✨Friedrich III, Hoàng đế Đức

Friedrich III, Hoàng đế Đức

Friedrich III của Đức ( Prinz von Preußen; 18 tháng 10 năm 1831 – 15 tháng 6 năm 1888) là Hoàng đế Đức và là Vua của Phổ trong khoảng ba tháng (99 ngày) từ tháng 3 đến tháng 6 năm 1888, . Được biết đến với tên gọi không chính thức là "Fritz", ông là con trai duy nhất của Hoàng đế Wilhelm I và được nuôi dưỡng theo truyền thống quân sự của gia đình. Mặc dù được tôn vinh khi còn trẻ vì khả năng lãnh đạo và thành công của mình trong các cuộc chiến tranh Schleswig lần hai, Áo-Phổ và Pháp-Phổ, ông vẫn thể hiện lòng căm thù chiến tranh và được bạn bè cũng như kẻ thù ca ngợi vì hành động nhân đạo của mình. Sau khi nước Đức thống nhất vào năm 1871, cha của ông, khi đó là Vua Phổ, trở thành Hoàng đế Đức. Khi Wilhelm qua đời ở tuổi chín mươi vào ngày 9 tháng 3 năm 1888, ngai vàng được trao cho Friedrich, người sau đó đã là Thái tử Đức trong mười bảy năm và Thái tử của Phổ trong hai mươi bảy năm. Friedrich qua đời ở tuổi 56 vì bị ung thư thanh quản, sau các đợt điều trị y tế không thành công.

Friedrich kết hôn với Vương nữ Victoria, con gái lớn của Victoria của Anh. Cặp đôi rất xứng đôi vừa lứa; tư tưởng tự do chung của họ đã khiến họ tìm kiếm sự đại diện lớn hơn cho những người bình dân trong chính phủ. Friedrich, bất chấp nền tảng gia đình quân phiệt bảo thủ, đã phát triển khuynh hướng tự do từ mối quan hệ của ông với Anh và việc theo học tại Đại học Bonn. Với tư cách là Thái tử, ông thường phản đối Thủ tướng Đức bảo thủ Otto von Bismarck, đặc biệt khi lên tiếng phản đối chính sách thống nhất nước Đức thông qua vũ lực của Bismarck, và kêu gọi kiềm chế quyền lực của Thủ tướng. Những người theo chủ nghĩa tự do ở cả Đức và Anh đều hy vọng rằng với tư cách là hoàng đế, Friedrich sẽ tiến tới tự do hóa Đế chế Đức.

Friedrich và Victoria là những người rất ngưỡng mộ Vương phu Albrecht, chồng của Victoria của Anh. Họ lên kế hoạch cai trị với tư cách là phụ tá, giống như Albert và Victoria của Anh, cải tổ những gì họ coi là sai sót trong cơ quan hành pháp mà Bismarck tạo ra. Văn phòng Thủ tướng, chịu trách nhiệm trước Đức hoàng, được thay thế bằng nội các kiểu Anh, với các bộ trưởng chịu trách nhiệm trước Reichstag. Chính sách của chính phủ sẽ dựa trên sự đồng thuận của nội các. Friedrich "đã mô tả Hiến pháp Đế quốc là sự hỗn loạn được tạo ra một cách khéo léo."

Tuy nhiên, căn bệnh của Friedrich đã ngăn cản ông thực hiện các chính sách và biện pháp hiệu quả để đạt được điều này, và những hành động của ông có thể thực hiện sau đó đã bị con trai và người kế vị, Wilhelm II, lãng quên. Thời điểm Friedrich qua đời và thời gian trị vì của ông là những chủ đề quan trọng giữa các nhà sử học. Sự ra đi sớm của ông được coi là một bước ngoặt tiềm tàng trong lịch sử nước Đức; và liệu ông có làm cho Đế quốc trở nên tự do hơn nếu ông sống lâu hơn hay không vẫn còn đang thảo luận.

Tiểu sử

Đầu đời và giáo dục

thumb|Friedrich Wilhelm, khoảng năm 1841 Friedrich Wilhelm chào đời tại Tân Hoàng cung ở Potsdam, Vương quốc Phổ, vào ngày 18 tháng 10 năm 1831. Ông là người thuộc dòng dõi nhà Hohenzollern, một trong những gia tộc danh tiếng nhất ở châu Âu và bấy giờ là triều đại cai trị Phổ. Cha của Friedrich là Vương tử Wilhelm – con trai thứ của Vua Friedrich Wilhelm III – đã được nuôi dưỡng theo truyền thống quân sự của Vương triều Hohenzollern và trở thành một người có kỷ luật chặt chẽ. Wilhelm từng yêu người em họ của mình là Elisa Radziwill, con gái của một nhà quý tộc Ba Lan với một Vương nữ Phổ, nhưng do không phải là con vua cháu chúa, Elisa không đủ đẳng cấp xã hội để kết hôn với một Vương tử Phổ. Do vậy, vua cha Friedrich Wilhelm III buộc Wilhelm phải từ bỏ mối quan hệ của mình với Elisa vào tháng 6 năm 1826 và tìm kiếm một cuộc hôn nhân thích hợp hơn Ba năm sau (1829), Wilhelm thành hôn với Công nữ Augusta xứ Sachsen-Weimar-Eisenach, người đã được giáo dưỡng trong môi trương trí thức và nghệ thuật của Weimar, nơi mà người dân được quyền tham gia nhiều hơn vào các vấn đề chính trị và quyền lực của lãnh chúa bị hạn chế bằng hiến pháp; Augusta trở nên được biết đến trên khắp châu Âu vì khuynh hướng ủng hộ chủ nghĩa tự do của bà. Cuộc hôn nhân của Wilhelm và Augusta trông bề ngoài có vẻ êm ấm, song không mấy hạnh phúc do những khác biệt giữa hai người. Đời sống sinh trưởng trong một gia đình như vậy đã để lại cho Friedrich những ký ức về một tuổi thơ đơn độc. Ông có một người em gái là Luise (sau này là Đại Công nương xứ Baden), nhỏ hơn ông tám tuổi và rất thân thiết với ông. Ngoài ra, Friedrich cũng có mối quan hệ rất tốt đẹp với bác mình là Vua Friedrich Wilhelm IV, người được mệnh danh là "nhà lãng mạn trên ngai vàng".

Friedrich khôn lớn trong một bối cảnh chính trị rối ren. Đó là giai đoạn mà khái niệm về chủ nghĩa tự do ở Đức, vốn tiến triển vào thập niêm 1840, nhận được sự ủng hộ rộng rãi và nồng nhiệt. Những người tự do chủ nghĩa yêu cầu thống nhất nước Đức và ủng hộ nền quân chủ lập hiến. Họ yêu cầu ban hành hiến pháp nhằm đảm bảo quyền được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật và quyền tư hữu tài sản, đồng thời bảo vệ các quyền cơ bản của công dân. Nhìn chung, trào lưu tự do chủ nghĩa mong muốn chính phủ được cai quản bởi đại diện của quần chúng. Năm Friedrich 17 tuổi, làn sóng tư tưởng dân tộc và tự do chủ nghĩa này đã châm ngòi cho hàng loạt cuộc đấu tranh cách mạng trên khắp các bang Đức và những nơi khác ở châu Âu. Tại Đức, những người cách mạng đề ra mục tiêu bảo đảm các quyền tự do, tỷ như tự do hội họp và tự do báo chí và để thành lập một nghị viện và hiến pháp Đức. Mặc dù các cuộc đấu tranh cuối cùng đã không thể mang lại một thay đổi lâu dài nào, trào lưu tự do chủ nghĩa vẫn là một lực lượng đầy sức ảnh hưởng trong nền chính trị Đức suốt thời đại mà Friedrich sinh sống.

Mặc dù vương tộc Hohenzollern nhấn mạnh việc đào tạo quân sự cho con em mình như một giá trị truyền thống, Augusta nhất quyết đòi hỏi con bà phải được hưởng thêm một nền học vấn kinh điển. Và, cũng như các vương tử khác của nhà Hohenzollern, Friedrich được tập làm quen với truyền thống quân sự của vương triều ngay từ thời niên thiếu. Friedrich chỉ mới 10 tuổi khi ông được sung vào Trung đoàn Bộ binh Cận vệ số 1 với cấp hàm Thiếu úy và được trao tặng Huân chương Đại bàng Đen. Theo đà trưởng thành của ông, vị vương tử được dự trù sẽ tham gia tích cực vào các vấn đề quân sự. Nhưng lên 18 tuổi, ông đã tuyệt giao với truyền thống gia đình và nhập học Đại học Bonn, tại đây ông học về lịch sử, luật pháp, chính quyền và chính sách công cộng. Trong thời gian ở Bonn (1850 – 1852), ông được học với các giảng viên Ernst Moritz Arndt và Friedrich Christoph Dahlmann.

Hôn nhân và gia đình

right|thumb|upright|[[Victoria, Vương nữ Vương thất|Victoria—trưởng nữ của Nữ vương Victoria của Anh—người mà Friedrich đã kết hôn vào năm 1858]] Các hoàng tộc phương Tây vào thế kỷ 19 thường sắp đặt các cuộc hôn nhân của con em mình để củng cố liên minh và duy trì mối quan hệ máu mủ giữa các quốc gia của họ. Ngay từ năm 1851, Nữ vương Victoria của Anh và phu quân là Vương tế Albert đã bài trí các kế hoạch đã gả con gái đầu lòng của họ là Trưởng nữ là Vương nữ Victoria cho Friedrich. Vương triều Anh thời bấy giờ chủ yếu mang dòng máu Đức; trong khi Victoria của Anh chỉ cò chút nguồn gốc Anh, chồng bà không mang một dòng máu Anh nào. Vợ chồng Nữ vương Anh mong muốn duy trì quan hệ máu mủ của mình với Đức, và Vương phu Albert còn hy vọng rằng cuộc kết hôn sẽ dẫn đến quá trình tự do hóa và hiện đại hóa nước Phổ. Vua Leopold I của Bỉ, chú của nữ vương và hoàng tế Anh, cũng tán thành với kế hoạch hôn nhân này; vua Bỉ từ lâu đã nuôi dưỡng ý tưởng của Nam tước Stockmar về một liên minh thông qua hôn nhân giữa Anh và Phổ. Cha của Friedrich, Wilhelm – khi đó là Thái đệ của vua Phổ – không hề hứng thú với hoạch định này, thay vì đó ông hy vọng nhận một Đại Công nương Nga làm con dâu của mình. Tuy nhiên, Vương phi Augusta hết mực ủng hộ dự định hôn nhân này vì bà cho rằng nó sẽ thúc đẩy sự thắt chặt mối quan hệ với Anh. và họ thành hôn vào ngày 25 tháng 1 năm 1858 tại nhà nguyện cung thánh James, Luân Đôn. Nhân dịp hôn nhân của ông, Friedrich được thăng cấp hàm Thiếu tướng trong quân đội Phổ. Dù đây là một cuộc kết hôn được dàn xếp, đôi tân hôn đồng tâm hợp ý với nhau ngay từ đầu và họ chung sống hạnh phúc; Victoria cũng từng được hưởng một nền giáo dục theo khuynh hướng tự do và tán đồng với quan điểm của chồng mình. Bà là người đóng vai trò chi phối trong quan hệ vợ chồng. trong khi con trưởng của Friedrich và Victoria là Wilhelm bị teo một tay: đây có lẽ là do vị vương tử bị sinh ngôi ngược – một kiểu đẻ khó khăn và nguy hiểm, song cũng có thể xuất phát từ một trường hợp nhẹ của chứng liệt não. Wilhelm, người lên ngôi hoàng đế sau khi Friedrich qua đời, đã cố gắng che đậy cánh tay bị teo của mình với một ít thành công. Wilhelm phản đối tư tưởng tự do của cha mình và coi tình cảm sâu nặng của mẹ mình đối với nước Anh là chống Phổ và không yêu nước. Sự khác biệt về hệ tư tưởng giữa Wilhelm với song thân đã gây cho quan hệ giữa họ luôn căng thẳng trong suốt cuộc đời họ. Victoria từng đã nhìn nhận của mình là "một người Phổ toàn diện", trong khi Wilhelm luôn cay đắng và thất vọng trước sự lệ thuộc của Friedrich vào vợ mình. Vị hoàng tử từng than phiền với Herbert von Bismarck, con trai của vị Thủ tướng đương nhiệm, vào năm 1886: Cũng như các nhà tự do chủ nghĩa khác của Phổ, Friedrich hy vọng rằng cha mình sẽ khởi đầu một "Thời kỳ Mới" của các chính sách tự do. Nhưng bên cạnh đó, Wilhelm chú trọng bảo vệ thần quyền của nhà vua. Khi vua Wilhelm I lên ngôi vào ngày 2 tháng 1 năm 1861, Friedrich, giờ đây đã 29 tuổi, được phong làm Thái tử và sẽ giữ ngôi vị này trong suốt 27 năm tới. Trong bối cảnh mâu thuẫn tiếp diễn giữa Quốc vương với những người tự do, Thái tử đã bày tỏ sự hoàn toàn tán thành của mình đối với "chính sách tự do cần thiết về quan hệ đối nội và đối ngoại".

Mân thuẫn lên đến đỉnh điểm vào tháng 9 năm 1862 khi Quốc hội từ chối tài trợ cho các kế hoạch tái cấu trúc quân đội của Quốc vương. Trước tình hình đó, Wilhelm chủ trương thoái vị và truyền ngôi cho Friedrich. Thậm chí nhà vua đã soạn chiếu thoái vị, song hành động này đã gây cho Friedrich hoảng hốt. Bên cạnh tư tưởng chính trị của mình, Friedrich, người vẫn đủ trung thành với chế độ quân chủ quân sự Phổ, không muốn được thừa kế nó trong khi nó đang bị khủng hoảng. Trái ngược với vợ mình, ông khuyên vua cha nên giải quyết cuộc khủng hoảng, bởi lẽ việc thoái vị sẽ "hình thành một mối đe dọa đối với triều đại, đất nước và ngôi đại thống". Cuối cùng, Wilhelm I từ bỏ ý định thoái vị và thay vì đó, theo lời khuyên của Bộ trưởng Chiến tranh Albrecht von Roon, nhà vua chỉ định Otto von Bismarck làm Thủ tướng. Bismarck, một nhà chính trị bảo thủ, đã chủ trương dựa vào những "lỗ hổng" trong hiến pháp để phớt lờ sự chống đối của phe tự do và thẳng tiến với việc thực hiện các cải cách quân sự của nhà vua.

Hành động này đã biến Bismarck thành một kẻ thù của ông và gây cho Wilhelm I hết sức giận dữ. Bị vua cha chỉ trích thậm tệ vì tư tưởng tự do của mình, ông dành một phần không nhỏ thời gian sống ở Anh, nơi ông thường được thay mặt Victoria của Anh trong các nghi lễ và hoạt động xã hội.

Bài báo của [[Illustrated London News ngày 20 tháng 8 năm 1870, ca ngợi các thành tựu của Thái tử trong Chiến tranh Pháp-Đức.|thumb|upright|left]] Friedrich đã tham gia các cuộc chiến tranh chống Đan Mạch, Áo và Pháp. Trước mỗi cuộc chiến, Thái tử đều phản đối hành động quân sự nhưng một khi chiến tranh đã bùng nổ, ông ủng hộ quân đội Phổ bằng toàn bộ tâm huyết của mình và nắm giữ các chức vụ chỉ huy. Nhìn chung, do không hề có ảnh hưởng chính trị, ông có nhiều cơ hội để thể hiện năng lực của mình trong chiến tranh.

phải|thumb|Friedrich được vua phong thưởng Thập tự Xanh, tranh tường do Emil Hünten vẽ ở [[Ruhmeshalle Berlin|Phòng Danh thơm Berlin.]] Dưới sự chỉ huy của ông, Tập đoàn quân số 2 đã thực hiện hàng loạt các cuộc hành quân từ ngày 23 cho đến ngày 26 tháng 6 nhằm gây hoang mang và đánh lạc hướng đối phương. Ngày 27 tháng 6, qua ba hẻm núi Braunau, Trautenau và Nachod, Quân đoàn Vệ binh (Vương công August xứ Württemberg) cùng với Quân đoàn I (tướng Adolf von Bonin) và Quân đoàn V (tướng Karl Friedrich von Steinmetz) đã vào được Böhmen. Quân đoàn I bị Quân đoàn X Áo (tướng Ludwig von Gablenz) đánh bại với tổn thất đến khoảng 1.300 người trong trận Trautenau, nhưng đã loại được gần 5.000 quân đối phương ra khỏi vòng chiến, Cùng ngày, tại trận Nachod (còn gọi là trận Vysokov), Quân đoàn VI Áo (tướng Wilhelm Ramming) tấn công Quân đoàn V của Friedrich và bị đánh tơi bời; trong khi các đơn vị Phổ ở Nachod chỉ thương vong 1.122 người, số quân Áo bị loại lên đến 5.719 người.<!--Theo một giai thoại do sử gia Gustave Strauss dẫn ra, khi bất lợi nghiêng về phía Phổ trong trận Nachod, Thái tử và Blumenthal đã thúc ngựa đến trận địa để chấn chỉnh tình hình. Sau khi bày tỏ sự chỉ trích việc tập trung giã đại bác vào các hẻm núi chật hẹp, ông điều động các đơn vị bộ binh và kỵ binh đồng loạt vượt đèo và quét sạch quân Áo.

Bên cạnh vinh quang mà mình có được, cuộc đổ máu đã gây cho ông hoảng hốt.

Tầm nhìn chiến lược của Friedrich được tham mưu trưởng của ông, người đã đóng góp rất nhiều đến những thắng lợi của ông trong các cuộc chiến năm 1866 và 1870, ngưỡng mộ. Theo Blumenthal, trong khi Friedrich Karl triển khai một hệ thống chỉ huy phối hợp (trong đó kỵ binh và pháo binh cùng tiến bước), Thái tử chú trọng tính linh hoạt của việc tổ chức các cuộc hành quân riêng rẽ và chỉ hợp nhất lực lượng trong các trận đánh cụ thể. Thái tử lo lắng khi ông được bổ nhiệm làm tư lệnh tập đoàn quân này. Ông đánh giá các đạo quân Nam Đức "thiếu thiện ý với chúng ta và hầu như không được đào tạo theo khuôn phép của chúng ta", và tin rằng họ không thể chiến đấu hiệu quả với một kẻ thù hùng mạnh và được chuẩn bị tốt như người Pháp. Nhưng trong cuộc chiến, các lực lượng Nam Đức đã chiến đấu dũng cảm hơn là ông nghĩ.

Ngày 3 tháng 8 năm 1870, Moltke hạ lệnh cho Friedrich và Blumenthal kéo Tập đoàn quân số 3 vào Alsace và đánh bại bộ phận quân Pháp tại đây, sau đó vượt dãy Vosges rồi vòng lên mạn bắc để hiệp lực cùng các Tập đoàn quân số 1 và 2 bao vây tiêu diệt chủ lực Tập đoàn quân Rhine của Pháp tại Lorraine. Tuân thủ thượng lệnh, ngày 4 tháng 8, ông điều 5 vạn quân thuộc 3 quân đoàn Phổ-Bayern tiến công Wissembourg và đập tan cuộc kháng cự quyết liệt của 6.000 quân thuộc Sư đoàn 2 Pháp (Quân đoàn I) do tướng Abel Douay chì huy. Bản thân Douay tử trận và hàng nghìn quân Pháp bị bắt làm tù binh. Theo bình luận của Đại tá Anh Walter, trận đánh là "một hoạt động được tiến hành xuất sắc... Tôi... chưa từng chứng kiến điều gì hoàn hảo hơn cuộc tiến công lên các cao điểm của quân Phổ". Tiếp theo đó, Thái tử và Blumenthal tiến quân về hướng tây-nam để truy tìm bộ phận chủ lực Quân đoàn I Pháp do Thống chế Patrice de MacMahon chỉ huy. Blumenthal định cho quân nghỉ ngơi vào ngày 6 tháng 8, nhưng trong ngày hôm ấy một trận đánh khốc liệt đã tình cờ bùng nổ giữa các lực lượng Phổ, Bayern và Württemberg với Quân đoàn I và một sư đoàn thuộc Quân đoàn VII của Pháp trong khu vực Wœrth-Frœschwiller. Trận chiến chấm dứt với thắng lợi toàn diện của quân đội Nam-Đức và buộc MacMahon phải vội vã rút quân chạy về Châlons.

Hai chiến thắng mở màn ở Wissembourg và Wœrth-Frœschwiller đã đem lại cho Thái tử những những lời khen ngợi về tài điều binh khiển tướng của ông. Trong vùng núi, quân Bayern và Württemberg vây chiếm một số pháo đài đơn lẻ của Pháp như Lichtenberg và Marsal. Vào ngày 12 tháng 8 Tập đoàn quân số 3 đã ra được khỏi dãy Vosges và nối lại liên lạc với Tập đoàn quân số 2 do Vương thân Friedrich Karl chỉ huy trên mạn Lorraine. Đến ngày 16 tháng 8, Thái tử dừng quân và lập tổng hành dinh tại thị trấn Nancy – nơi quân Pháp đã rút bỏ 4 ngày trước đó – để yểm trợ các hoạt động chủ lực của các Tập đoàn quân số 1, số 2 và chuẩn bị đối phó với mọi tình huống.

Sau khi hai tập đoàn quân này đánh bại 5 quân đoàn chủ lực Tập đoàn quân Rhine của Pháp trong trận Gravelotte và cô lập hoàn toàn Tập đoàn quân Rhine tại Metz, Moltke chuyển trọng tâm của mình về hướng tây sang Châlons, nơi Napoléon III và MacMahon đang thành lập Tập đoàn quân Châlons với thành phần nòng cốt là 3 quân đoàn I, V, VII. Vị Tổng tham mưu trưởng rút 4 quân đoàn khỏi biên chế của Tập đoàn quân số 2 để thành lập Tập đoàn quân Maas do Thái tử Albert của Sachsen thống lĩnh. Sau khi cho quân nghỉ ngơi trong hai ngày 19 và 20 tháng 8, nhà vua và Moltke điều động các tập đoàn quân của hai thái tử Đức tiếp tục tiến quân về hướng Tây để dứt điểm chiến dịch.

Thái độ đối xử nhân đạo của Friedrich đối với các kẻ thủ của đất nước đã đem lại cho ông sự kinh trọng của họ và sự tán thưởng của các quan sát viên trung lập. Sau trận chiến Wœrth-Frœschwiller, một nhà báo Luân Đôn đã chứng kiến những chuyến thăm hỏi liên tục của Thái tử dành cho thương binh Phổ và ca ngợi các việc làm của ông, tán dương tình cảm yêu mến và quý trọng của những người lính đối với ông. Cũng sau chiến thắng này, Friedrich trò chuyện với hai nhà báo Paris "Ta không thích chiến tranh, các quý ông ạ. Nếu sau này ta trị nước ta sẽ không bao giờ gây ra nó." Một nhà báo Pháp ca tụng: "Thái tử đã để lại vô số nét tử tế và nhân đạo trên vùng đất mà ông đánh." Qua một bài báo vào tháng 7 năm 1871, thời báo The Times đã bày tỏ sự nể phục đối với những chiến công và tinh thần nhân đạo của ông: "vị Thân vương giành được nhiều vinh quang do sự hiền đức cũng như do lòng can trường của ngài trong chiến tranh." Sau đại thắng Sedan, các nhật ký chiến tranh của Thái tử cho thấy vấn đề mà giờ đây ông bận tâm nhất là những trở ngại còn lại của cuộc thống nhất nước Đức và việc xây dựng một đế quốc mới.

Hoàng thái tử Đức

thumb|Họa phẩm của Anton von Werner mô lễ tấn phong Hoàng đế cho Wilhelm I; Friedrich đứng cạnh phụ hoàng, em rể ông là Đại Công tước xứ [[Baden bắt nhịp cho mọi người tung hô.]] Vào ngày 18 tháng 1 năm 1871, sau những thắng lợi của Phổ, các quốc gia Đức thống nhất thành Đế quốc Đức dưới sự lãnh đạo của Phổ, với Wilhelm I là Hoàng đế và Friedrich là người kế thừa của nền quân chủ Đức mới mẻ. Mặc dù Wilhelm coi ngày Hoàng đế là ngày đau xót nhất trong cuộc đời của mình, Friedrich bày tỏ thái độ hân hoan khi được chứng kiến một ngày vĩ đại trong lịch sử Đức.

Friedrich thường tỏ ra bất đồng với các hoạt động và chính sách bảo thủ của phụ hoàng và Bismarck, đồng thời đứng về phía những người tự do Đức khi họ phản kháng việc mở rộng quân đội đế quốc. Ông trở thành niềm hy vọng của các đảng viên Đảng Tiến bộ Đức, những người tin rằng sự nối ngôi của Friedrich sẽ khởi đầu một thời kỳ mới cho đất nước: thời kỳ của một chính quyền tự do. Bên cạnh đó, ông cũng tham gia nhiều dự án xây dựng công trình công cộng, chẳng hạn như việc thành lập các trường học và giáo đường ở khu vực Bornstedt gần Potsdam. Để hỗ trợ cho nỗ lực của phụ hoàng nhằm biến đế đô Berlin thành một trung tâm văn hóa lớn, ông đã được bổ nhiệm làm Bảo hộ các Bảo tàng Công cộng; chủ yếu nhờ vào công sức của ông mà những bộ sưu tập hội họa quy mô đáng kể đã được gom và trung bày tại Bảo tàng Hoàng đế Friedrich (sau này gọi là Bảo tàng Bode) mới được thành lập ở Berlin sau khi ông qua đời. phải|thumb|Đức hoàng Wilhelm I ngồi ở giữa, Thái tử Friedrich bên phải và con ông là [[Wilhelm II, Hoàng đế Đức|Hoàng tử Wilhelm bên trái.]]

Vào năm 1878, sau khi Wilhelm I bị trọng thương trong một vụ ám sát hụt do Tiến sĩ Karl Nobiling thực hiện, Friedrich được triệu ra chấp chính trong thời gian phụ hoàng đi chữa trị thương tích. Thái tử ngấm ngầm hy vọng đây là thời cơ cho ông nắm quyền để thực hiện đường lối của mình, và ông yêu cầu được bổ nhiệm làm Nhiếp chính vương để trị nước thay cha. Tuy nhiên, Wilhelm I và Bismarck đã ban bố một chỉ dụ mà "không hề hỏi ta trước", theo đó Friedrich chỉ đơn thuần là một Phụ chính thay mặt vua cha thực hiện các chính sách mà vua cha, hay nói đúng hơn là Bismarck, đã đề xướng. Sau khi phụ hoàng về kinh vào ngày 5 tháng 12, ông lại bị gạt ra ngoài lề. Sự thiếu thốn ảnh hưởng của mình đã gây cho ông hết sức bất mãn, thậm chí còn khiến ông nảy sinh ý định tự sát.. Vào tháng 3, bác sĩ Carl Gerhardt, Giáo sư Y dược tại Đại học Berlin, phát hiện một khối u nhỏ trên dây thanh quản trái của Thái tử. Không thể cắt bỏ nó bằng nhíp, Gerhard đã dùng một sợi dây kim loại nóng để cắt bỏ khối u. Tuy nhiên, giọng nói của Thái tử vẫn khàn và vào tháng 5, khối u đã tái phát trong khi vết thương do cuộc điều trị gây ra vẫn chưa lành. Đoán rằng Friedrich đã mắc bệnh ung thư vòm cổ họng, vào tháng 5, Gerhardt hội ý một nhà phẫu thuật nổi tiếng Ernst von Bergmann. Dù cho khối u có phải là ác tính hay không, hai người yêu cầu thực hiện phẫu thuật cắt bỏ vùng bị ảnh hưởng. Họ tham kiến Wilhelm I và Bismarck mà không hề báo cho Thái tử về ý định của họ. Được sự đồng thuận của Bismarck, Hoàng đế "cấm họ làm phẫu thuật mà không có sự ưng thuận của con ta". Bermann nhận thấy cuộc phẫu thuật có triển vọng tốt do căn bệnh đã được phát hiện sớm và bệnh nhân còn khỏe. Dù Thái tử phi không thích để "con dao chạm vào cổ họng yêu dấu của anh ấy", vợ chồng Thái tử ồng ý và cuộc phẫu thuật được hoạch định thực hiện vào ngày 21 tháng 5. mọi người quyết định hội ý một bác sĩ có tên tuổi người Anh là Ngài Morell Mackenzie.

Sau khi đến Berlin vào ngày 20 tháng 5, Mackenzie khám bệnh Thái tử và cho rằng khối u của Friedrich không nguy hiểm, mà chỉ là "khối u xơ có thể bị loại bỏ mà không còn phẫu thuật trong vòng sáu đến tám tuần điều trị". Do đó, cuộc phẫu thuẫn theo dự kiến bị hoãn lại. Vị bác sĩ người Anh đã cắt bỏ một số mẩu khối u và giao cho bác sĩ Rudolf Virchow, nhà nghiên cứu bệnh học lớn nhất thời đó, phân tích. Virchow không tìm thấy được triệu chứng ác tính. Tuy nhiên, các bác sĩ Gerhardt và Bergmann khẳng định sự chẩn đoán ban đầu của họ là đúng và cảnh báo rằng khối u đang lan rộng về bên kia thanh quản của Thái tử. Nhưng Mackenzie vẫn cố giữ quan điểm của mình. Trước tình hình đó, Friedrich và vợ ông quyết định chọn Mackenzie làm bác sĩ chữa trị cho mình. Đầu tháng 6 năm 1887, Friedrich đến Luân Đôn, nơi Mackenzie khám bệnh cho ông. Chính tại đây, ngày 21 tháng 6, ông đã tham gia Lễ Kỷ niệm vàng của Victoria của Anh. Mackenzie khuyên Thái tử Đức nên nghỉ đông ở Địa Trung Hải, nơi có khí hậu ấm áp, để tránh thời tiết lạnh lẽo của Berlin. Cuối năm 1887, vợ chồng Thái tử đến Ý nhưng tại đây, bệnh tình của ông càng nặng. Trái với vợ chồng Thái tử, Đức hoàng và Thủ tướng không còn tin cậy vào phương pháp chữa trị của Mackenzie. Wilhelm I phái hai bác sĩ Đức và một bác sĩ Áo đến tháp tùng Thái tử ở Địa Trung Hải. Buổi tối ngày 8 tháng 2 năm 1888, bệnh tình của ông nhanh chóng trở nên tồi tệ hơn và sáng ngày 9 tháng 2, Thái tử ngột ngạt đến mức đã ông yêu cầu phải tiến hành phẫu thuật mở khí quản ngay lập tức. Trợ lý của Bergmann là Bramann đã thực hiện cuộc phẫu thuật này và một ống thở đã đưa vào khí quản của Friedrich để cho ông thở. Trong suốt thời gian còn lại của cuộc đời, Friedrich không nói được và thường giao tiếp bằng viết giấy.

Trong cuộc phẫu thuật, bác sĩ Bergmann suýt nữa đã giết chết ông do bị mất dấu đường rạch ở khí quản và đặt ống thở sai chỗ. Thấy Friedrich ho và chảy máu, Bergmann lại còn đặt ngón tay trở của mình lên vết thương, làm vết thương bị mở rộng ra thêm. Friedrich chấm dứt chảy máu sau hai tiếng đồng hồ, nhưng những hành động của Bergmann đã dấn đến sự hình thành một áp xe ở cổ ông, gây cho ông khó chịu trong những tháng còn lại của đời mình. Sau, Friedrich từng hỏi "Vì sao Bergmann lại đặt ngón tay của ông ấy vào cổ ta?" và than phiền "Bergmann hành hạ [ta]".

Hoàng đế vắn số

phải|thumb|Friedrich III, tranh sơn dầu của Minna Pfüller ([[1824–1907).]] Vào ngày 9 tháng 3 năm 1888, phụ hoàng Wilhelm I băng hà ở tuổi 90. Friedrich, khi ấy còn ở Địa Trung Hải với vợ minh, lên nối ngôi đại thống. Để vinh danh ngôi vị hoàng hậu của Victoria, ông rút dải ruy băng và ngôi sao của Huân chương Đại bàng Đen trên áo mình và gắn lên bộ đầm của bà. Ông viết một mẩu giấy và gửi cho Mackenzie: "Trẫm tạ ơn ông vì đã giúp trẫm sống đủ lâu để đền đáp lòng can trường quả cảm của vợ trẫm". Ông còn đánh điện cho Victoria của Anh để bày tỏ chủ trương thắt chặt mối quan hệ của mình với nước Anh:.

phải|thumb|Lăng Hoàng đế Friedrich (Potsdam): Friedrich được mai táng trong cổ quan tài này, trên đó có hình tượng ông.

thumb|[[Xu bạc: 5 Mark của Vương quốc Phổ dưới thời Đế chế Đức, mặt trước là chân dung của Friedrich III, phát hành năm 1888]]

Bất chấp cơn bạo bệnh của mình, Friedrich đã cố gắng hết sức để làm tròn bổn phận của một đế vương. Trong cuộc họp Hội đồng Đế quyền đầu tiên của mình, ông tham vấn và ra các chỉ dụ bằng cách viết lên các mẫu giấy. Bên cạnh những mâu thuẫn của mình với Bismarck, ông cũng khẳng định tín nhiệm giao cho Bismarck chức vụ Thủ tướng trong thời kỳ trị vì của mình. Vào tháng 4 năm 1888, ông tiếp đón chuyến viếng thăm chính thức của Victoria của Anh, sau đó vào ngày 24 tháng 5, ông đến nhà nguyện của điện Charlottenburg để tham dự hôn lễ của con mình là Hoàng tử Heinrich với cháu gái mình là Công nương Irene xứ Hessen và ven sông Rhein. Tại đây, ông vận bộ quân phục có cổ áo đủ cao để che khuất khối bướu ở cổ họng của ông. Mặc dù bệnh yếu nhưng Hoàng đế đã đứng khi đôi tân hôn trao đổi nhẫn cưới. Thêm vào đó, vào buổi sáng ngày 13 tháng 6, ông còn đón tiếp chuyến viếng thăm của bạn ông, vua Oscar II của Thụy Điển và Na Uy. Nhưng mọi người hiểu rằng sự băng hà của Friedrich III và sự nối ngôi của Wilhelm – vị Thái tử 29 tuổi đăng bị giằng xé giữa niềm đau xót trước căn bệnh của vua cha với triển vọng được làm vua – giờ đây chỉ còn là vấn đề thời gian. Điều đó làm cho Victoria đau xót: không chỉ thương chồng, bà nghĩ rằng sự ra đi của Friedrich sẽ làm tiêu tan mong ước của Albert về một nước Đức được tự do hóa và có quan hệ thân mật với Anh. Về sau, Bismarck hồi tưởng: "Trong toàn bộ sự nghiệp đại thần của tôi, việc thực thi sự vụ chưa bao giờ thoái mái và không có xích mích như dưới trong 99 ngày trị vì của Hoàng đế Friedrich" mặc dù ông đã sa thải được Bộ trưởng Nội vụ Robert von Puttkamer – một người rất được Bismarck ủng hộ – vào ngày 8 tháng 6, khi các bằng chứng cho thấy Puttkamer đã can thiệp vào các cuộc bầu cử Quốc hội. Theo như bác sĩ Mackenzie ghi nhận, Đức hoàng có "một ý thức hầu như áp đảo về những trách nhiệm của ngôi vị của mình". Trong thư gửi Huân tước Napier, Hoàng hậu Victoria viết: "Hoàng đế tham gia được công việc triều chính, và làm rất nhiều, nhưng việc không nói được, dĩ nhiên, là khổ sở nhất". Friedrich có tâm huyết nhưng không có thời gian để đạt được những mong muốn của mình; vào tháng 5 năm 1888, ông ai oán: "Ta không thể chết... Điều gì sẽ xảy ra với nước Đức?".

Vào đầu tháng 6, Friedrich III phải vật lộn với từng cơn sốt cao và sự khó chịu do cái áp xe ở cổ ông gây ra, được đưa khỏi điện Charlottenberg và đến Tân Hoàng cung ở Potsdam, nơi ông sinh ra. Sau khi ông đón tiếp vua Thụy Điển và Na Uy vào buổi sáng ngày 13 tháng 6, ngày hôm sau Bismarck đến nói lời vĩnh biệt với ông. Hoàng đế đã vươn tay lên nắm lấy tay Bismarck rồi trao tay vị Thủ tướng cho Hoàng hậu. Friedrich băng hà đầu buổi sáng ngày 15 tháng 6 năm 1888, và được kế tục bởi con trưởng là Wilhelm II. Nhận được tin dữ, Victoria của Anh của Anh đã gửi thư cho cháu ngoại mình, giờ đây là tân Hoàng đế Đức: "Ta đang đau buồn nhất trước hung tin này và thật lo lắng cho người mẹ yêu dấu tội nghiệp của con. Hãy làm mọi thứ, ta bảo con, để giúp đỡ mẹ con trong khoảng thời gian khó nhọc và sầu muộn ghê gớm này". Sau khi ông qua đời, Thủ tướng Anh William Ewart Gladstone ca ngợi ông là "Barbarossa của chủ nghĩa tự do Đức". Hoàng hậu Victoria tiếp tục truyền bá các quan niệm và tư tưởng của Friedrich trong khắp nước Đức, nhưng giờ đây bà không còn có quyền hành trong chính phủ.

Di sản

thumb|upright|left|Ảnh chụp Thái tử Friedrich do [[Sergei Lvovich Levitsky thực hiện năm 1870 (Bộ sưu tập riêng tư Di Rocco Wieler, Toronto, Canada)]] Friedrich được mô tả là "một bậc vương giả Phổ, thuộc loại cao quý nhất, mang mọi phẩm chất tốt đẹp của gia tộc mà không có một phẩm chất tồi tệ nào". Trong đêm ngày 15 tháng 6 năm 1888, ngày ông mất, Victoria của Anh đã viết vào nhật ký của mình: "Không một đứa con nào của ta có thể là một mất mát lớn hơn. Cậu ấy thật tốt tính, thật sáng suốt, và rất yêu mến ta". Em vợ của Friedrich là Thân vương xứ Wales đã gửi thư cho con mình, George V: Ông từ lâu đã có thiện chí với phong trào tự do chủ nghĩa, và đã tranh luận về tư tưởng cũng như ý định của mình với Victoria và những người khác trước khi ông lên kế ngôi. Theo các sử gia như Michael Balfour, Friedrich và vị hôn thê của mình, vốn khâm phục Albert xứ Sachsen-Coburg-Gotha và cơ cấu nghị viện Anh,, dự kiến cùng nhau cai trị nước Đức và cải cách cái mà họ xem là những thiếu sót lớn trong nhánh hành pháp mà Bismarck đang điều hành. Họ toan tính thay thế chức vụ Thủ tướng, chịu trách nhiệm trước Hoàng đế, bằng một nội các kiểu Anh, với các bộ trưởng chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Trong khi đó, chính sách của triều đình sẽ được dựa trên sự đồng thuận của nội các. Ông từng "mô tả bản Hiến pháp Đế quốc là một mớ hỗn độn được trù tính khéo léo." Nhiều nhà sử học, trong số đó có William Harbutt Dawson và Erich Eyck, nhận định rằng cái chết sớm của Friedrich đã đặt dấu chấm hết cho quá trình phát triển của chủ nghĩa tự do trong Đế quốc Đức. Họ tin rằng, nếu như ông khỏe mạnh hơn và trị vì lâu hơn, có lẽ Friedrich sẽ thực sự thay đổi nước Đức thành một quốc gia dân chủ tự do hơn, và ngăn chặn con đường dẫn tới chiến tranh của chủ nghĩa quân phiệt Đức – một tiến trình đã xảy ra dưới thời vua con Wilhelm II. Tiến sĩ J. McCullough xác nhận rằng Friedrich sẽ ngăn được Chiến tranh thế giới thứ nhất—và cả nền Cộng hòa Weimar vốn được thành lập sau khi Đức thất trận trong cuộc chiến—trong khi các sử gia khác như Balfour còn đi xa hơn khi khẳng định rằng, do kết thúc của Chiến tranh thế giới thứ nhất đã tác động trực tiếp đến tình hình thế giới và châm ngòi cho Chiến tranh thế giới thứ hai, vị Hoàng đế tự do của Đức có lẽ cũng sẽ ngăn ngừa sự bùng nổ của Chiến tranh thế giới thứ hai. Tác giả Michael Freund nhận định thẳng là cả hai cuộc chiến tranh thế giới sẽ bị ngăn chặn nếu như Friedrich sống lâu hơn. Cuộc đời của Friedrich đã gợi cho nhà sử học Frank Tipton tự hỏi: "Điều gì sẽ xảy ra nếu cha ông mất sớm hơn hoặc nếu bản thân ông sống được lâu hơn?"

thumb|right|Tạp chí [[Hoa Kỳ Puck thương xót cho sự ra đi của ông vua tự do Friedrich III.]] Các nhà sử học khác, trong đó có Wilhelm Mommsen và Arthur Rosenberg, phủ nhận quan niệm rằng Friedrich có thể (hoặc chắc chắn) sẽ tự do hóa nước Đức nếu ông sống lâu hơn. Họ tin rằng ông sẽ không thể bãi bỏ đường lối của vua cha và Bismarck để xoay chuyển tiến trình lịch sử nước Đức; là một người lính thuần thục, ông đã thấm nhuần truyền thống quân sự vững mạnh của vương tộc: ông gia nhập quân ngũ ngay từ năm 10 tuổi và luôn cảm thấy hạnh phúc khi báo cáo cho cha mình từ nhà vệ binh ở Potsdam. Theo nhận định của Arthur Rosenberg, bên cạnh khuynh hướng tự do trong tư tưởng của mình, Friedrich III vẫn đặt niềm tin vững chắc vào Bismarck và cơ cấu chính quyền của ông này và ngay nếu ông trị vì lâu hơn, ông sẽ khó thể thay đổi tình hình nước Đức. Thêm vào đó, Dorpalen cho rằng dù Friedrich có trị vì được bao lâu đây nữa, cá tính của ông quá yếu đuối và bất lực để có thể mang lại một chuyển biến thực sự nào cho tình hình nước Đức. James J. Sheehan nhận xét rằng các đường lối cũ đã quá ăn sâu vào môi trường chính trị và hệ thống đảng phái ở Đức để Friedrich có thể thay đổi bằng công cuộc "tự do hóa" của mình. Ngoài ra, Dorpalen nhìn nhận rằng sự ủng hộ của ông đối với chủ nghĩa tự do có lẽ đã bị phóng đại sau khi ông qua đời nhằm giữ vững phong trào tự do tại Đức, và theo như sử gia này chỉ ra, nhiều sai lầm của Wilhelm II đã gián tiếp góp phần "tô hồng" hình ảnh mang đậm nét tự do chủ nghĩa của phụ hoàng Friedrich III.

Các sử gia gần đây nhận định rằng các thư từ của Hoàng hậu Victoria sau khi vị Hoàng đế băng hà đã thổi phồng ông thành một "nhà tự do tiến bộ"; mặc dù ủng hộ những người tự do chủ nghĩa và ưa chuộng chế độ quân chủ lập hiến, Friedrich III trên thực tế không hề muốn mở rộng thế lực của quốc hội mà không mang lại ích lợi cho nền quân chủ. Năm 1870, Victoria từng bị thất vọng khi được biết rằng sự chống đối của Friedrich với Bismarck đã dịu đi, do Thủ tướng khẳng định với ông rằng việc thống nhất nước Đức sẽ được thực hiện trên khuôn khổ tự do-lập hiến. Song, vào năm 1879, khi Bismarck chấm dứt liên minh của mình với những người tự do, Friedrich bất mãn và ông khuyên Thủ tướng không được phá hủy hiến pháp. Theo Kollander, trái ngược với vợ mình – người ủng hộ chủ trương xóa bỏ hiến pháp của Đảng Tiến bộ Đức và áp dụng các định chế chính trị của Anh, Friedrich thực sự chỉ cho phép cải cách tự do dựa trên sự cân bằng của hiến pháp. Thái độ đối kháng của Friedrich đối với những thay đổi cấp tiến có hại cho hiến pháp đã phần nào giải thích sự phản đối của ông với ý định thoái vị của vua cha Wilhelm I vào năm 1862. Ông từng nói với Wilhelm I rằng việc vua cha thoái vị sẽ đẩy ông vào một "tình thế bối rối".

Những người con của Friedrich III—tiêu biểu nhất là Wilhelm —giữ nhiều địa vị chính trị và có nhiều ảnh hưởng đến châu Âu. Trái với phụ hoàng, cá nhân Wilhelm chưa hề trải qua nỗi kinh hoàng của chiến tranh, và ông ưa thích phô trương sức mạnh quân sự của Phổ-Đức. Khi còn trẻ, Wilhelm được giám hộ của Bismarck, người bất mãn với thiên hướng tự do của Friedrich và Victoria, đặt sự giám hộ của mình. Vị Thủ tướng cảm thấy cần phải tăng cường mâu thuẫn giữa Wilhelm và cha mẹ của ông, đặc biệt là người mẹ. Trưởng thành trong tâm trạng khinh ghét các quan điểm của cha mẹ mình về chính quyền, vị tân hoàng đế tuyên bố sẽ tiếp bước ông nội mình là Wilhelm I không lâu sau khi phụ hoàng băng hà. Ông không hề nhắc đến Friedrich III. Wilhelm II cũng xóa bỏ mọi chính sách tư tưởng của phụ hoàng, và cuối cùng đã đẩy nước Đức đến thảm họa Chiến tranh thế giới thứ nhất.

Trong văn hóa

Trong bộ phim tuyên truyền của Đức Quốc xã được sản xuất vào năm 1940 dưới sự chỉ đạo của Wolgang Wolfgang Liebeneiner, Bismarck, Thái tử Friedrich được thủ vai bởi Werner Hinz. Hai năm sau, Đức hoàng Friedrich III cũng xuất hiện trong một bộ phim khác của Wolfgang Liebeneiner, Cuộc Sa thải (Die Entlassung), còn gọi là Wilhelm II và Bismarck hay Bismarck Phần Hai, với sự thủ vai của Karl Ludwig Diehl.

Diễn viên người Anh Denis Lill thủ vai Friedrich III trong loạt phim Fall of Eagles của BBC năm 1974.

Danh hiệu, tước hiệu và huân chương

Tước hiệu và danh hiệu

*18 tháng 10 năm 1831 – 2 tháng 2 năm 1861*: Vương tử Điện hạ Friedrich của Phổ 2 tháng 1 năm 1861 – 18 tháng 1 năm 1871: Thái tử Điện hạ của Phổ 18 tháng 1 năm 1871 – 9 tháng 3 năm 1888: Hoàng Thái tử và Vương Thái tử Điện hạ Thái tử Đức, Thái tử nước Phổ 9 tháng 3 năm 1888 – 15 tháng 6 năm 1888**: Hoàng thượng và Vương thượng Bệ hạ Hoàng đế Đức, Vua nước Phổ

Huân chương

Năm ông 10 tuổi, ông được trao tặng Huân chương Đại bàng Đen. Sau chiến thắng của ông tại trận Königgrätz, ông được tặng thưởng Huân chương Thập tự Xanh vì tài năng chỉ huy của mình trong trận đánh.

Gia phả

Hậu duệ

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Friedrich III của Đức** ( _Prinz von Preußen_; 18 tháng 10 năm 1831 – 15 tháng 6 năm 1888) là Hoàng đế Đức và là Vua của Phổ trong khoảng ba tháng (99 ngày) từ
**Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II** của Phổ và Đức, (27 tháng 1 năm 1859 – 4 tháng 6 năm 1941) là vị Hoàng đế (_Kaiser_) cuối cùng của Đế quốc Đức, đồng
**Wilhelm I** (tên đầy đủ: _Wilhelm Friedrich Ludwig_; 22 tháng 3 năm 1797 – 9 tháng 3 năm 1888), là quốc vương Phổ từ ngày 2 tháng 1 năm 1861, chủ tịch Liên bang Bắc
**Hoàng đế Đức**, đôi khi cũng gọi là **Đức hoàng** (tiếng Đức: **_Deutscher Kaiser_**) là tước hiệu chính thức của nguyên thủ quốc gia hay nói cách khác là vua của Đế quốc Đức -
**SMS _Kaiser Friedrich III**_ là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm tiền-dreadnought _Kaiser Friedrich III_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo vào giai đoạn cuối thế kỷ 19 bước sang thế
**Lớp thiết giáp hạm _Kaiser Friedrich III**_ là một lớp thiết giáp hạm tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Đức trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất; lớp bao gồm năm chiếc, tất cả đều
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Nhà thờ Hoàng đế Đức** () là một từ ngữ truyền thống để chỉ các nhà thờ lớn, mà có liên hệ đến quyền lực của hoàng đế Đế quốc La Mã Thần thánh. ##
**Zeno** hay **Zenon** (; ; ) (425 – 491), tên thật là **Tarasis**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 474 tới 475 và một lần nữa từ 476 tới 491. Các cuộc nổi
**Victoria Adelaide của Liên hiệp Anh và Ireland, Vương nữ Vương thất, Hoàng hậu Đức và Vương hậu Phổ** (; , 21 tháng 11 năm 1840 – 5 tháng 8 năm 1901) là Vương nữ
nhỏ|Quân thập tự chinh bao vây Damascus năm 1148 **Friedrich I Barbarossa** (1122 – 10 tháng 6 năm 1190) là Hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh từ năm 1155 cho đến khi băng
**Friedrich III xứ Sachsen** (tiếng Đức: _Friedrich III. von Sachsen_; 17 tháng 1 năm 1463 – 5 tháng 5 năm 1525), còn được gọi là **Friedrich Khôn ngoan** (tiếng Đức: _Friedrich der Weise_), là Tuyển
**Sophie của Phổ** (tiếng Đức: _Sophie von Preußen_; tiếng Hy Lạp: Σοφία της Πρωσίας; 4 tháng 6 năm 1870 – 13 tháng 1 năm 1932) là Vương hậu Hy Lạp từ ngày 18 tháng 3
**Victoria của Liên hiệp Anh** (Alexandrina Victoria; 24 tháng 5 năm 1819 – 22 tháng 1 năm 1901) là Nữ vương Vương quốc Liên hiệp Anh từ ngày 20 tháng 6 năm 1837 cho đến
Từ thời kỳ cổ đại, **Đức** (lúc đó được người La Mã gọi là vùng đất Germania) đã có các bộ lạc người German (tổ tiên trực tiếp của người Đức) chính thức cư ngụ
thumb|Bản đồ đế quốc La Mã Thần Thánh dưới triều Hoàng đế [[Karl IV của Thánh chế La Mã|Karl IV]] **Đế quốc La Mã Thần Thánh** (tiếng Latinh: _Sacrum Romanum Imperium_; tiếng Đức: _Heiliges Römisches
Đế kỳ [[Nhà Hohenzollern|Hohenzollern.]] **Đế quốc Đức** (tiếng Đức: _Deutsches Reich_), hay **Đế chế thứ hai** hay **Đệ nhị Đế chế** () được tuyên bố thiết lập vào ngày 18 tháng 1 năm 1871 sau
nhỏ|phải|alt=Political map of central Europe showing the 26 areas that became part of the united German Empire in 1891. Germany based in the northeast, dominates in size, occupying about 40% of the new empire.|Bản đồ
**Friedrich III, Công tước xứ Sachsen-Gotha-Altenburg** (14 tháng 4 năm 1699 - 10 tháng 3 năm 1772), là công tước đời thứ 3 xứ Sachsen-Gotha-Altenburg, thuộc dòng Ernestine, nhánh trưởng của Triều đại Wettin. Ông
**Wilhelm, Thái tử Đức và Phổ** (tiếng Đức: _Wilhelm, Kronprinz von Deutschland und Preußen_; tiếng Anh: _Wilhelm, Crown Prince of Germany and Prussia_) (6 tháng 5 năm 1882 - 20 tháng 7 năm 1951) là
**Trung đoàn Lính ném lựu đạn "Thái tử Friedrich III" (Đông Phổ số 1) số 1** (_Grenadier-Regiment „Kronprinz" (1. Ostpreußisches) Nr. 1_) một trung đoàn bộ binh tồn tại dưới nhiều tên gọi khác nhau
**Franz Friedrich Sigismund của Phổ** (; 15 tháng 9 năm 1864 – 18 tháng 6 năm 1866) là đứa con thứ tư và là con trai thứ ba của Thái tử và Thái tử phi
**Lothar II** hay **Lothar III** (1075 – 4 tháng 12 năm 1137), còn được gọi là **Lothar xứ Süpplingenburg** (_Lothar von Süpplingenburg_), là Hoàng đế La Mã Thần thánh từ năm 1133 cho đến khi
**Friedrich II** (24 tháng 1 năm 171217 tháng 8 năm 1786) là vua nước Phổ trị vì từ ngày 31 tháng 5 năm 1740 cho đến khi qua đời vào ngày 17 tháng 8 năm
Bài viết này cung cấp một cái nhìn sơ lược về lịch sử nước Đức vào thời Trung cổ, tức trong khoảng thời gian từ thế kỷ IX đến thế kỷ XV. Giai đoạn này
**Augusta xứ Sachsen-Weimar-Eisenach** (_Maria Luise Augusta Catherina_; 30 tháng 9 năm 1811 – 7 tháng 1 năm 1890), là Vương hậu Phổ và trở thành hoàng hậu đầu tiên của Đế chế Đức sau khi
**Frederick Augustus III** (tiếng Đức: Friedrich August III; 25/05/1865 - 18/02/1932) là vị Vua cuối cùng của Vương quốc Sachsen, tại vị từ năm 1904 đến khi thoái vị vào năm 1918, ông là thành
**Charlotte của Phổ** (tiếng Đức: _Victoria Elisabeth Augusta Charlotte von Preußen_; 24 tháng 7 năm 1860 – 1 tháng 10 năm 1919) là Công tước phu nhân xứ Sachsen-Meiningen từ năm 1914 cho đến năm
Sự ra đời của Frederick II. **Friedrich II** (26 tháng 12, 1194 – 13 tháng 12, 1250), của triều đại Hohenstaufen, là người Ý, tranh ngôi Vua của người La Mã từ năm 1212, trở
**Friedrich Wilhelm IV** (15 tháng 10 năm 1795 – 2 tháng 1 năm 1861) là vua nước Phổ từ ngày 4 tháng 6 năm 1840 cho đến khi băng hà vào ngày 2 tháng 1
**Viktoria của Phổ** (Friederike Amalia Wilhelmine Viktoria; 12 tháng 4 năm 1866 – 13 tháng 11 năm 1929) là con gái thứ hai của Hoàng đế Friedrich III của Đức và Victoria Adelaide của Liên
**Friedrich Karl Nikolaus của Phổ** (1828 – 1885) là cháu trai Wilhelm I – vị hoàng đế khai quốc của đế quốc Đức – và là một Thống chế quân đội Phổ-Đức. Ông thường được
Phục bích (), còn được phiên âm là phục tích hay phục tịch, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Gustav III** (24 tháng 1 năm 1746 – 29 tháng 3 năm 1792), còn được gọi là _Gustavus III_, là Vua Thụy Điển từ năm 1771 cho đến khi bị ám sát vào năm 1792.
**Đế quốc Nga** () là một quốc gia tồn tại từ năm 1721 đến khi Chính phủ lâm thời lên nắm quyền sau cuộc Cách mạng Tháng Hai năm 1917. Là đế quốc lớn thứ
**Đế quốc Ottoman** còn được gọi là **Đế quốc Osman** (; **', ; or **'; ) hay **Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ**, là một Đế quốc trải rộng xuyên suốt Nam Âu, Trung Đông và
**Nikolai II của Nga** cũng viết là **Nicholas II** ( , phiên âm tiếng Việt là **Nicôlai II Rômanốp** hay **Ni-cô-lai II**) (19 tháng 5 năm 1868 – 17 tháng 7 năm 1918) là vị
**Georg Wilhelm Friedrich Hegel** (; Ludwig Fischer và mẹ cậu bé vẫn sống ở Jena. thumb|upright=0.7|[[Friedrich Immanuel Niethammer (1766–1848) rộng lượng hỗ trợ tài chính cho Hegel và giúp ông có được nhiều chức vụ.]]
**Grêgôriô IX** (Latinh: **Gregorius IX**) là vị giáo hoàng thứ 178 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1127 (1227?) và ở ngôi
**George III của Liên hiệp Anh** (George William Frederick; 4 tháng 6 năm 1738 – 29 tháng 1 năm 1820) là Quốc vương Đại Anh và Ireland cho đến khi hai vương quốc hợp nhất
**SMS _Kaiser Wilhelm II**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Kaiser Friedrich III_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo vào giai đoạn cuối thế kỷ 19 bước sang thế kỷ 20.
**Pyotr III** ( – ) (, _Pyotr III Fyodorovich_), còn gọi là **Pie III** là một Nga hoàng, chỉ trị vì trong 6 tháng năm 1762. Vì một số chính sách không được lòng dân, ông
thumb|right|Biểu trưng hoàng gia của Đế quốc Áo với quốc huy ít hơn (được sử dụng cho đến năm 1915 thời Áo-Hung) thumb|right|Biểu trưng hoàng gia của Đế quốc Áo với quốc huy vừa phải
**Alexanđê III** (Latinh: **Alexander III**) là vị giáo hoàng thứ 170 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1159 và ở ngôi Giáo
**Hônôriô III** (Latinh: **Honorius III**) là vị giáo hoàng thứ 177 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1216 và ở ngôi Giáo
**Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Dowager Empress_, _Empress Dowager_ hay _Empress Mother_), thường được gọi tắt là **Thái hậu** (太后), là một tước vị được quy
nhỏ|Hoàng đế [[Friedrich III của Đức|Friedrich III của Đế quốc Đức (1888) - một Kaiser có tư tưởng tự do.]] **_Kaiser_** là tước hiệu tiếng Đức có nghĩa là "Hoàng đế", với **_Kaiserin_** có nghĩa
**Friedrich xứ Hohenzollern-Sigmaringen** hay **Friedrich xứ Hohenzollern** (tiếng Đức: _Friedrich von Hohenzollern-Sigmaringen_; tiếng Pháp: _Frédéric de Hohenzollern-Sigmaringen_; tiếng Anh: _Frederick of Hohenzollern-Sigmaringen_; tên đầy đủ: _Friedrich Eugen Johann_; 25 tháng 6 năm 1843 tại Lâu
**Maximilian III Joseph** (tên đầy đủ: _Maximilian III Joseph Karl Johann Leopold Ferdinand Nepomuk Alexander_; 28 tháng 3 năm 1727 - 30 tháng 12 năm 1777) được mệnh danh là **Người được yêu mến**, là
**Urbanô III** (Latinh: **Urbanus III**) là vị giáo hoàng thứ 172 của giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1185 và ở ngôi Giáo