✨Tự Đức

Tự Đức

Tự Đức ( 22 tháng 9 năm 1829 – 19 tháng 7 năm 1883) tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (阮福洪任), khi lên ngôi đổi thành Nguyễn Phúc Thì (阮福時), là vị hoàng đế thứ tư của triều Nguyễn. Ông là vị vua có thời gian trị vì lâu dài nhất của nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1847 đến 1883, ông được truy tôn miếu hiệu là Nguyễn Dực Tông (阮翼宗), thụy hiệu là Thể Thiên Anh Hoàng Đế. Trong suốt thời gian trị vì của mình ông chỉ sử dụng duy nhất một niên hiệu là Tự Đức (嗣德) nên thường được gọi với tên này.

Triều đại của ông đánh dấu sự suy yếu của nhà Nguyễn và nhiều sự kiện xấu với vận mệnh Đại Nam. Quân đội nhà Nguyễn ngày càng suy yếu, kinh tế trì trệ, trong khi nhiều cuộc nội loạn diễn ra trong cả nước. Năm 1858, liên quân Pháp-Tây Ban Nha nổ súng tấn công Đà Nẵng. Trước tình hình người Pháp xâm lấn trong triều đình đặt ra vấn đề cải cách, liên tiếp các năm từ 1864 đến 1881, các quan là Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Trường Tộ, Đinh Văn Điền, Nguyễn Hiệp, Lê Định liên tiếp dâng sớ xin nhà vua cho cải cách toàn diện đất nước nhưng các đình thần lại không thống nhất, nhà vua cũng không đưa ra được quyết sách dứt khoát. Mãi đến năm 1878, triều đình mới bắt đầu cử người thực hiện các bước đầu tiên trong quá trình cải cách là cho học tiếng nước ngoài, nhưng đình thần vẫn bất đồng và nảy sinh hai phe chủ trương cải cách và bảo thủ, rồi đến khi nước Đại Nam dần rơi vào tay quân Pháp cũng nảy sinh hai phe chủ chiến và chủ hòa. Chính vua Tự Đức cũng phải tự phê về triều đại mình như sau: "Thanh dung thịnh nhi võ bị suy, nghị luận đa nhi thành công thiểu" (聲容盛而武備衰, 議論多而成功少; nghĩa là: Bề ngoài hào nhoáng nhưng quân sự suy yếu, bàn luận nhiều mà thành công ít)

Triều đình nhà Nguyễn ngày càng bất lực trước sự tấn công của Pháp, chỉ mong cắt đất cầu hòa. Cuối cùng, tới năm 1883, Tự Đức qua đời, ngay sau đó Pháp tấn công vào kinh đô và ép buộc nhà Nguyễn phải công nhận sự "bảo hộ" của Pháp trên toàn Đại Nam. Nhà Nguyễn sau thời Tự Đức chỉ còn là danh nghĩa, vua Nguyễn chỉ còn là bù nhìn, thực tế thì đã mất nước vào tay Pháp.

Thân thế

Nguyễn Phúc Hồng Nhậm sinh ngày 25 tháng 8 năm Kỷ Sửu (tức 22 tháng 9 năm 1829) tại Huế, là con thứ nhưng là đích tử của vua Thiệu Trị và Phạm Thị Hằng (bà Từ Dụ). Khi còn nhỏ Hồng Nhậm còn có tên khác là Nguyễn Phúc Thì. Ngoài ra, theo truyền thống hoàng tộc Nguyễn Phúc có từ thời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, hoàng tử sinh ra để dễ nuôi sẽ được đặt thêm tên có chữ Mệ, vì vậy thuở nhỏ ông còn được gọi là Mệ Tríu

Vì anh trai của ông, Nguyễn Phúc Hồng Bảo, là một người ham chơi, mê cờ bạc, không chịu học hành nên vua Thiệu Trị trước lúc qua đời đã để di chiếu truyền ngôi cho ông. Bấy giờ ông mới 19 tuổi, nhưng học hành đã thông thái. Đến tháng 10 năm 1847 ông chính thức lên ngôi hoàng đế ở điện Thái Hòa, đặt niên hiệu là Tự Đức, bắt đầu từ năm sau là 1848. Khi Tự Đức lên cầm quyền, triều đình vẫn cai trị tuân theo phong cách Nho giáo.

Cai trị

Tự Đức lên ngôi vào tháng 10 năm Đinh Mùi 1847 theo di chiếu của vua cha Thiệu Trị. Bấy giờ ông mới có 19 tuổi.

Quan lại dưới thời Tự Đức

Phần lớn triều thần thời Tự Đức là những người hấp thụ nền giáo dục Nho giáo nên không cập nhật được những tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại. Hơn nữa Đại Nam đang trong tình trạng đóng cửa nên triều đình nhà Nguyễn có rất ít thông tin về thế giới bên ngoài. Họ chỉ nhìn nhận tình hình thế giới bằng con mắt của hàng trăm năm trước khi phương Tây chưa công nghiệp hoá trong khi phương Tây đã bỏ xa nước Đại Nam về công nghệ, kỹ thuật. Một số người ở Nghệ An đã xuất ngoại nên nắm bắt được tình hình thế giới đương thời mà điển hình là ông Nguyễn Trường Tộ. Khi về nước, Nguyễn Trường Tộ liền thỉnh cầu Hoàng đế gấp rút cải cách kẻo mất nước. Tiếc thay, quần thần ngăn cản nên ông cũng từ chối ban hành cải tổ. nhưng từ khi liên quân Pháp - Tây Ban Nha chiếm các tỉnh Nam Kỳ rồi lại phải bồi tiền binh phí mất 4 triệu nguyên, triều đình mới tìm cách lấy tiền, bèn phải cho quan Hầu Lợi Trịnh đánh thuế cao trong việc buôn bán thuốc nha phiến từ Quảng Bình đến Bắc Kỳ, tuy không nhiều. Sử sách chép rằng mỗi năm nhà vua thu được có 302.200 quan tiền thuế nha phiến.

Một trong những lý do khiến cho tình hình quân đội sa sút là vấn đề tài chính. Các cuộc chiến thời Minh Mạng đã làm ngân khố nhà Nguyễn suy kiệt. Vũ khí và trang thiết bị làm mới gần như không có. Bộ binh được trang bị rất lạc hậu: 50 người mới có 5 khẩu súng, mỗi năm chỉ tập bắn 1 lần 6 viên đạn. Vũ khí được bảo dưỡng cũng kém. Về thủy binh, không có tàu hơi nước nào được đóng mới, thủy quân thậm chí không đủ khả năng để bảo vệ bờ biển chống hải tặc. Việc giảng dạy binh pháp không còn chú trọng tới sách vở phương Tây nữa mà quay trở lại với Binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo triều Trần. Đời sống binh lính không được quan tâm thỏa đáng, lương thực lại còn bị ăn bớt. Do đó tinh thần chiến đấu của binh sĩ không được cao. Năm 1850, có tàu của Hoa Kỳ vào cửa Đà Nẵng, có quốc thư xin thông thương nhưng nhà vua làm ngơ không thèm tiếp thư.

Tổ chức hành chính

Những năm đầu đời Tự Đức (1853), triều đình nhà Nguyễn đã bàn luận việc cải cách hành chính, có ý kiến xin hợp nhất các tỉnh như: Lạng Sơn với Cao Bằng, Vĩnh Long với Định Tường và Gia Định, Sơn Tây với Hưng Hóa, An Giang với Hà Tiên, ... tuy nhiên những việc này không được thi hành.

Cấm đạo Công giáo

Sau khi lên ngôi vào năm 1848 thì vua Tự Đức đã có dụ cấm đạo Công giáo,

Một trong những tuyên cáo của Tự Đức có ghi:

Ba năm sau đó, năm 1851, sự khoan dung này dành cho các linh mục bản xứ đột nhiên bị bãi bỏ. Từ đó dụ cấm đạo càng khắt khe hơn trước.

Về việc này, Trần Trọng Kim có lời bình:

Theo hòa ước với Pháp năm 1862, nhà Nguyễn bỏ việc cấm đạo Công giáo. Năm 1864, để phản ứng lại âm mưu giết hại người Công giáo của giới Văn Thân ở Huế, Tự Đức hạ dụ:

Phan Phát Huồn nhận định rằng dù sắc dụ trên có điều sai lạc nhưng Tự Đức đã công nhận sự trung thành và bị vu oan của người Công giáo. Năm 1869, Tự Đức ra hai sắc dụ bảo vệ người Công giáo: cho phép người Công giáo được tập hợp thành làng, có lý trưởng Công giáo, và cấm người lương nhục mạ và quấy rầy lễ nghi của người Công giáo. Tuy vậy đối với nhiều người, Tự Đức không còn đủ uy tín, và phong trào Văn Thân chống đối ông bắt đầu nổi lên tàn sát người Công giáo.

Ngoại giao

Trung Quốc Khi hay tin vua Đạo Quang qua đời, Tự Đức cho nghỉ chầu 5 ngày. Đây là việc trước nay chưa từng có tiền lệ. Tự Đức còn xin nhà Thanh cho sứ thần sang cúng điếu nhưng bị từ chối.

Năm 1848, Tự Đức năm thứ 1, nước Xiêm làm lễ phong cho Ang Duong làm vua nước Cao Miên. Ang Duong sau đó có cho thuyền đi nước ngoài và có mang theo các đạo trưởng Tây dương để chiêu dụ dân chúng. Năm 1851, Ang Duong cho sứ sang xin 3 việc: trả lại kinh Phật; trả lại các xứ Ô Môn, Thất Sơn, Ba Xuyên, Kiên Giang; mượn đường sông Vĩnh Tế để ra biển thông thương. Vua Tự Đức bác bỏ. Ang Duong sau đó mấy tháng lại xin cho dời lùi các đồn bảo Bình Di và Khánh An thì sẽ không nhắc chuyện đòi Thất Sơn, Ba Xuyên nữa. Vua Tự Đức cũng bác bỏ.

==== Pháp

Các cuộc nổi loạn

Tự Đức là một vị vua chăm chỉ về việc trị dân, ngay từ năm Canh Tuất (1850) vua sai Nguyễn Tri Phương làm Kinh lược Đại sứ 6 tỉnh Nam Kỳ, Phan Thanh Giản làm Kinh lược Đại sứ Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa và Bình Thuận, Nguyễn Đăng Giai làm Kinh lược Đại sứ Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa. Các đại thần này đi khám xét công việc các quan lại và sự làm ăn trong dân gian, có điều gì hay dở phải dâng sớ tâu về Kinh đô cho vua biết.

Dù vậy, tại Bắc Kỳ có 40 cuộc nổi loạn dưới triều Tự Đức. Ở trong nước thì thỉnh thoảng lại có tai biến như nước lụt, đê vỡ,... Ở Hưng Yên, đê Văn Giang vỡ 18 năm liền, cả huyện Văn Giang trở thành bãi cát bỏ hoang, nhân dân đói khổ, nghề nghiệp không có, bởi thế nên người đi làm giặc ngày càng nhiều. Vua Tự Đức sai Nguyễn Đăng Giai ra kinh lược ở Bắc kỳ. Giai đã dùng cách khôn khéo dụ được quân nổi loạn về hàng. Bởi vậy trong hạt lại được yên một độ. Nhưng đến năm 1854, Nguyễn Đăng Giai qua đời, Bắc kỳ lại có loạn., đến cuối năm lại có cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Cự, nên tục gọi là giặc Châu Chấu.

Sau khi Cao Bá Quát chết, Lê Duy Cự còn quấy rối đến mấy năm sau mới dẹp yên được.

Lý do Hồng Bảo bị phế truất, sử nhà Nguyễn chép lời trăng trối lúc lâm chung của Thiệu Trị nói với các đại thần Trương Đăng Quế, Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương và Lâm Duy Tiếp:

Dù vậy, Hồng Bảo không tin đây là ý của vua cha mà là do Trương Đăng Quế bày mưu, nên quyết chí báo thù người gây ra. và tìm cách giành lại ngôi báu.

Quân Chày Vôi

Vào tình hình trước nguy cơ bị thực dân Pháp đô hộ. Đoàn Hữu Trưng, là một người có học thức, tin rằng vua Tự Đức bất tài và nghĩ rằng vua Hồng Bảo nếu được lên ngôi thì sẽ giải quyết được tình hình nguy cấp như hiện giờ. Trưng đứng về phía chủ chiến chống Pháp thay vì hòa. Ông còn phản Tự Đức vì Tự Đức không chịu cải cách đất nước. Do các người dân tham gia cuộc nổi dậy này đa số dùng chày vôi nên họ còn được gọi là quân chày vôi.

Giặc Khách ở Bắc kỳ

Giữa thế kỷ 19, vùng Tây Bắc Đại Nam ngày càng mất ổn định. Sau khi cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc bị nhà Thanh đàn áp, nhiều nhóm tàn quân của Thái Bình Thiên quốc tản mác và bỏ xuống phía nam, hoạt động ở vùng núi miền bắc Đại Nam theo diện hoạt động thổ phỉ. Tình hình biên giới hai nước Đại Nam và Đại Thanh càng phức tạp, nhiều giặc giã, nhưng quân đội triều đình nhà Nguyễn lại không đủ sức đánh dẹp được, nên buộc phải đồng ý cho quân Nhà Thanh vào miền Bắc để bình định vùng biên giới.

Năm 1849, quân phỉ nước Thanh hơn nghìn người liên tiếp tràn vào cướp phá Quảng Yên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hải Dương. Năm 1850, dân đói khổ và thổ phỉ từ nước Thanh tiếp tục tràn sang cướp phá các khu vực ở biên giới. Năm 1851, dân đói và thổ phỉ nước Thanh vẫn tràn sang biên giới, thủ lĩnh thổ phỉ là Hoàng Văn dẫn hơn 7.000 quân tập kích vào Lạng Sơn. Nhà Nguyễn sau đó bắt giết được các đầu mục thổ phỉ là Vương Tam Tài, Hoàng Thịnh Ký.

Năm 1868, cuộc nổi dậy của Ngô Côn bị dẹp tan, số tàn quân dạt sang Đại Nam và trở thành những đám phỉ thi nhau cướp bóc dọc biên giới ở vùng Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang... trong đó mạnh nhất là quân Cờ Vàng của Hoàng Sùng Anh. Nhằm truy quét tiêu diệt triệt để toán phỉ này, từ năm 1869, nhà Thanh đã nhiều lần phái tướng Phùng Tử Tài đưa quân sang Đại Nam phối hợp với quân nhà Nguyễn và quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc đánh quân Cờ Vàng.

Năm 1868, Ngô Côn cho quân đánh chiếm thành Cao Bằng, nhà Nguyễn phải cử quan tổng đốc Phạm Chí Hương viết thư sang nhà Thanh xin cho quân sang tiễu trừ. Triều đình Mãn Thanh đã cho Phó tướng Tạ Kế Quý đem quân sang phối hợp với Ông Ích Khiêm và quan đề đốc Nguyễn Viết Thành đánh đuổi nhưng không được. Đến tháng 7 năm 1868, quân tướng nhà Thanh và Triều Nguyễn lại cùng nhau phối hợp đánh quân Cờ Vàng do Ngô Côn cầm đầu ở Thất Khê nhưng thất bại; trong trận này tham tán Nguyễn Lệ và Phó Đô đốc Nguyễn Viết Thành bị tử trận, còn Tham tán Phạm Chí Hương bị bắt.

Trước tình hình đó đã buộc triều đình Huế phải nhờ cậy đến Đề đốc Quảng Tây là Phùng Tử Tài mang 16 doanh quân (mỗi doanh có từ 200 đến 300 quân) sang phối hợp với quân triều đình Huế đánh đuổi. Nhà Nguyễn lại cử Vũ Trọng Bình làm Hà Ninh Tổng đốc kết hợp với Phùng Tử Tài mang 31 quân thứ (gần 1 vạn quân) đánh Ngô Côn, khôi phục được tỉnh Cao Bằng vào tháng 5 năm 1869.

Khi Ngô Côn vây hãm quân triều đình ở phủ Phú Bình thuộc tỉnh Thái Nguyên, Tán tương quân thứ Tôn Thất Thuyết, quyền đề đốc Nguyễn Văn Nhuận chia đường tiến đánh, lấy lại được phủ thành. Đó cũng là lúc, để cùng phối hợp, Vũ Trọng Bình và Nguyễn Văn Tường ở Lạng Sơn liền bàn với Phùng Tử Tài tiến quân về Thái Nguyên, Bắc Ninh, Sơn Tây, Tuyên Quang để "cùng đánh một loạt cứ điểm sào huyệt của bọn phỉ". Phùng Tử Tài phàn nàn về vấn đề lương thực và đạn dược tiếp vận chậm. Để làm vừa lòng ông, Nguyễn Bá Nghi, Đào Trí liền bị vua Tự Đức cách chức.

Vua Tự Đức cũng gửi dụ ra mặt trận ngợi khen Vũ Trọng Bình, Nguyễn Văn Tường giỏi về ứng đối (với tướng nhà Thanh), cho chuyên sung việc hộ dẫn, theo bàn công việc mưu kế đánh dẹp, vỗ về.

Năm 1858, Trung tướng Pháp là Charles Rigault de Genouilly đem tàu Pháp và tàu Tây Ban Nha gồm 14 chiếc vào cửa Đà Nẵng bắn phá rồi hạ thành An Hải và Tôn Hải.

Dù chỉ đồn trú ở Đà Nẵng, các binh sĩ ngoại quốc đã bị khuất phục với các con số đáng sợ vì mắc bệnh dịch tả, kiết lỵ và các chứng bệnh nhiệt đới khác, và một cuộc tiến quân trên nội địa bằng đường bộ hoàn toàn là điều không thực hiện được. Dòng sông Hương chảy từ Huế ra biển, nhưng chỉ có những tàu chạy ở tầm nước nông mới lưu thông được, và kém may mắn thay một số tàu chiến loại nhỏ được sản xuất đặc biệt tại Pháp cho chiến dịch tại Đại Nam lại bị phái sang Hồ Lake Garda để chống lại người Áo trong một cuộc chiến nổ ra tại miền Bắc nước Ý. Hiển nhiên việc chỉ lảng vảng ở Đà Nẵng sớm bị chứng tỏ là không đạt được một mục đích gì cả. Nhưng họ còn có thể đi đâu được nữa. Trung tướng Rigault de Genouilly đổi ý sang đánh Gia Định. Đầu năm 1859, Rigault de Genouilly dẫn quân Pháp và Tây Ban Nha vào cửa Cần Giờ, đánh thành Gia Định. Chỉ trong 2 ngày thì thành vỡ, quan Hộ đốc Võ Duy Ninh tự vận. Xong Trung tướng Rigault de Genouilly lại đem quân trở ra Đà Nẵng đánh đồn Phúc Ninh, quân của Nguyễn Tri Phương thua phải rút về giữ đồn Nại Hiên và Liên Trì.

Rigault de Genouilly bệnh phải về nước, Thiếu tướng Page sang thay. Thiếu tướng Page đề nghị việc giảng hòa, chỉ xin được tự do giảng đạo Công giáo và được buôn bán với Đại Nam nhưng triều đình Huế không đồng ý. Đến năm 1862, quân Pháp chiếm Biên Hòa và Vĩnh Long. Triều đình Huế phái Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào Nam giảng hòa với Pháp ngày 9 tháng 5 năm Nhâm Tuất, 1862. Trong bản hòa ước gồm 12 khoản có những khoản như sau: Hình chụp quan đại thần [[Phan Thanh Giản năm 1863 tại Paris, Pháp.]]

  • Đại Nam phải để cho giáo sĩ Công giáo người Pháp và người Tây Ban Nha được tự do giảng đạo và để dân gian được tự do theo đạo.
  • Đại Nam phải nhượng đứt cho nước Pháp các tỉnh Biên Hòa, Gia Định và Định Tường và phải để cho chiến thuyền của Pháp ra vào tự do ở sông Mê Kông.

Vua Tự Đức bèn nhường ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp và phái Phan Thanh Giản vào trấn giữ ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ còn lại. Năm 1867, Phó Đô đốc La Grandière kéo quân đánh Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Phan Thanh Giản biết thế chống không nổi nên bảo các quan nộp thành trì cho bớt đổ máu rồi uống thuốc độc tự vẫn. Toàn đất Nam Kỳ thuộc về Pháp.

Năm Quý Dậu 1873, Thiếu tướng Dupré sai Trung úy Hải quân Francis Garnier đem quân tấn công thành Hà Nội. Chỉ một giờ thì thành vỡ, tướng Nguyễn Tri Phương bị thương nặng. Bị Pháp bắt, ông không cho băng bó và nhịn ăn đến chết. Trong 20 ngày, Đại Nam mất bốn tỉnh là Hà Nội, Nam Định, Ninh Bình, Hải Dương.

Khi ấy có Lưu Vĩnh Phúc là đầu đảng của quân Cờ Đen về hàng triều đình Huế, vua Tự Đức phong cho chức Đề đốc để phụ đánh quân Pháp. Lưu Vĩnh Phúc đem quân ra đánh thành Hà Nội. Francis Garnier đem quân ra nghênh thì bị phục kích chết ở cầu Giấy. Paris biết chuyện nên triệu Thiếu tướng Dupré về Pháp. Dupré tìm cách đỡ tội, sai Đại úy Hải quân Paul-Louis-Félix Philastre ra Hà Nội để trả lại thành và bốn tỉnh bị chiếm. Hai bên ký hòa ước năm Giáp Tuất 1874, trong đó triều đình Huế công nhận cả miền Nam là thuộc về Pháp và Pháp cũng bồi thường lại cho Đại Nam bằng tàu bè và súng ống.

Năm 1882, Thống đốc Nam Kỳ Charles Le Myre de Vilers gởi thư cho triều đình Huế nói rằng vua ngu tối, bất lực, đất nước loạn ly, Pháp phải trấn an miền Bắc để bảo vệ quyền lợi của dân Pháp. Một mặt Le Myre de Vilers gửi Đại tá Hải quân Henri Rivière ra Hà Nội, đưa tối hậu thư cho quan Tổng đốc Hoàng Diệu bắt phải hàng. Đúng 8 giờ sáng thì quân Pháp tấn công, 11 giờ thành đổ, Hoàng Diệu treo cổ tự tử.

Khâm sai Pháp ở Huế là Rheinart sang thương thuyết, trong đó đòi nước Đại Nam phải nhận nước Pháp bảo hộ và nhường thành thị Hà Nội cho Pháp. Triều đình cho người sang cầu cứu Trung Quốc. Triều đình nhà Thanh được dịp bèn gởi quân qua đóng hết các tỉnh Bắc Ninh và Sơn Tây. Quân Pháp và quân Trung Quốc giao tranh. Đại tá Henri Rivière bị quân Cờ Đen giết tại Cầu Giấy.

Sau cái chết của vua Tự Đức, các vị vua ít tuổi lần lượt được đưa lên Dục Đức, Hiệp Hòa; ngày 20 tháng 8 năm 1883 Pháp tấn công vào cửa biển Thuận An, một hiệp ước được ký kết là Hiệp ước Quý Mùi 1883 với nội dung là xác nhận quyền bảo hộ của người Pháp lên Trung Kỳ và Bắc Kỳ.

phải|nhỏ|Nhà bia trong lăng Tự Đức.

Qua đời

Giữa khi đó, ngày 16 tháng 6 năm Quý Mùi, tức ngày 19 tháng 7 năm 1883, vua Tự Đức qua đời, hưởng thọ 54 tuổi. Bài vị nhà vua được đưa vào thờ trong Thế Miếu; miếu hiệu là Dực Tông (翼宗) và thụy hiệu là Anh Hoàng đế (英皇帝). Lăng ông gọi là Khiêm Lăng, tại làng Dương Xuân Thượng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.

Một điều rất đáng chú ý ở Khiêm Lăng là tấm bia ở Bi đình nặng trên 20 tấn do Tự Đức tự dựng cho mình. Thông thường, con phải dựng văn bia cho cha nhưng vì Tự Đức không có con ruột nên ông tự dựng. Trong văn bia này Tự Đức tự trách mình về việc để mất nước vì "ngu mà mong yên ổn, mờ tối không lo phòng bị từ khi việc chưa phát, tôi hay tướng giỏi cũng đã rơi rụng quá nửa, không ai nhắc nhở lời dạy của vua cha về việc đề phòng mặt biển đến giúp ta tránh khỏi chỗ lỗi lầm". Ông trần thuật "Ai là người cũng gìn giữ bờ cõi ta, vỗ yên nhân dân ta? Bất đắc dĩ phải đánh dẹp, nhưng càng đánh dẹp càng loạn, mỏi mệt". Ông cũng trăn trở tính chuyện giữ nước, nhưng những quan đại thần được sai đi bàn định điều ước lại "không hiểu vì lý do gì lại dễ dàng lập thành hòa nghị. Bỗng chốc đem cả nhân dân cùng đất đai của các triều nhọc nhằn gây dựng cho giặc hết...". Tự Đức nhận trách nhiệm "không sáng suốt trong việc biết người, ấy là của ta; dùng người không đúng chỗ, cũng là tội của ta; hàng trăm việc không làm được; đều là tội của ta cả...". Ông "nuốt nước mắt, đành chịu tội với tôn miếu và nhân dân" và hối hận vì đã dùng người không sáng suốt, không xứng đáng, tình hình trong nước lại rối ren, tin chiến trường tới tấp, việc quan bộn bề, vua thêm gầy ốm, mang bệnh, không chăm lo chính sự được. Ông hổ thẹn nói rằng "Ta thực sự một mai chết đi thì tự thẹn trí khôn không bằng con cáo".

Đánh giá

phải|Trích đoạn [[cải lương Tự Đức dâng roi - thể hiện tấm lòng có hiếu của ông với Từ Dụ - màn trình diễn cải lương trên chợ nổi tại lễ hội ẩm thực thế giới 2010.]]

Việc cai trị

Tự Đức được đánh giá là một vị vua có tư cách tốt, tính tình hiền lành. Ông chăm chỉ xem xét việc triều chính và không hề trễ nải. Theo Việt Nam sử lược, ông thường chít khăn vàng và mặc áo vàng, khi có tuổi thì ông hay mặc quần vàng và đi giày hàng vàng do nội vụ đóng, không ưa dùng trang sức, cũng không cho các bà cung phi đeo đồ nữ trang, chỉ cốt lấy sạch sẽ làm đẹp. Ông thường dậy sớm thiết triều từ 6 giờ sáng, chăm chỉ phê duyệt tấu chương, là một vị vua cần cù chăm chỉ.

Nhưng Tự Đức cai trị đúng vào một thời đại khó khăn. Trong nước nhiễu loạn, bên ngoài thì thực dân Pháp xâm lấn. Dù chăm chỉ nhưng Tự Đức không đủ tài năng để đưa ra các cải cách nhằm xoay chuyển cục diện đất nước. Trong việc chiến sự với Pháp, ông tỏ ra nhu nhược. Khi quân triều đình mới thất bại vài trận, ông đã nhanh chóng cắt đất Nam Kỳ lục tỉnh để cầu hòa, dù nghĩa quân ở Nam bộ vẫn đang chiến đấu và đã thu được một số thắng lợi.

Trong triều đình, vua lấy các quan làm tai mắt. Nhưng các quan lại phò tá vua đều là người học hành theo lối khoa cử thời cũ và không am hiểu thời đại mới, nên mọi việc đều hỏng cả. Sử gia Trần Trọng Kim đánh giá: "Dù rằng vua có trách nhiệm vua, quan có trách nhiệm quan, dẫu thế nào vua Dực Tông cũng không tránh khỏi cái lỗi với nước nhà, nhưng mà xét cho xác lý, thì cái lỗi của đình thần lúc bấy giờ cũng không nhỏ vậy".:

Nhìn chung, sự thất bại của Tự Đức rất giống như vua Đạo Quang nhà Thanh, người cai trị cùng thời với ông. Cả hai đều là những vị vua cần cù chăm chỉ, đề cao tiết kiệm nhưng lại quá giáo điều, thiếu thực tế, không đủ quyết đoán, mưu lược, và hiểu biết về tình hình thế giới nên không thể cứu vãn đất nước đang chìm trong nội ưu ngoại loạn. Tính cách và khả năng của họ chỉ thích hợp cai trị vào thời bình (với tình hình chính trị ít biến động).

Lúc bấy giờ, Ông Ích Khiêm là một trong số những quan lại không hài lòng về việc quân đội triều đình yếu kém, phải dựa vào quân Cờ đen (một nhóm vũ trang từ Trung Quốc kéo sang) để chống Pháp, đồng thời cũng chê trách các võ tướng bất lực, lúc hữu sự phải nhờ vào người Trung Quốc để đánh giặc. Ông có làm bài thơ trách

Trong bài thơ Lịch sử nước ta viết năm 1941, Hồ Chí Minh nhận xét về thời Tự Đức:

Nhà cách mạng đầu thế kỉ XX Phan Bội Châu cũng quy trách nhiệm cho vua Tự Đức và Thái hậu Từ Dụ đã làm mất nước, kết tội họ là giặc

Văn học

Tự Đức là ông vua hay chữ nhất triều Nguyễn,:

:Hạc bất năng ngôn :Khuyển vô thức tự :Hạc nhập dân viên :Khuyển trung vu chủ :Điểu, Thú đấu tranh :U minh hà dự :Khuyển phệ hạc tử :Tôi quy vu chủ :Hạc trắc khuyển tử :Tường hà luật xử?

Dịch thơ

:Hạc chẳng biết nói :Chó không biết chữ :Hạc vào vườn dân :Chó trung với chủ :Chim, thú đánh nhau :Tối sáng không rõ :Chó cắn chết hạc :Tội quy cho chủ :Hạc mổ chết chó :Luật xử thế nào?

Xem xong bản tấu, vua Tự Đức cấp tốc hạ lệnh hủy bỏ bản án và không bàn đến nữa.

Tác phẩm

  • Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca (嗣德聖製字學解義歌), gọi tắt Tự học giải nghĩa ca, 13 quyển, do vua Tự Đức biên soạn, được Tu thư cục thuộc Sử quán triều Nguyễn khắc in năm Thành Thái thứ 10 (1898).
  • Ngự chế Việt sử tổng vịnh tập (御製越史總詠集), tập thơ vịnh về các nhân vật lịch sử.

Trong văn hóa đại chúng

Sách tham khảo

  • Bang giao Đại Việt, triều Nguyễn, Nhà Xuất bản VHTT 2005.
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Wilhelm, Thái tử Đức và Phổ** (tiếng Đức: _Wilhelm, Kronprinz von Deutschland und Preußen_; tiếng Anh: _Wilhelm, Crown Prince of Germany and Prussia_) (6 tháng 5 năm 1882 - 20 tháng 7 năm 1951) là
**Tự Đức** ( 22 tháng 9 năm 1829 – 19 tháng 7 năm 1883) tên thật là **Nguyễn Phúc Hồng Nhậm** (阮福洪任), khi lên ngôi đổi thành **Nguyễn Phúc Thì** (阮福時), là vị hoàng đế
**Từ Đức Soái** (sinh ngày 13 tháng 7 năm 1987) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp Trung Quốc lớn lên tại Hồng Kông, hiện đang thi đấu cho Kitchee ở Hồng Kông. Anh
**Ngã tư Đức Hòa** là một di tích lịch sử tọa lạc tại giao lộ giữa đường tỉnh 824 và đường tỉnh 825 thuộc khu phố 3, thị trấn Đức Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh
**Từ Đức Thanh** (tiếng Trung giản thể: 徐德清, bính âm Hán ngữ: _Xú Dé Qīng_, sinh tháng 7 năm 1963, người Hán) là tướng lĩnh Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Ông là Thượng
**Friedrich III của Đức** ( _Prinz von Preußen_; 18 tháng 10 năm 1831 – 15 tháng 6 năm 1888) là Hoàng đế Đức và là Vua của Phổ trong khoảng ba tháng (99 ngày) từ
**Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II** của Phổ và Đức, (27 tháng 1 năm 1859 – 4 tháng 6 năm 1941) là vị Hoàng đế (_Kaiser_) cuối cùng của Đế quốc Đức, đồng
**Lăng Tự Đức** (chữ Hán: 嗣德陵) là một quần thể Di tích công trình kiến trúc, trong đó có nơi chôn cất Tự Đức, tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân
**Tam tòng, tứ đức** là những quy định đối với phụ nữ phương Đông thời xưa, xuất phát từ các quan niệm của Nho giáo. Trong đó, **Tam tòng** là các nghĩa vụ của phụ
"Chúng Tôi Cam Kết Hàng Đúng Chất Lượng Như Mô Tả Và Hình Ảnh"Phấn Tươi Đức - Phấn Tươi Esence Mousse Soft touch - Che Khuyết Điểm Lỗ Chân Lông, Tàn Nhang - Giữ Màu
**Chỉ dụ chống Pháp năm 1860 của hoàng đế Tự Đức** là bản chỉ dụ được vua Tự Đức ban tới toàn thể quân dân nhằm chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp
Truyện Kiều - Bản Nôm Tự Đức Thứ 19 Nhà xuất bản Nhà Xuất Bản Văn Học. Công ty phát hành NXB Văn Học. Tác giả Nguyên Du. Kích thước 16 x 24 x 1.2
nhỏ|phải|Bồ câu nữ tu Đức **Bồ câu nữ tu Đức** (tiếng Đức: _Deutsches Nönnchen_) là một giống bồ câu kiểng được nuôi bởi các nhà nuôi chim bồ câu của Đức, những nhà nhân giống
- Dầu gội DEGO Pharma Dành cho da đầu vảy gàu mảng trắng ngứa da đầu . Được chuyển giao công thức và nguyên liệu từ ĐỨC với thành phần: Chiết xuất thiên nhiên từ
Sữa dưỡng thể Balea Q10 Body Lotion, nhập khẩu từ Đức, dung tích 400ml* Sữa dưỡng thể Balea Q10 Body Lotion, nhập khẩu từ Đức, dung tích 400ml với chiết xuất từ trái Acai Berry
Làm đẹp trong thời đại 4.0, thực sự tiện lợi vô cùng!Chúng ta không cần thao tác quá nhiều mà vẫn đảm bảo da mặt được làm sạch chuyên sâu chỉ bằng một "em" máy
Nước tẩy trang mắt Balea nhập khẩu từ Đức, dung tích 100mlNước tẩy trang mắt Balea nhập khẩu từ Đức, dung tích 100ml gồm 2 lớp gồm 1 lớp dầu và 1 lớp dưỡng, nhẹ
Thiết bị theo dõi sức khỏe không thể thiếu trong mỗi gia đình – NHIỆT KẾ ĐIỆN TỬ BEURER FT90---------------------------------Giúp bạn đo nhiệt độ an toàn và nhanh chóng chỉ trong vòng 1-2 giâyCÁC TÍNH
Thương hiệu : ALGEMARIN Xuất xứ: Đức Sữa tắm Cá Ngựa chính hãng Algemarin Perfume nhập khẩu từ Đức có tinh chất làm mịn da, chống lão hóa cho da, mùi thơm nhẹ nhàng quyến
Hướng dẫn chọn size Size 00 dành cho bé cân nặng dưới 15 kg Size 0 Phù hợp cho bé từ 2 đến 6 tuổi Cân nặng tương ứng 15 - 30kg Size 1 Phù
thumb|Thuyền Tử Đức Thành **Thuyền Tử Đức Thành** (zh. _chuánzǐ déchéng_ 船字德誠, ja. _sensu tokujō_), tk. 8-9, là Thiền sư Trung Quốc, sư đạt yếu chỉ nơi Thiền sưDược Sơn Duy Nghiễm. Sư chỉ có
Dầu chống rạn da hiệu Bi-Oil dung tích 60ml nhập từ ĐứcDầu chống rạn da hiệu Bi-Oil dung tích 60ml nhập từ Đức Chứa thành phần đặc biệt PurCellin Oil giúp nuôi dưỡng hiệu quả
**Stêphanô Lý Tư Đức** (1927–2019, tiếng Trung:**李思德**, tiếng Anh:_Stephen Li Si-de_) là một giám mục người Trung Quốc của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách chức vị Giám mục chính tòa Giáo
✅Fairywill là một thương hiệu lâu đời về sản phẩm chăm sóc sức khỏe răng miệng có trụ sở ở thành phố Essen, Đức- Đạt tiêu chuẩn ISO 13485 về trang thiết bị y tế
✅Fairywill là một thương hiệu lâu đời về sản phẩm chăm sóc sức khỏe răng miệng có trụ sở ở thành phố Essen, Đức- Đạt tiêu chuẩn ISO 13485 về trang thiết bị y tế
✅Fairywill là một thương hiệu lâu đời về sản phẩm chăm sóc sức khỏe răng miệng có trụ sở ở thành phố Essen, Đức- Đạt tiêu chuẩn ISO 13485 về trang thiết bị y tế
Kem dưỡng da chân Balea Urea nhập khẩu từ Đức, dung tích 100mlKem dưỡng da chân Balea Urea nhập khẩu từ ĐứcKết cấu kem dễ tán và được hấp thụ nhanh chóng. Ngoài ra, công
DẦU GỘI ĐẦU ALPECIN SẢN XUẤT TỪ ĐỨC 200ml / 250mlALPECIN là thương hiệu của các sản phẩm được sản xuất từ Đức. Và đặc biệt hơn là thương hiệu dành cho nam giới với
DẦU GỘI ĐẦU ALPECIN SẢN XUẤT TỪ ĐỨC 200ml / 250mlALPECIN là thương hiệu của các sản phẩm được sản xuất từ Đức. Và đặc biệt hơn là thương hiệu dành cho nam giới với
DẦU GỘI ĐẦU ALPECIN SẢN XUẤT TỪ ĐỨC 200ml / 250mlALPECIN là thương hiệu của các sản phẩm được sản xuất từ Đức. Và đặc biệt hơn là thương hiệu dành cho nam giới với
Sáp vuốt tóc Colonnalà một dòng sản phẩm được sản xuất theo công nghệ từ Đức khá được ưa chuộng tại thị trường Việt Nam.Thích hợp cho các kiểu tóc cần sự tự nhiên vìkhông
Lăn khử mùi hiệu Balea nhập khẩu từ Đức, dung tích 50mlĐặc tính - Lăn khử mùi hiệu Balea nhập khẩu từ Đức, dung tích 50ml với công thức độc đáo giúp ngăn mùi hiệu
DẦU GỘI ĐẦU ALPECIN SẢN XUẤT TỪ ĐỨC 200ml / 250mlALPECIN là thương hiệu của các sản phẩm được sản xuất từ Đức. Và đặc biệt hơn là thương hiệu dành cho nam giới với
DẦU GỘI ĐẦU ALPECIN SẢN XUẤT TỪ ĐỨC 200ml / 250mlALPECIN là thương hiệu của các sản phẩm được sản xuất từ Đức. Và đặc biệt hơn là thương hiệu dành cho nam giới với
Chính sách tôn giáo dưới triều Nguyễn, đặc biệt dưới thời Tự Đức là giai đoạn để lại những dấu ấn sâu sắc, có vị trí quan trọng trong chính sách đối với tôn giáo
**Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca** (chữ Hán: 嗣德聖製字學解義歌) là một cuốn sách tiếng Việt dạy chữ Hán thông qua chữ Nôm. Sách được Hoàng đế triều Nguyễn, Tự Đức (1848 —
Sữa tắm nha đam Elina Med Pflege-Dusche Aloe Vera với hoạt chất Glycol Distearate có tác dụng điều hòa và làm mềm da hiệu quả, làm mờ khuyết điểm cho da kết hợp tinh chất
Giấy lau kính Visiomax 52 miếng (nhập từ ĐỨC) giúp làm sạch, loại bỏ bụi bẩn và chống bám bụi quay trở lại.• Là loại crepe mềm, ướt, làm sạch triệt để và nhẹ nhàng.•
Nước súc miệng kháng khuẩn Dontodent, dung tích 500ml nhập từ ĐứcNước súc miệng kháng khuẩn Dontodent, dung tích 500ml nhập từ Đức với công thức bảo vệ gấp 6 lần, làm sạch khoang miệng
Sữa Tắm nước hoa Etienne Aigner Đỏ nhập khẩu từ Đức, dung tích 250mlSữa Tắm nước hoa Etienne Aigner Đỏ nhập khẩu từ Đức, dung tích 250ml* Cách sử dụng: - Lấy một lượng vừa
Kem đánh răng cho răng nhạy cảm Sensitve hiệu Dontodent nhập khẩu từ Đức, dung tích 125mlKem đánh răng cho răng nhạy cảm Sensitve hiệu Dontodent nhập khẩu từ Đức, dung tích 125mlChứa thành phần
Dầu tắm gội cho nam 2 in 1 Elina Med for men shower gel hair & body fresh với hương thơm tươi mát mang lại cho bạn những giây phút thư giãn thật dễ chịu
**Phương Tử Dực** (1917 — 17 tháng 3 năm 2015) là Thiếu tướng Không quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (_PLAAF_). Ông từng giữ chức Phó Tư lệnh Không quân Quân khu Bắc
Nước Tẩy Trang Garnier Cho Da Khô và Da Nhạy Cảm nhập khẩu từ Đức, dung tích 400mlNước tẩy trang GarnierSản phẩm không chứa cồn, không muối nhôm, không paraben, không nước hoa.Phù hợp cho
Kem đánh trắng răng Perl Weiss Raucher nhập khẩu từ Đức, dung tích 50mlKem đánh trắng răngSử dụng đều đặn việc đánh răng 3 lần 1 ngày với kem đánh răng Perl Weiss, bạn sẽ
Thương hiệu : ALGEMARINXuất xứ: ĐứcSữa tắm Cá Ngựa chính hãng Algemarin Perfume nhập khẩu từ Đức có tinh chất làm mịn da, chống lão hóa cho da, mùi thơm nhẹ nhàng quyến rũ, lưu
Thương hiệu : ALGEMARINXuất xứ: ĐứcSữa tắm Cá Ngựa chính hãng Algemarin Perfume nhập khẩu từ Đức có tinh chất làm mịn da, chống lão hóa cho da, mùi thơm nhẹ nhàng quyến rũ, lưu
Nước tẩy Trang Garnier Cho Da hỗn hợp & Da Nhạy Cảm, nhập khẩu từ Đức, dung tích 400mlNước tẩy trang GarnierVới công nghệ micelle giúp tẩy trang nhanh chóng, không gây cảm giác khô
Thương hiệu : ALGEMARINXuất xứ: ĐứcSữa tắm Cá Ngựa chính hãng Algemarin Perfume nhập khẩu từ Đức có tinh chất làm mịn da, chống lão hóa cho da, mùi thơm nhẹ nhàng quyến rũ, lưu
Kem Đánh Răng Clear Fresh hiệu Dontodent nhập khẩu Đức, dung tích 125mlKem đánh răng Clear Fresh hiệu Dontodent nhập khẩu từ Đức, dung tích 125mlDễ dàng loại bỏ triệt để mảng bám răng. Hương