mà là phong hàng chức tước vốn dĩ của Thân vương ấy. Lấy ví dụ, Thân vương A trước khi được đưa qua làm Thân vương thì từng là Quận vương, nên sau khi kế tước nhập Tự thì con trai toàn bộ phong giáng một cấp, tức Trấn quốc Tướng quân. Chỉ ai được chọn thế tập nguyên tước thì tiếp nhận tước hiệu với tư cách là đời kế tiếp. Đây có lẽ là tiền đề cho việc triều Thanh tiến hành việc thế tập giáng tước về sau.

Thời kỳ nhà Thanh có chế độ phong tước riêng biệt dành cho nam giới Tông thất, tức hậu duệ của Nỗ Nhĩ Cáp Xích hoặc hậu duệ của anh em cùng cha của Nỗ Nhĩ Cáp Xích, đều chia ra hai hạng "Nhập Bát phân" (入八分) và "Bất nhập Bát phân" (不入八分), trong đó "Nhập Bát phân" là phạm trù tôn quý. Hệ thống tước hiệu cơ bản có 12 tước vị cùng 2 tước vị đặc thù, là tổng 14 tước vị, còn gọi Thập tứ đẳng Tước vị (十四等爵位). Cả 8 tước hiệu trong "Nhập bát phân" dành cho Hoàng tử cùng con cháu:

  • Hoà Thạc Thân vương (和碩親王); Thế tử** (世子), thừa kế Thân vương, về sau đời Càn Long thì dần bị xóa bỏ;
  • Đa La Quận vương (多羅郡王); Trưởng tử** (長子), thừa kế Quận vương, về sau đời Càn Long thì dần bị xóa bỏ;
  • Đa La Bối lặc (多羅貝勒);
  • Cố Sơn Bối tử (固山貝子);
  • Phụng ân Trấn quốc công (奉恩鎮國公);
  • Phụng ân Phụ quốc công (奉恩輔國公);

Khác với đa số các triều đại trước, thời Thanh dùng phong hiệu thì đều thường là 1 chữ, hơn nữa là thuần mỹ tự, tức mang ý may mắn hoặc dụng ý ban phong chứ không phải dựa vào tên Tiểu quốc hay Quận huyện như đời trước, vì thế hai tước hiệu "Thân vương" cùng "Quận vương" khi gia phong vẫn giữ nguyên, tức là phải gọi ["Hòa Thạc A Thân vương"] hoặc "A Thân vương"; ["Đa La B Quận vương"] hoặc "B Quận vương" khi đề cập. Dưới tước Vương chỉ có tên nguyên tước, không dùng phong hiệu.

thumb|Một vị Hoàng tử A ca thời Càn Long.

Đời Thanh gọi Hoàng tử bằng kính xưng Mãn ngữ A ca, đây cũng là một điểm nhận biết chủ chốt của các Hoàng tử triều Thanh. Bên cạnh đó, triều Thanh không như các triều đại trước chủ trương phong tước khi còn nhỏ, nhìn chung các Hoàng tử triều Thanh đều phải qua 16 tuổi mới thụ phong, hơn nữa không phong Vương ngay mà thấp nhất là "Bối tử", sau đó có công lao hoặc đã cao tuổi thì mới xét phong Vương. Tình trạng này khiến triều Thanh có địa vị đặc thù dành cho các "Hoàng tử", bởi vì nhiều Hoàng tử khi trưởng thành vẫn chưa phong tước, thế nhưng địa vị Hoàng tử vẫn là đặc thù nhất chỉ sau Hoàng đế, cho nên triều Thanh quy định mũ áo của riêng thân phận Hoàng tử đều bằng hoặc hơn hẳn tước Thân vương.

Ở thời Thanh, thân phận Hoàng tử - dù phong tước hay chưa - cũng đều là hàng cao nhất. Sau khi Hoàng đế qua đời, Hoàng tử thành "Hoàng huynh" hoặc "Hoàng đệ", được anh em trai là Hoàng đế chính thức phong tước thì mới dựa vào tước phong mà phân biệt thứ tự. Triều Thanh cũng rất khắt khe giáo dục Hoàng tử, kể từ Thánh Tổ khai sáng, hình ảnh Hoàng tử A ca đến Thư phòng đọc sách cũng là một nét rất đặc trưng của triều Thanh. Sau khi trưởng thành, Hoàng tử triều Thanh có hiện tượng đảm nhiệm xử lý một cơ quan của chính quyền trung ương, đây cũng là một đặc điểm nổi bật của triều Thanh từ tận thời Hậu Kim, nhiều Hoàng tử nổi tiếng có đóng góp cho triều đình như Di Hiền Thân vương Dận Tường, Cung Trung Thân vương Dịch Hân đều có uy tín lẫn thực quyền một thời.

Bởi vì nhìn nhận gánh nặng kinh tế quá khổng lồ vị sự lạm phong tước hiệu của đời Minh, triều đình Ái Tân Giác La thực thi chế độ Thế tập đệ giáng (世袭递降), có nghĩa "Thừa kế giáng vị" qua các đời. Ngoài ra, các Hoàng tử Tông thất thụ phong đều sẽ được chỉ định phủ đệ ngay trong phạm vi kinh thành mà không có phủ đệ tại các địa phương như triều Minh, hình thành nên quần thể Tông thất phủ đệ dưới thời nhà Thanh.

Việc chế định "Thế tập đệ giáng" chính là chỉ đem một người thừa tập tước của cha, mà tước đó lại còn bị giáng qua các đời. Còn những người con khác, đều phải qua bài thi khảo hạch để mưu cầu được tước vị, nhưng họ chỉ có thể được thụ phong trong hàng "Bất nhập Bát phân" tước vị hữu hạn, mà không thể cầu hàng "Nhập Bát phân" vô hạn. Đây được gọi là chế độ Khảo phong (考封). Tuy nhiên cũng có ngoại lệ, có 12 người vì công lao to lớn với triều Thanh mà tước Vương của họ ("Thân vương lẫn Quận vương") có thể cho con cháu kế thừa vĩnh viễn, được gọi là Thiết mạo tử vương. Triều Thanh vì quan niệm "Hậu duệ hoàng thất không thể vô hậu" cho nên cũng duy trì 「"Nhập tự"」, có điều ngoại trừ 12 thế hệ "Thiết mạo tử vương" thì các tước phong khác đều sẽ giảm qua các đời, do vậy tất cả Hậu duệ hoàng tộc nếu vô hậu thì đều sẽ có con thừa tự mà không chỉ ràng buộc chỉ có tước Thân vương như triều Minh.

Cũng như triều Minh đến Đường-Tống, phong tước đời Thanh cho các Hoàng tử quy định chi tiêu dựa vào bổng lộc, dù bổng lộc các Hoàng tử triều Thanh rất nhiều lên đến cả vạn lượng bạc, nhưng kế sinh nhai của họ không dừng lại ở đó mà bao gồm điền trang cùng cửa hiệu riêng biệt, đáng chú ý nhất và đặc trưng nhất của triều Thanh là việc sở hữu "Thuộc nhân" của các Hoàng tử Tông thân. Kể từ khi nhập quan thời Thuận Trị, vào lúc định chọn tước hiệu cho Hoàng tử Tông thân thuộc "Nhập Bát phân", Hoàng đế sẽ phân tất cả bọn họ vào 1 trong 5 Kỳ tịch thuộc Hạ ngũ kỳ, sau đó trong Kỳ tịch ấy chọn ra số lượng Tá lĩnh nhất định như là "Tài sản nhân sự" của riêng người ấy, mỗi Tá lĩnh gồm 300 người, thông thường thì Thân vương sở hữu trên 10 Tá lĩnh, cứ thế giảm dần, mà người nắm được số lượng lớn nhất trong một Kỳ tịch ắt xưng 「Kỳ chủ; 旗主」. Nằm trong Tá lĩnh là nhân khẩu của Kỳ phân Tá lĩnh, Bao y hay thậm chí Kỳ hạ Gia nô, tất cả nhân khẩu thuộc Kỳ tịch nào cũng đều là sở hữu về người của Hoàng tử Tông thân sở hữu tước hiệu thuộc Kỳ tịch ấy. Và dù triều Thanh xem nhân khẩu "Kỳ phân Tá lĩnh" cùng "Bao y" đều là lương dân, có thân phận rõ ràng, nhưng trước thành viên Hoàng thất thì cũng đều chịu phận nô lệ, bất kể là người Mãn, người Hán hay Mông Cổ lẫn Hồi Hột. Vào ban đầu khi định ra, Hoàng tử Tông thân có quyền hành rất tuyệt đối với các "Thuộc nhân" trong Kỳ tịch mà mình cai quản, dẫn đến Đa Nhĩ Cổn mới có thể có quyền hành lớn đến như vậy. Tuy nhiên từ thời Thuận Trị, sang thời Khang Hi và nhất là Ung Chính, quyền hành tuyệt đối của họ giảm mạnh do chủ trương 「Bát Kỳ cộng chủ; 八旗共主」 được tái lập, Hoàng đế không chỉ nắm riêng Thượng tam kỳ mà còn là chủ tử của Hạ ngũ kỳ thật sự, thân phận Kỳ chủ của các Hoàng tử Tông thân chỉ còn là danh nghĩa, đối với Hoàng đế đều xưng "Nô tài" (奴才), cái này không chỉ khiến người Bát Kỳ phải phụ thuộc Hoàng đế mà cũng làm tăng lên ràng buộc của Hoàng đế đối với người Bát Kỳ.

Cũng từ Ung Chính trở đi, thực hành 「"Bí mật lập Trữ chế"」, những Hoàng tử A ca nào được chỉ định phong tước cùng xuất cung lập phủ chính là vô duyên với ngai vị Hoàng đế, các Hoàng tử có khả năng được chọn đều sẽ được giữ lại trong cung. Sau khi Trữ quân được định, Tân Hoàng đế kế vị, các Hoàng tử A ca này mới nhận tước phong cùng phủ đệ từ anh em trai Hoàng đế của mình. Trường hợp Thanh Cao Tông cùng Thanh Nhân Tông, cả hai đều được phong "Bảo Thân vương" rồi "Gia Thân vương" nhưng không cho xuất cung mà vẫn ở lại trong cung; Cao Tông luôn trú ở Trọng Hoa cung, mà Nhân Tông đến nay vẫn chưa rõ lắm, nghi ngờ là Dục Khánh cung.

Các triều đại Thảo nguyên

Từ lâu Trung Quốc đã giao thoa với các sắc dân du mục ở thảo nguyên Tây Bắc, Hung Nô là thế lực bộ tộc du mục được biết đến sớm nhất, các vị Vua của họ tự xưng tước hiệu Thiền vu - về ý nghĩa thì nó tương đương với Thiên tử ở Trung Quốc, cho nên theo lý thuyết con trai của họ cũng là Hoàng tử, con trai thừa kế cũng xưng Thái tử. Nhưng vì quan niệm Hoa Hạ và Thiên tử duy nhất, mà khi các triều đình này vào triều đều phải xưng thần (tương tự mối quan hệ giữa Chămpa cùng Đại Việt), do vậy các tài liệu chữ Hán cổ tại Trung Quốc đa phần chỉ ghi Vua của họ ứng với Vương, con trai là Vương tử hoặc không ghi tước vị bản ngữ. Điều này tương tự với trường hợp dòng dõi Tán phổ của Đế chế Thổ Phồn, cũng bị triều Đường xem ngang với Vương.

Căn cứ Sử ký Tư Mã Thiên, Hán thư cùng Hậu Hán thư, khi đề cập đến họ đều chỉ ghi 「"Con trai của Thiền vu"」 cùng chức vị hoặc tước hiệu, hầu như không có danh vị nào đặc thù. Và vì là một khối sắc dân thuyền chiến đấu mà các Hoàng tử Hung Nô sẽ sớm có thực quyền về đất đai, binh sĩ cùng hạ nhân, khi lớn mạnh họ còn có thể lập riêng ra một bộ tộc khác tách hẳn bộ tộc gốc, một điều xét ra thì tương tự như "chia nhà Tiểu tông" của Trung Nguyên. Dựa vào lý lịch của con trai Vương Chiêu Quân với Thiền vu là Hô Hàn Tà, những người không kế vị thì thường sẽ được phân chia một bộ phận để quản lý và có tước xưng khác nhau, con trai của Chiêu Quân là "Tả Nhật Trục vương" (右日逐王), có lẽ là một phiên âm chữ Hán của tiếng Hung Nô khi ấy. Căn cứ Hậu Hán thư, tước "Tả Nhật Trục vương" này nằm trong vòng hệ thống "Lục giác", dưới sự quản hạt của Tả Hiền vương, mà căn cứ Sử ký thì Tả Hiền vương cùng Hữu Hiền vương đều là hai tước vị chỉ dưới Thiền vu - chúa tể Hung Nô, thường do Thái tử đảm nhiệm. Đây là một chuỗi hệ thống trong 「Nhị thập tứ trưởng; 二十四長」, hệ thống Vương công đại thần của Hung Nô.

thumb|Bích họa các Hoàng tử của Hồi Hột.

Sau khi Hung Nô biến mất, danh xưng Thiền vu được thay thế bằng Khả hãn, và người đầu tiên dùng là các vị Vua của Nhu Nhiên. Cũng như "Thiền vu", tước hiệu "Khả hãn" cũng ngang với Thiên tử của Trung Quốc, do vậy cũng theo lý thuyết thì các con của Khả hãn cũng đều xứng với xưng hô Hoàng tử. Chỉ là cũng như tình trạng của Hung Nô, toàn bộ con trai của các Hãn qua ghi chép của Trung Quốc đều là 「"Con trai của Hãn"」 hoặc Vương tử. Con trai của các Khả hãn đều được chia sẻ đất đai, thuộc nhân và quản lý quân sự thực tế tương tự Hung Nô. Bởi vì "Hãn" có ý nghĩa như Hoàng đế, các thủ lĩnh bộ tộc được ghi lại với danh xưng "Tôn trưởng", "Bộ chủ" hoặc "Thủ lĩnh", danh xưng khác thì ít ghi nhận. Cá biệt có Hãn quốc của họ A Sử Na (阿史那) là Hãn quốc Đột Quyết, dưới Khả hãn là hai chức vụ 「Diệp hộ; 叶护; Yabgu」 cùng 「Thiết; 設; Shad」, đều dành cho các Hoàng tử Tông thân đảm nhiệm, có nhiệm vụ trị vì các bộ tộc bị thần phục. Hai chức vụ này chia ra Diệp hộ ở cánh Tây của Hãn quốc, còn Thiết ở cánh Đông của Hãn quốc, mà thân phận của Diệp hộ thường là chỉ sau Khả hãn, tức là em trai của ông hoặc là người con trai lớn nhất. Học giả Đột Quyết là Mahmud al-Kashgari có giải thích rõ địa vị của Diệp hộ:「"Cách hai bước dưới Khả hãn, trong đó vị Thiết Thái tử ở trên Diệp hộ một bậc"」. Bên cạnh đó, có ghi chép về A Sử Na Nê Thục (阿史那泥孰; Duolu Qaghan) của Tây Đột Quyết cùng Khuyết Đặc Cần (阙特勤; Kul Tigin) của Đông Đột Quyết đều từng được phong Hữu Hiền vương, có thể các triều đại này vẫn giữ một vài chức tước cổ của người Hung Nô.

Kể từ khi Hãn quốc Đột Quyết này chia làm Đông Đột Quyết cùng Tây Đột Quyết, các vị Thiết cùng Diệp hộ dần tự lãnh đạo riêng và hai chức tước này trở thành những tước hiệu tối cao của họ. Về sau Hồi Hột tuy cũng có danh xưng Khả hãn cho vị Vua của mình, nhưng vì quan hệ tốt với nhà Đường, đặc biệt là việc liên hôn sau sự kiện Loạn An Sử, mà các vị Vua của Hồi Hột cũng đều xưng thần, là "Quốc vương", "Quân trưởng" hoặc "Tù trưởng" hơn là Hoàng đế, Vương tử cùng hậu duệ của họ đa phần đều sẽ có tên theo chữ Hán cũng như làm quan viên cho triều đình.

Sang thời Ngũ Đại Thập Quốc cùng triều Tống, thì có người Khiết Đan lập nên nhà Liêu, người Đảng Hạng lập nên Tây Hạ cùng người Nữ Chân lập nên nhà Kim, và trước khi Mông Cổ quật khởi thì cả 3 triều đại này đã tham khảo rất sớm quy cách của Trung Quốc thông qua nhà Tống. Khác với các Thiền vu hay Khả hãn, các vị Vua của ba triều đại này tự xem mình ngang với Hoàng đế triều Tống nên cũng xưng tước hiệu Hoàng đế, con trai là Hoàng tử và cũng phong tước Vương. Hiện tại các lài liệu về họ chủ yếu là chữ Hán, cũng không thấy có xưng hô đặc biệt gì như "A ca" của triều Thanh về sau. Cũng như Đường-Tống, phong hiệu tước Vương của các triều đại này đa phần là tên Tiểu quốc, trong đó triều Kim còn theo kiểu Tống mà lập ra "Tam đẳng Quốc hiệu", lại phân biệt giữa Quốc vương, Nhất tự Thân vương cùng Quận vương. Cũng như các triều đại Hung Nô cùng Đột Quyết, các Hoàng tử Tông thất triều Liêu-Kim-Hạ đều tham dự quốc sự một cách tích cực. Mà triều Liêu kế thừa hệ thống Oát Nhĩ Đóa được khởi xướng bởi Đột Quyết, lại vì vấn đề chi họ mà thiết lập Bắc Nam diện quan chế, còn hình thành khái niệm "Hoành trướng" cho hoàng tộc trực hệ của Liêu Thái Tổ, đồng thời lại chia ra Hệ phòng là hậu duệ chú bác của Liêu Thái Tổ gọi là Tam phụ phòng (三父房), cùng hậu duệ của tổ tiên xa hơn của Thái Tổ được gọi là Nhị viện hoàng tộc (二院皇族). Triều Kim khi lập triều, cũng chia Bắc Nam diện quan cắt cử Tông thân, nhưng nhận thấy chế độ này của triều Liêu dễ phát sinh đại loạn, nên Kim Thái Tổ liền thiết lập chế độ Bột cực liệt với quyền uy tập trung vào mình, sang triều Kim Hy Tông thì lại áp dụng chế độ nhà Đường cùng nhà Tống vững vàng hơn, cũng để Hoàng tử Tông thất đảm nhiệm các chức vụ quan trọng trong bộ máy. Nhìn chung, cả ba triều đại này đều áp dụng chế độ "Thừa kế giáng tước" và không cố định tước phong được áp dụng từ triều Đường, cũng không phải con cháu Hoàng tử đều thụ phong. Khi thụ phong tước, cũng như triều Đường chế định, con cháu của một Thân vương đất A có thể thụ phong làm Quận vương hoặc Thân vương đất B, không cố định giữ nguyên một đất phong qua các đời.

Vào lúc Đế quốc Mông Cổ lập nên triều đại nhà Nguyên, người Mông Cổ đã chiếm Trung Quốc có một lãnh thổ bao rộng to lớn, vì vậy tình trạng chia đất đai của triều đình rõ ràng và thực dụng hơn, phần nhiều đều dựa vào biến chuyển quân sự tại các lãnh địa. Bên cạnh đó, họ cũng học theo văn hóa Trung Quốc, dùng chữ Hán song song chiết tự Mông Cổ, cũng dùng hệ thống Vương tước cho hoàng gia. Và cũng tại Mông Cổ, chỉ có người tối cao nhất gọi Khả hãn, thống lĩnh tất cả các Bộ trưởng cùng Thủ lĩnh linh tinh khác. Trong khi ấy, các vị Hoàng tử Tông thân được phân chia lãnh địa với tước Hãn, tương ứng địa vị Quốc vương. Và vì không có truyền thống chọn sẵn người kế vị mà đều trải qua Hốt lý lặc thai tiến hành đại bầu cử, ngai vị Thái tử triều Nguyên từ Hốt Tất Liệt đã không ổn định, nên tình trạng Hoàng tử Tông thất triều Nguyên sôi nổi đoạt vị cũng xảy ra suốt thời kỳ đỉnh cao của triều đại này.

Cách chia đất phong cho Hoàng tử Tông thân triều Nguyên từ ấy có ba dạng:

  • Chia lãnh địa trên thảo nguyên, từ thảo nguyên Mông Cổ đến Trung Á được chia thành các khu vực để phân phong Thân vương mang tước Hãn, chủ yếu ở Lĩnh Bắc Hành và Liêu Dương. Dần về sau, tình trạng này thái hóa thành 4 Hãn quốc phía Tây Bắc nhà Nguyên, gồm: Kim Trướng, Sát Hợp Đài, Oa Khoát Đài cùng Y Nhi, cả 4 Hãn quốc này về sau được lịch sử gọi là 「Tứ đại Hãn quốc; 四大汗國」.
  • Thực ấp phương thức Ngũ hộ ti (五户丝), là một dạng thực ấp chính thức dành cho Hoàng tử Tông thân, Hậu phi, Công chúa cùng Phò mã tại lãnh thổ gốc Hán (ý nói toàn bộ Trung Nguyên). Những người được ban thực ấp hưởng cung ứng theo lệ định từ lãnh địa, nhưng không được phép can thiệp quản lý dân sinh. Tước hiệu thụ phong biểu thị địa phương được quy hoạch sẵn.
  • Tông vương xuất trấn, đây là một hình thức khá phổ biến ở các Đế chế lãnh thổ lớn, về cơ bản giống như phân phong chư hầu tọa trấn ở những lãnh thổ nhất định. Tuy nhiên Tông vương trấn giữ triều Nguyên bị hạn chế bởi cơ quan hành chính tại lãnh địa ấy, không có toàn quyền điều binh hoặc can thiệp dân sinh, hơn nữa cũng không phải chỉ một Tông vương tọa trấn cùng một địa phương.

Ngoại trừ địa vị Hãn đặc thù của thời kỳ đầu, thì phong hiệu tước Vương của triều Nguyên cũng rất đa dạng, đôi khi vẫn là tên Tiểu quốc hoặc Quận quốc như các triều trước, cũng có mang ý nghĩa nhất định hoặc mỹ tự đơn thuần. Ví dụ "Vân Nam vương" (云南王), "Trấn Nam vương" (镇南王) và "Lương vương" (梁王), ba tước Phiên vương trấn thủ tỉnh Vân Nam có ba phong cách khác nhau. Khác với các triều Liêu-Kim-Hạ, thì triều Nguyên giữ chế độ tập nguyên tước hiệu cố định như thời Hán, mà không tùy thời gia phong hoặc giáng tước được áp dụng từ triều Đường.

Sau khi triều Nguyên suy sụp và lui về làm Bắc Nguyên, Tiểu triều đình này xuất hiện danh xưng Đài cát - được cho là phiên âm của danh xưng "Hoàng thái tử" từ Trung Quốc. Và sau khi Bắc Nguyên diệt vong, "Đài cát" trở thành tước xưng cho Vương công quý tộc làm Thủ lĩnh của các bộ tộc có thế lực, bên cạnh các tước hiệu có hướng Nữ Chân như Bối lặc. Khi triều Thanh dần dần lập nên Mông Cổ thuộc Thanh cùng chế độ Mông Cổ Minh kỳ, tước hiệu "Đài cát" cũng được sử dụng trong hàng ngũ tước phong cho các Thủ lĩnh của bộ tộc du mục quy phụ triều Thanh, bọn họ được gọi là Ngoại phiên Mông Cổ (外藩蒙古) hoặc Mông Cổ vương công.

thumb|[[Sách Lăng, người Khách Nhĩ Khách, là một Mông Cổ vương công, giữ tước "Trung Tả Mạt Kỳ Thân vương" của Tái Âm Nặc Nhan.]]

Theo đó, ngoài tước vị "Đài cát" thì triều Thanh còn áp dụng các tước hiệu trong "Nhập Bát phân" như Thân vương, Quận vương, Bối lặc, Bối tử đến Trấn quốc công và Phụ quốc công. Và tước hiệu "Đài cát" là bên dưới Phụ quốc công, chia làm 5 hạng với riêng "Trát Tát Khắc Đài cát" ở một hạng riêng. Triều Thanh thực thi quân chủ chuyên quyền, nhưng không thể không xem trọng thế lực của các Mông Cổ vương công trong việc phòng thủ biên giới thảo nguyên, do đó tùy tình huống mà một vị Mông Cổ vương công này có thực quyền hay không, hoặc có tư cách truyền đời hay không. Rất nhiều Mông Cổ vương công thế tập tước vị Thân vương cùng Quận vương truyền đời không đổi đến tận khi triều Thanh diệt vong, mà sự hưng thịnh của họ bị khống chế bởi chức vụ và công lao qua từng triều.

Căn cứ quy định năm Càn Long thứ 17 (1725), ngoài con cả tập tước, thì các con trai cùng em trai thành niên của các Hãn cùng Thân vương thụ phong 「"Nhất đẳng Đài cát"」; con và em của Quận vương cùng Bối lặc phong 「"Nhị đẳng Đài cát"」; con và em của Bối tử cùng Công tước là 「"Tam đẳng Đài cát"」.

Những người Mông Cổ Minh kỳ này về cơ bản đều là Vương công quý tộc, lịch sử của họ là Thủ lĩnh hoặc hậu duệ những Thủ lĩnh của một bộ tộc độc lập khi trước và sau quy phụ triều Thanh, hoặc bị bại trận mà phải phụ thuộc vào triều Thanh. Cho nên, xuất thân của họ có thể ngang Hoàng tử hoặc Vương tử, lại có giữ gìn lối ăn mặc du mục gốc, gần gũi với hình ảnh Mông Cổ nguyên bản. Bên cạnh Tam phiên thời Sơ kỳ, thực tế các Vương công thuộc Mông Cổ Minh kỳ cũng là "Thân vương khác họ" được duy trì trong lịch sử triều Thanh. Cũng vì lý do này, các đời Hoàng đế triều Thanh luôn có ít nhất một Hoàng nữ hoặc Tông nữ Cách cách, được phong tước hiệu Công chúa và gả cho Vương công Mông Cổ hoặc người kế tục tước vị của họ. Bản thân hoàng tộc Ái Tân Giác La của triều Thanh cũng duy trì huyết thống Mông Cổ qua Hiếu Trang Văn Hoàng hậu, thuộc dòng dõi Khoa Nhĩ Thấm, có liên quan về huyết thống với các Hoàng đế nhà Nguyên và Thành Cát Tư Hãn. Một dạng khác là Đạt Ngõa Tề, người từng là Khả hãn của Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ, sau binh bại mà bản thân cùng con cháu được thế tập tước hiệu Xước La Tư (綽羅斯) và được giữ lại kinh.

Trong khi đó, tuy cùng là Mông Cổ nhưng những người thuộc Mông Cổ Bát kỳ đã "thuần phục" nội trướng của Thanh triều và được trú ngụ theo quy chế Bát Kỳ tại kinh thành, do vậy đã bị Mãn hóa về ngôn ngữ lẫn phong tục. Đối lập với Ngoại phiên Mông Cổ và tương tự Mông Cổ Bát kỳ chính là Nội thuộc Mông Cổ (內屬蒙古), những bộ lạc Mông Cổ đã chịu quản lý trực tiếp bởi triều Thanh, điểm khác biệt là những người thuộc biên chế này vẫn giữ biên chế bộ lạc ở địa phương, tương đương quận hoặc huyện, thay vì được đưa vào Mông Cổ Bát kỳ, ví dụ cho trường hợp này có bộ tộc Sát Cáp Nhĩ.

Quốc gia đồng văn

Việt Nam

Trong lịch sử Việt Nam, thời kỳ trước khi các triều đại mang hướng Hoa Hạ xuất hiện cũng không có ghi chép gì quá đặc biệt. Thời huyền huyễn Hùng vương, căn cứ Lĩnh Nam chích quái cùng Đại Việt sử ký toàn thư đều có ghi chép:「"Vương tử gọi là Quan lang"; 王子曰官郎」, nhưng những thông tin này đều đã bị Hán hóa bởi các triều đại sau, bản chất thật sự của nó không rõ ràng. Kể từ thời nhà Đinh về sau, Việt Nam áp dụng chế độ mô phỏng Trung Hoa, các vị Vua xưng Hoàng đế, dùng lễ pháp Thiên tử đứng đầu các chư hầu, cho nên các con của Vua đều xưng Hoàng tử.

Về phong tước hiệu, đa phần sẽ có ba hạng mức:

  • Đại vương (大王);
  • Thân vương (親王);
  • Hầu (侯) / Thượng vị Hầu (上位侯);

Trong đó các tước Vương chiếm nhiều nhất, phong Hầu cho các Hoàng tử thì đa phần do Hoàng tử xuất thân thấp, hoặc là hậu duệ của Hoàng tử. Các triều đại ban đầu cũng phong Vương cho tất cả các Hoàng tử, như Lê Đại Hành tiến hành phong Vương cho các con trai, riêng các con trai lớn như Hoàng thái tử Lê Long Thâu cùng Lê Long Đĩnh có hiện tượng phong "Đại vương", vị thứ cao hơn Vương tước thông thường. Thời nhà Lý, có hiện tượng nhiều Hoàng hậu, do vậy các "Đích tử" do Hoàng hậu sinh ra đều phong làm "Vương", mà các con do Phi tần sinh ra đều phong tước Hầu, không xuất hiện vị hiệu "Đại vương" như thời Tiền Lê. Nhà Tiền Lê và Lý cũng có tình trạng phong tước Vương cho Trữ quân, như Lý Thái Tông vốn có tước "Khai Thiên vương", Lý Thánh Tông vốn có tước "Khai Hoàng vương" khi chưa lên ngôi. Sang đến nhà Trần, Hoàng đích trưởng tử làm Hoàng thái tử, cư ở Đông cung mà không thụ tước, các Hoàng tử khác thường đều phong Vương, các Hoàng thứ tử có mẹ xuất thân thấp thì phong "Thượng vị Hầu", các con trưởng thừa kế của Hoàng tử Vương lại phong "Vương" như cha, còn lại phong "Thượng vị Hầu" như các Hoàng thứ tử. Ngoài ra, triều Trần còn cho khôi phục lại tước hiệu "Đại vương", nhưng thường dùng cho anh em trai của Hoàng đế, hoặc là truy phong sau khi mất.

Huy hiệu tước phong Vương của các Hoàng tử từ Trần về trước căn bản là mỹ tự, ví dụ như "Khai Thiên vương" rồi "Phụng Càn vương"; cá biệt có Trần Liễu thụ phong thực ấp lấy tên một ấm phong làm hiệu, gọi là "An Sinh vương"; hoặc mang tên Tiểu quốc nhưng chỉ tượng trưng như Đinh Toàn thụ phong "Vệ vương", hai Hoàng tử Thiệu Lý cùng Thiệu Huân của Long Đĩnh được phong "Sở vương" bên Tả và "Hán vương" bên Hữu,... Triều đình Việt Nam các triều Tiền Lê cùng Lý đều áp dụng thực ấp, đa phần là quận, huyện hoặc hương xã gộp lại để gia phong. Các Hoàng tử đều có thực quyền nhất định tại các ấp phong mà mình quản lý, thỉnh thoảng mới cần vào chầu, đến nỗi Thái tử Lê Long Việt giành ngôi trong 8 tháng rồi bị Lê Long Đĩnh giết chết, Lý Thái Tông phải trải qua "Họa Tam vương" vất vả mới lên được bảo tọa, cũng đủ cho thấy thế lực Phiên trấn Thân vương đều mạnh mẽ. Thời nhà Trần dùng chính sách 「"Hương để"; 鄉邸」, tức "Để trạch ở hương", khi triều cận thì về kinh sư, mà không có việc thì lại trở về, như Trần Nhật Duật ở Thanh Hóa, Trần Quốc Khang ở Diễn Châu, Trần Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp, Trần Quốc Chẩn ở Chí Linh,.v.v... So với Lê-Lý thì nhà Trần dùng Hoàng tộc nắm việc trung ương quốc gia nhiều hơn, các Tông thân có tuổi cao, thân cận với Hoàng đế thì ngoài có đất phong còn đảm nhiệm chức Tể thần, đều xưng "Quốc công" và ở lại trong kinh. Các Phiên vương Công hầu họ xa đời Trần đều tự có thế lực riêng như vậy, cho nên khi quân Mông-Nguyên vào đánh thì đều có thể nhanh nhạy huy động quân sĩ, hoặc khi Hồ Quý Ly cướp ngôi, rồi nhà Minh xâm chiếm, các Phiên hầu là Giản Định Đế cùng Trùng Quang Đế cũng có thể duy trì phản kháng chứ không bị diệt hoàn toàn, chính Lê Quý Đôn khi chép đến đây trong Đại Việt thông sử tán dương:「"Thế thì hiệu quả của Phiên vương cũng có thể thấy được"」.

Thời nhà Hậu Lê, anh em thì ít mà con cháu trong họ còn nhỏ, ít quân công, so với công thần vì giúp rập dựng quốc hiển hách, thì trong hoàng tộc nhà Lê khi ấy không có mấy ai thụ phong tước hiệu, càng miễn bàn chia đất đai trấn giữ. Sau thời đại Hồng Đức, triều Lê quy định tỉ mỉ tước hiệu Tông thân, có tình trạng lạm phong vượt hơn cả triều Minh vì hậu duệ chi xa cũng được quy định phong tước. Tuy định phong tước tỉ mỉ hơn, thế nhưng đó là bởi vì triều Lê lại không áp dụng "Thế tập võng thế", mà sớm quy định giáng phong qua các đời. Căn cứ Lịch triều hiến chương loại chí thì chia ra hậu duệ của Hoàng thái tử cùng hậu duệ của Hoàng tử, trong khi tất cả Hoàng tử phong Thân vương, thì con cái của họ cùng con cái của Hoàng thái tử cũng có phong tước xuống. Sau khi qua khỏi phạm vi thì chỉ còn giữ thân phận "Tông thân", nếu không có tiến thủ thi làm quan hoặc có công trạng thì cũng bị xét ngoài hoàng tộc. Có tổng 12 bậc dành cho hậu duệ của Hoàng thái tử và Thân vương, bao gồm:

Triều Lê khác với Lý-Trần, lại quy định lấy tên đất hiện hữu trên lãnh thổ để làm hiệu cho tước phong Vương, không hẳn chỉ là mỹ tự. Theo đó, tước Thân vương lấy 1 chữ từ tên phủ (đất phong) làm hiệu, như phủ Kiến Xương thì lấy hiệu "Kiến vương"; kế thừa Thân vương là Tự Thân vương thì lấy 2 chữ tên huyện làm hiệu, như huyện Hải Lăng thì là "Hải Lăng vương". Từ tước Công trở xuống đều lấy mỹ tự, như "Triệu Khang công", "Vũ Uy hầu", "Ninh Đức bá",.v.v.. Còn từ Tá quốc sứ trở xuống đều là chức danh vinh hàm, không dùng phong hiệu. Điều này nhằm phân biệt với tước phong của công thần, khi toàn bộ phong tước của quan viên; từ tước Quốc công, tước Quận công đến tước Nam; đều lấy tên đất làm hiệu. Trong đó hai tước Công chỉ lấy một chữ, là "X Quốc công" hoặc "Y Quận công"...

Thời Lê Thái Tông, các Hoàng tử còn nhỏ lại ít, nên còn chia đất và lấy tên đất làm phong hiệu, song vẫn không có dấu hiệu chia đất mà đều ở tại kinh sư, đến nỗi Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân tự mình làm cung biến. Từ đời Lê Thánh Tông, Tông thân Vương hầu đều được quy định tước hiệu, ban cho phủ để trạch viên làm nơi sống, đất ăn lộc đều là ruộng, gọi là "Ruộng thế nghiệp" để truyền thừa vĩnh viễn, ngoài ra còn có "Đất thế nghiệp" cùng các bãi dâu, bãi đầm, ruộng tế, hộ mắm hộ muối cùng đất ăn lộc theo hộ được gọi là "Thực phong". Tuy quy định rõ ràng hậu hĩnh đãi độ, nhưng Hoàng tử triều Lê không có hiện tượng tập tước vĩnh viễn, tuy con cháu đều được quy định cụ thể song lại là giảm dần theo thời, trừ phi có quân công thì mới duy trì. Thế nhưng các Hoàng tử triều Lê đối với việc can thiệp vào ấp dân sinh mà mình được phong cũng không có quyền, cũng không được trau dồi qua đảm nhiệm chức vụ, nên ["Tông thân không tài cán, ít tham dự chính sự"] cũng là một thực trạng của Tông thân Vương hầu triều Lê. Đây cũng là vì sự kiện Lê Nghi Dân khi xưa, không chỉ giảm thực quyền của Phiên vương mà còn hạn chế họ góp sức cho triều đình. Tình trạng này của Hoàng tử Phiên vương thời Lê khiến Lê Quý Đôn khi bình luận chuyện này trong "Đế hệ truyện" của Đại Việt thông sử cũng than vãn:「"Nếu có tài nghệ như Hưng Đạo, đức lượng của Chương Túc thì cũng không được tự vào yết kiến, huống hồ còn hy vọng gì để lập công phò giúp nhà Vua được?! Cho nên cái thế che chắn của Vương hầu làm sao có nữa"」.

Giữa triều Lê có nhà Mạc soán vị, phong tước của triều Mạc đại để đều như đời Lê, song các Hoàng tử đều đảm đương chính sự, không vì tị hiềm mà cản trở Tông thân giúp đỡ Hoàng đế, ví dụ có Khiêm vương Mạc Kính Điển. Sau khi Lê triều đến thời Trung hưng, Chúa Trịnh nắm quyền mà Chúa Nguyễn cát cứ, một ép Lê Đế phong tước Vương thế tập, một nhận thụ phong tước Quốc công; con của chúa Trịnh đều xưng Vương tử, mà các con của chúa Nguyễn không đề cập chính thức. Khi luận phong tước, các Vương tử cùng Vương tôn họ Trịnh đều án theo tước hiệu quý tộc mà phong, như sắc lệnh vào năm Hoằng Định thứ 15 (1614) triều Lê Kính Tông như sau:

Thời nhà Nguyễn, tổng cộng có 21 tôn tước cho Hoàng tử Tông thân, thế nhưng chủ trương của triều đình nhà Nguyễn lại quản lý vị hiệu rất chặt, còn chặt chẽ hơn cả chế độ triều Thanh, cho nên tình trạng tước phong của triều Nguyễn hết sức gắt gao và bản thân triều đại này cũng có phương thức thừa kế tước hiệu rất phức tạp. Về cơ bản, tước phong cho Hoàng tử triều Nguyễn chia làm hai hạng:

  • Hoàng tử Vương: gồm những Hoàng tử mang tước Thân vương (親王) cùng Quận vương (郡王);
  • Hoàng tử Công: tức Hoàng tử mang tước Công, cơ bản là ba tước đứng đầu là Thân công (親公), Quốc công (國公) và Quận công (郡公);
  • Trong các tước hiệu chính thức, ở dưới tước Quận công thực tế còn hai tước Công nữa là Huyện công (縣公) cùng Hương công (鄉公), sách Đại Nam hội điển có ghi vốn "Hương công" là mức phong tối thiểu cho Hoàng tử, hoặc Hoàng bá thúc cùng Hoàng huynh đệ của Hoàng đế.

Các vị Hoàng tử chỉ được phong tước khi đủ 15 tuổi, tuy nhiên không được phong vào hai hàng tước Vương ngay như triều Lê, mà thường chỉ đến "Thân công", tất cả đều xét theo kết quả học hạnh của từng người, đây gọi là Khảo phong (考封). Tên hiệu của tước phong đều lấy 2 chữ từ tên tỉnh, phủ hoặc huyện của thực ấp được chọn, riêng tước Quốc công chỉ lấy 1 chữ đầu hoặc cuối, cũng không giữ chữ "Thân" như triều Thanh. Lấy ví dụ xét Hoàng tử A có ấp phong là tên của địa phương XY, ban đầu phong tước Quận công sẽ đầy đủ là "XY Quận công", khi lên Quốc công sẽ là "X Quốc công" hoặc "Y Quốc công", đến Thân công thì lại trả về "XY công".

Triều Nguyễn cũng không áp dụng thế tước hiển nhiên như triều Lê, chỉ có 1 hậu duệ của Hoàng tử là có thể kế thừa tước hiệu, hơn nữa lại còn giáng tước, nếu muốn nhiều người con được phong tước hơn thì bản thân người con ấy phải có phấn đấu, hơn nữa thành quả khác nhau cũng chia ra kết quả tước phong có thể được phong cũng khác nhau, chứ không phải "Chỉ vì là con của Hoàng tử nên gia tước X" như triều Lê cùng các triều đại trước áp dụng. Cách thức thừa kế tước hiệu của Hoàng tử triều Nguyễn được chia ra làm hai phương thức:

  • Ân phong (恩封): đem một tước vị khác cho con trai của Hoàng tử, nhưng tước phải thấp hơn cha, ví dụ như Hoàng tử phong "đất A tước Công" thì con là "đất B tước Hầu", trường hợp này thường là do cha có công lao nên đặc ban.
  • Tập phong (袭封): lấy nguyên tên cũ của Hoàng tử mà giáng tước thấp hơn, như Hoàng tử là "đất B tước Công" thì người con là "đất B tước Hầu", nếu có công đáng kể thì có thể giữ nguyên tước hay thậm chí cao hơn, song dưới triều Nguyễn thì đã không xảy ra. Đây là phương thức thừa tước cơ bản của các Hoàng tử Công, thông thường chỉ có 1 người con được ban.

Điểm đặc biệt là chế độ "Ân phong" lẫn "Tập phong" triều Nguyễn, chính là có thể thực hiện khi Hoàng tử còn sống chứ không nhất thiết Hoàng tử qua đời thì con cái mới kế thừa tước vị, đặc biệt "Tập phong" lại vốn là lấy nguyên tước của cha giáng phong. Ví dụ người con cả là Hồng Tuấn cùng con thứ 7 là Hồng Hạo của Thọ Xuân vương Miên Định, cả hai đều "Ân phong" cùng "Tập phong" ngay cả khi Thọ Xuân vương còn sống. Những người con còn lại không theo lệ thừa kế trên, đều phải tham gia "Khảo phong" như các Hoàng thúc Hoàng tử khác, thế nhưng tỉ lệ những người này đạt tước gần như là không có. Cho nên quy tắc thừa tước triều Nguyễn thậm chí còn khó khăn hơn cả triều Thanh. Về thực ấp thì cũng như triều Lê, triều đình nhà Nguyễn cũng không cho Hoàng tử Tông thân quyền quản hạt mà cấp lương bổng cùng đất ruộng để ăn lộc, phủ đệ Hoàng tử Tông thân cũng đều tập trung lại các khu vực quanh kinh thành. Vì xét phong tước vị rất khắt khe, mà Hoàng tử triều Nguyễn lại có rất nhiều, cho nên có rất nhiều Hoàng tử sau khi Hoàng đế qua đời, trở thành "Hoàng đệ" hay "Hoàng thúc" của triều tiếp theo mới được ban phong, thậm chí có rất nhiều người sau khi qua đời mới được truy tặng, hoặc không có tước phong mà chỉ có thụy hiệu. Về sau, nếu vị Hoàng tử Công ấy có công trạng, như giúp rập triều chính thì mới d

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|phải|Tranh vẽ các tiểu hoàng tử của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng tử** (chữ Hán: 皇子; tiếng Anh: _Imperial Prince_), mang nghĩa _"Con trai của Hoàng thất"_, là danh từ chỉ những người con trai của
**Hoàng tử Ramesuan** (; chết. Tháng 11 năm 1564) là một hoàng tử Xiêm và là chỉ huy quân đội trong thời kỳ Ayutthaya vào thế kỷ 16. Ông là con trai của Hoàng tử
"**Hoàng tử Ếch hay là Heinrich Sắt**" () là một tác phẩm đồng thoại do anh em Grimm san hành năm 1812. ## Lịch sử Đoản thiên **Hoàng tử Ếch hay là Heinrich Sắt** được
**Vĩnh Thành** (; 21 tháng 2 năm 1739 – 5 tháng 4 năm 1777), Ái Tân Giác La, là Hoàng tử thứ 4 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. ## Cuộc đời Hoàng tử
**Hoàng tử Omar bin Al Faisal của Jordan** (sinh ngày 22 tháng 10 năm 1993) là con thứ hai và con trai duy nhất của Hoàng tử Feisal bin Al Hussein và công nương Alia
**Hoàng tử Ba Tư** (tiếng Anh: **Prince of Persia**, thường được viết tắt là _PoP_) là trò chơi hành động trên máy tính dành cho một người chơi. Nhiệm vụ của người chơi là điều
; sinh ngày 11 tháng 9 năm 1966 với tên khai sinh là phu nhân của Hoàng tự Thu Tiểu cung Thân vương Fumihito, con trai thứ của Thượng hoàng Akihito và Thượng hoàng hậu
**Ramesses** là một hoàng tử thuộc Vương triều thứ 19 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Ông là anh ruột của pharaon Merneptah và là em khác mẹ với thái tử Amun-her-khepeshef. ## Gia
**Amenmose** (_"Con trai của Amun"_) là một hoàng tử Ai Cập cổ đại của Vương triều thứ 18. Ông là con trai cả đồng thời là người thừa kế của pharaoh Thutmosis I. Amenmose đã
_Đối với pharaon cùng tên, xem Rahotep_
nhỏ|193x193px|Bức tượng nổi tiếng của Rahotep và Nofret **Rahotep** là một hoàng tử Ai Cập cổ đại thuộc Vương triều thứ 4. Tên của ông nghĩa là "_thần
**Thái tử** (chữ Hán: 太子), đầy đủ là **Hoàng thái tử** (皇太子) hay **Vương thái tử** (王太子), là danh vị dành cho Trữ quân kế thừa cho một vị Vua trong các quốc gia thuộc
**Friedrich III của Đức** ( _Prinz von Preußen_; 18 tháng 10 năm 1831 – 15 tháng 6 năm 1888) là Hoàng đế Đức và là Vua của Phổ trong khoảng ba tháng (99 ngày) từ
**Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II** của Phổ và Đức, (27 tháng 1 năm 1859 – 4 tháng 6 năm 1941) là vị Hoàng đế (_Kaiser_) cuối cùng của Đế quốc Đức, đồng
**_Hoàng tử bé_** (tên tiếng Pháp: _Le Petit Prince_, ), được xuất bản năm 1943, là tiểu thuyết nổi tiếng nhất của nhà văn và phi công Pháp Antoine de Saint-Exupéry. Cuốn tiểu thuyết cũng
**Hoàng Tử Thao** (, sinh ngày 2 tháng 5 năm 1993) được biết đến với nghệ danh **TAO** hay **Z.TAO** là nam ca sĩ, diễn viên, rapper, diễn viên võ thuật người Trung Quốc, cựu
**Lý Hoằng** (chữ Hán: 李弘; 652 - 25 tháng 5, năm 675), còn gọi là **Đường Nghĩa Tông** (唐義宗), hay **Hiếu Kính Hoàng đế** (孝敬皇帝), là Hoàng thái tử thứ 2 dưới triều Đường Cao
là vị Thiên hoàng thứ 38 của Nhật Bản theo danh sách thiên hoàng truyền thống. Thời đại của ông bắt đầu từ năm 668 đến khi ông qua đời vào năm 672, nhưng trên
là Thiên hoàng thứ 40 của Nhật Bản theo thứ tự thừa kế ngôi vua truyền thống Nhật Bản. Triều đại của Tenmu kéo dài từ 673 cho đến khi ông qua đời năm 686.
**Vĩnh Hoàng** (chữ Hán: 永璜; ; 5 tháng 7 năm 1728 - 21 tháng 4 năm 1750), Ái Tân Giác La, là Hoàng trưởng tử của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Thân phận Hoàng
**_Harry Potter và Hoàng tử lai_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Harry Potter and the Half-Blood Prince_**) là một bộ phim giả tưởng năm 2009 của đạo diễn David Yates và được phát hành bởi Warner
**Hoằng Trú** (chữ Hán: 弘晝; ; 5 tháng 1 năm 1712 - 2 tháng 9 năm 1770), Ái Tân Giác La, là Hoàng tử thứ 5 tính trong số những Hoàng tử trưởng thành của
**Arthur của Liên hiệp Anh, Công tước của Connaught và Strathearn** (Arthur William Patrick Albert; 01 tháng 5 năm 1850 - 16 tháng 1 năm 1942), là ngươi con thứ 7 và con trai thứ
**Hoàng tử Kusakabe** (662 - 689) là Hoàng thái tử, đồng thời là Thiên hoàng Nhật Bản trên danh nghĩa từ năm 681 - 689. Ông là con trai thứ hai của Thiên hoàng Tenmu.
**Hoằng Thời** (chữ Hán: 弘時; 18 tháng 3, năm 1704 - 20 tháng 9, năm 1727), Ái Tân Giác La, là vị Hoàng tử thứ ba tính theo số đếm chính thức của Thanh Thế
**Wilhelm, Thái tử Đức và Phổ** (tiếng Đức: _Wilhelm, Kronprinz von Deutschland und Preußen_; tiếng Anh: _Wilhelm, Crown Prince of Germany and Prussia_) (6 tháng 5 năm 1882 - 20 tháng 7 năm 1951) là
Le Petit Prince - Những Điều Hoàng Tử Bé Nói Với Tôi ------------ NHỮNG ĐIỀU HOÀNG TỬ BÉ NÓI VỚI TÔI Những điều Hoàng tử bé nói với tôi là một ấn phẩm của Bloom
Hoàng Tử Bé Vương Quốc Ulala Vương quốc Ulala là vương quốc thần kỳ, thần dân nơi đây muốn gì được nấy vì họ đều có phép thuật. Nhưng hoàng tử bé của vương quốc
**Tự Đức** ( 22 tháng 9 năm 1829 – 19 tháng 7 năm 1883) tên thật là **Nguyễn Phúc Hồng Nhậm** (阮福洪任), khi lên ngôi đổi thành **Nguyễn Phúc Thì** (阮福時), là vị hoàng đế
**Hoàng Tử Argai** (**Argai: The Prophecy**) là một bộ phim hoạt hình Pháp dài 26 tập do Jean-César Suchorski đạo diễn và cốt truyện được viết bởi Sébastien Dorsey. Phim từng được HTV Việt Nam
**Hoàng tử Ba Tư: Dòng cát thời gian** (tựa gốc tiếng Anh: **_Prince of Persia: The Sands of Time_**) là một bộ phim hành động giả tưởng của Mỹ năm 2010 do Mike Newell đạo
**Hoằng Chiêm** (chữ Hán: 弘曕; 9 tháng 5 năm 1733 - 27 tháng 4 năm 1765), Ái Tân Giác La , hiệu **Kinh Xa đạo nhân** (经畬道人), **Ích Thọ chủ nhân** (益寿主人) và **Tự Đắc
HERORANGE - Son dưỡng đổi màu "Hoàng tử bé" trong suốt Công Chúa Bé lá vàng Gấp gấp gấp, son dưỡng "Hoàng Tử Bé" Công Chúa Bé đã có rồi đây, sản phẩm mà rất
**Nguyễn Phúc Miên Hoang** (chữ Hán: 阮福綿𡧽; 20 tháng 5 năm 1836 – 15 tháng 7 năm 1888), tước phong **Kiến Phong Quận công** (建豐郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
Hoàng Tử Bé Bìa Mềm Kể về một hoàng tử nhỏ cô đơn từ tiểu tinh cầu xa xôi viếng thăm rồi lại lìa xa Trái Đất, Hoàng Tử Bé được xem là một trong
Hoàng Tử Bé Được đánh giá là một trong những cuốn sách hay nhất, thơ mộng nhất mọi thời đại, Hoàng Tử Bé kể về một phi công gặp nạn ở sa mạc Sahara vì
Hoàng Tử Bé Bìa Mềm Kể về một hoàng tử nhỏ cô đơn từ tiểu tinh cầu xa xôi viếng thăm rồi lại lìa xa Trái Đất, Hoàng Tử Bé được xem là một trong
**_Harry Potter và Hoàng tử lai_** (tiếng Anh: _Harry Potter and the Half-Blood Prince_) là phần 6 trong bộ tiểu thuyết Harry Potter của tác giả J.K. Rowling, được xuất bản cùng lúc trên toàn
thumb|_Temptation of St. Anthony_ bởi [[Martin Schongauer]] **Bảy hoàng tử của Địa ngục** hay **Thất Hoàng tử của bóng tối** (tiếng Anh: _Seven Princes of Hell_ hay _Princes of the Darkness_) là cụm từ dành
Illustrated Classics - Chuyện Kể Về Các Chàng Hoàng Tử Và Các Nàng Công Chúa Trong thế giới cổ tích muôn màu, có rất nhiều câu chuyện về các chàng hoàng tử và các nàng
Illustrated Classics - Chuyện Kể Về Các Chàng Hoàng Tử Và Các Nàng Công Chúa Trong thế giới cổ tích muôn màu, có rất nhiều câu chuyện về các chàng hoàng tử và các nàng
Illustrated Classics - Chuyện Kể Về Các Chàng Hoàng Tử Và Các Nàng Công Chúa Trong thế giới cổ tích muôn màu, có rất nhiều câu chuyện về các chàng hoàng tử và các nàng
**Hoàng Tự** (chữ Hán: 黃自, Bính âm: Huáng Zì, sinh 23 tháng 3 năm 1904 - mất 9 tháng 5 năm 1938) là một nhạc sĩ Trung Quốc nổi tiếng. Ông còn được gọi với
**_The Chronicles of Narnia: Prince Caspian_** là bộ phim sử thi tưởng tượng hoành tráng năm 2008 của đạo diễn Andrew Adamson. Đây là phần thứ 2 trong loạt phim _The Chronicles of Narnia_ và
**Lý Tư** (chữ Hán: 李滋, 844–863) là hoàng tử của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, con trai thứ tư của hoàng đế Đường Tuyên Tông, mẹ là Ngô chiêu nghi (吴昭仪).
**Chu Từ Lãng** (; 1629 – 1644), là Hoàng thái tử cuối cùng của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Chu Từ Lãng là con trai trưởng của Minh Tư Tông
Hoàng Tử Bé Đinh Tị Được đánh giá là một trong những cuốn sách hay nhất, thơ mộng nhất mọi thời đại,Hoàng Tử Békể về một phi công gặp nạn ở sa mạc Sahara vì
Được đánh giá là một trong những cuốn sách hay nhất, thơ mộng nhất mọi thời đại, Hoàng Tử Bé kể về một phi công gặp nạn ở sa mạc Sahara vì động cơ máy
**Đô la đảo Hoàng tử Edward** là một loại tiền tệ đã được sử dụng ở đảo Hoàng tử Edward vào giữa những năm 1871 và 1873. Nó thay thế cho pound với tỷ giá
Mask AFU 2 bước - hoàng tử bé —- Dung tích: 0.8ml + 22ml HSD: 2022 (cập nhật ngày 21/5/2020) —- Lại thêm 1 mask phải cho vào danh sách dùng thường xuyên Em này
Mask AFU 2 bước - hoàng tử bé Dung tích: 0.8ml + 22ml HSD: 2022 (cập nhật ngày 21/5/2020) Lại thêm 1 mask phải cho vào danh sách dùng thường xuyên Em này đắp cũng