✨Trần Anh Tông

Trần Anh Tông

Trần Anh Tông (chữ Hán: 陳英宗; 25 tháng 10 năm 1276 – 21 tháng 4 năm 1320) tên khai sinh là Trần Thuyên (陳烇), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Trần nước Đại Việt. Ông ở ngôi từ tháng 4 năm 1293 đến tháng 4 năm 1314, rồi làm Thái thượng hoàng từ năm 1314 đến khi qua đời. Được đánh giá là một vị hoàng đế anh minh, chăm lo quốc sự, triều đại của Anh Tông chứng kiến một giai đoạn phát triển hưng thịnh của Đại Việt sau 3 lần kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông. Thời kỳ của ông và con ông đánh dấu sự hưng thịnh của vương triều nhà Trần.

Trần Thuyên là là đích trưởng tử của Trần Nhân Tông Trần Khâm (vua thứ 3 triều Trần) và là đích trưởng tôn của Trần Thánh Tông Trần Hoảng (vua thứ 2 triều Trần). Năm 1293, sau khi đánh bại các đợt xâm lược của Nguyên-Mông, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho Thái tử Thuyên, tức Hoàng đế Anh Tông. Theo bộ chính sử Đại Việt, Đại Việt Sử ký Toàn thư, Trần Anh Tông ban đầu khá buông thả, mê rượu chè, nhưng sau khi Thượng hoàng Trần Nhân Tông nghiêm khắc răn bảo, đã chịu tu sửa mình, trở thành một hoàng đế anh minh sáng suốt, tin dùng những nhân tài như Trương Hán Siêu, Đoàn Nhữ Hài, Nguyễn Trung Ngạn (ban văn) và Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật (ban võ). Trong thời kỳ trị vì của ông, Đại Việt phát triển hưng thịnh, dù phải chống lại một số đợt xâm lấn của Ai Lao trên hướng Tây. Vua Anh Tông sử dụng tướng tài Phạm Ngũ Lão đánh bại quân Ai Lao. Ông còn ngăn chặn sự lấn chiếm của người Nguyên ở biên giới phía Bắc, và mở rộng lãnh thổ Đại Việt về phương Nam thông qua cuộc hôn nhân giữa Huyền Trân công chúa (em gái ông) với vua Chiêm Thành. Sau khi nhường ngôi cho con là Trần Mạnh (tức vua Trần Minh Tông) vào năm 1314, Thượng hoàng Anh Tông tiếp tục hỗ trợ Minh Tông cai quản nước Việt.

Giống như các tiên đế, Trần Anh Tông là một Phật tử mộ đạo. Năm 1299, Thượng hoàng Trần Nhân Tông xuất gia và sáng lập Thiền phái Trúc Lâm – giáo hội thống nhất đầu tiên của Phật giáo Việt Nam. Trần Anh Tông đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của giáo hội này, qua việc khuyến khích các thiền sư phái Trúc Lâm thuyết pháp ở nhiều nơi, cúng dường tiền của, vật liệu cho việc xây chùa, tháp và vận động các thành viên hoàng gia làm thế. Ông cũng hay sáng tác thơ ca, nhưng ngày nay chỉ còn 12 bài chép trong Việt âm thi tập.

Thiếu thời

Trần Anh Tông tên húy là Trần Thuyên, tên chữ là Nhật Sủy (日煃) hoặc Nhật Sáng (日㷃/日𤊞), là đích trưởng tử của Trần Nhân Tông Trần Khâm (vua thứ 3 triều Trần) và là đích trưởng tôn của Trần Thánh Tông Trần Hoảng (vua thứ 2 triều Trần). Ông sinh vào ngày 17 tháng 9 năm Bính Tý, tức ngày 25 tháng 10 năm 1276 theo Tây lịch, chỉ khoảng 7 tháng trước khi ông cố nội của ông là Thái thượng hoàng Trần Thái Tông qua đời. Mẹ ông, Khâm Từ Bảo Thánh Hoàng hậu, là con gái của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Vào thời điểm mà Trần Thuyên được sinh ra, phụ thân vẫn còn là Hoàng thái tử, vì vậy mà ông đã được ông nội lập làm Hoàng thái tôn.

Hơn một năm sau khi Thái thượng hoàng Thái Tông qua đời, Thánh Tông noi theo phụ hoàng truyền ngôi cho con là Thái tử Trần Khâm, tức Trần Nhân Tông, mà lui về làm Thái thượng hoàng. Mẫu thân của ông là Trần phi cũng được tấn phong làm hoàng hậu. Tuy nhiên, mãi đến ngày 3 tháng 2 âm lịch năm Nhâm Thìn (1292), Trần Nhân Tông mới phong Trần Thuyên làm Hoàng thái tử, khi ấy ông đã 16 tuổi. Ngay dịp đó, triều đình đã chọn con gái của Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng lập làm thái tử phi. Trần Quốc Tảng là em ruột của hoàng hậu, cho nên nếu xét về mối quan hệ, Trần Thuyên và thái tử phi là anh em họ con cô con cậu bên ngoại, còn về bên nội thì hai người đều gọi Thái Tổ Trần Thừa là kị nội. Hôn nhân cận huyết xảy ra với mật độ thường xuyên vào thời nhà Trần, nguyên nhân chính được cho là để đề phòng trường hợp bị ngoại tộc cướp ngôi, tương tự như cách mà họ đã sử dụng để đoạt lấy ngai vàng từ nhà Lý.

Trị vì

Ngày 9 tháng 3 âm lịch năm Quý Tỵ, tức ngày 16 tháng 4 năm 1293 theo Tây lịch, Trần Nhân Tông truyền ngôi cho Thái tử Trần Thuyên, tức Hoàng đế Trần Anh Tông. Anh Tông tự xưng là "Anh Hoàng" (英皇) và tôn vua cha làm Thái thượng hoàng. Nhà vua lấy niên hiệu là "Hưng Long" (興隆) và sử dụng nó cho đến khi ông noi theo các vị tiên đế thoái vị nhường ngôi cho con trai. Ông cũng được triều thần tặng tôn hiệu "Ứng Thiên Quảng Vận Nhân Minh Thánh Hiếu Hoàng Đế" (應天廣運仁明聖孝皇帝). Thời gian ông trị vì được coi là thời kỳ thịnh trị nhất của nhà Trần.

Đối nội

nhỏ|trái|Hình ảnh Thượng hoàng Nhân Tông từ động Vũ Lâm xuất du trong [[Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ.]] Khi mới lên nối ngôi, Trần Anh Tông thích rượu chè và thường thích đi vi hành cùng mấy người thị vệ, có lần bị một số người "vô lại" ném gạch trúng đầu. Thượng hoàng biết chuyện, chỉ biết lắc đầu. Lúc bấy giờ, Thượng hoàng Trần Nhân Tông đã rút về hành cung Thiên Trường, thỉnh thoảng mới quay về Thăng Long. Sử cũ ghi chép, một ngày nọ Nhân Tông hồi cung, gặp phải Anh Tông do uống rượu say nên mãi trưa vẫn chưa ngủ dậy. Ông nổi giận liền quay về Thiên Trường, hạ chiếu cho bá quan ngày mai phải tề tập ở đó nghe chỉ. Khi tỉnh dậy ông vội vã cùng một người học trò là Đoàn Nhữ Hài tức tốc đến Thiên Trường dâng biểu tạ tội. Nhân Tông đọc biểu, mới mắng rằng: "Trẫm còn có con khác cũng có thể nối ngôi được. Trẫm còn sống mà người còn dám như thế. Huống chi sau này?" Từ đó Anh Tông trở nên minh mẫn hơn, không những thế ông còn không ưa những người nghiện rượu. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, khi Thượng hoàng gợi ý Anh Tông chọn Nội thị Chánh chưởng Nguyễn Quốc Phụ làm Hành khiển, Anh Tông từ chối: "Nếu lấy ngôi thứ mà bàn, thì Quốc phụ được rồi, chỉ hiềm hắn nghiện rượu thôi!".

Anh Tông cũng là người bãi bỏ tục xăm hình rồng vào đùi của các vua Đại Việt. Toàn thư ghi lại, Thượng hoàng Nhân Tông đã triệu Anh Tông đến cung Trùng Quang và bảo rằng: "Nhà ta vốn là người hạ lưu [sông nước], đời đời chuộng dũng cảm, thường xăm hình rồng vào đùi. Nếp nhà theo nghề võ, nên xăm rồng vào đùi để tỏ là không quên gốc". Khi đó thợ xăm đã chờ sẵn trước cổng cung; nhưng thừa lúc Thượng hoàng nhìn sang hướng khác, Anh Tông lẩn trốn về cung Trùng Hoa. Thượng hoàng biết ý và không bắt Anh Tông phải xăm mình nữa.

Bên cạnh đó, Trần Anh Tông đã chấp hành nghiêm túc nề nếp, kỷ cương của hoàng triều. Tháng 3 âm lịch năm 1296, ông sai đánh quan thượng phẩm Nguyễn Hưng đến chết vì tội mê bài bạc. Ông cũng ban chiếu cấm phạm húy tên của 8 vua nhà Lý, cùng với các tổ phụ nhà Trần là Trần Lý, Trần Thừa, Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông. Ngoài ra, Toàn thư còn chép lại: có lần Anh Tông đi cùng thứ phi là Huy Tư; bà này không phải Chính cung Hoàng hậu nên không được đi kiệu. Thuận Thánh Hoàng hậu lấy kiệu của mình cho Huy Tư đi, nhưng Anh Tông ngăn cản: "Có yêu quý Huy Tư thì cho cái khác, chứ cái kiệu ngồi còn điển chế cũ, không thể cho được". Tháng 10 âm lịch năm 1300, Trần Anh Tông đặt quy chế mới về trang phục bá quan, theo đó quan văn đội mũ chữ đinh màu đen, thuộc quan đội mũ toàn hoa màu xanh có hai vòng vàng đính vào hai bên. Áo của quan văn, tướng võ phải có ống tay rộng từ 9 tấc đến 1 thước 2 tấc, không được rộng dưới 8 tấc. Ngoài ra, các quan văn võ đều không được phép mặc xiêm, tụng quan không được phép mặc thường. Đến mùa xuân năm 1301, nhà vua lại ban chiếu cho bá quan văn võ đều dùng mũ chữ đinh, có miếng lụa bọc tóc màu tía xen màu biếc.

Trần Anh Tông cũng chú trọng đến việc chiêu hiền đãi sĩ. Trong thời gian đầu trị vì, ông tỏ ra phóng khoáng trong việc bổ nhiệm quan chức. Nhưng sau khi nghe Thượng hoàng phê bình rằng: "Sao lại có một nước bé bằng bàn tay mà phong quan tước nhiều như thế", Anh Tông dùng người cẩn thận hơn. Ông đã trọng dụng những văn thần giỏi như Bùi Mộc Đạc, Trương Hán Siêu, Trần Thì Kiến hay Đoàn Nhữ Hài, cùng với những tướng lĩnh tài ba như Chiêu Văn Đại vương Trần Nhật Duật, Huệ Vũ Đại vương Trần Quốc Chẩn hay Phạm Ngũ Lão. Đặc biệt, Đoàn Nhữ Hài còn trẻ nhưng đã được Anh Tông phong chức Ngự sử trung tán, khiến có người châm chiếm bằng 2 câu thơ: " Ôn câu chữ cổ: Đài ngự sử; Miệng sữa còn hôi: Trung tán Đoàn". Anh Tông mặc kệ những lời đồn đại này. Trái lại, người kém tài đức như Bảo Hưng (1 tôn thất mà Anh Tông yêu mến), Nguyễn Sĩ Cố và Chu Bộ (cận thần của Anh Tông từ khi ông còn nhỏ) đều không được giữ các chức lớn.

Tháng 3 âm lịch năm 1304, Anh Tông mở khoa thi Thái học sinh tìm người hiền giúp nước. Thể lệ kỳ thi này gồm 4 bước: bước 1 là thi ám tả thiên Y quốc (lấy từ sách Quốc ngữ) và truyện Mục Thiên tử, người nào không qua được bước này sẽ bị loại thải; bước 2 thi giải nghĩa kinh sách Nho giáo, làm thơ theo thể cổ thi ngũ ngôn trường thiên về "vương độ khoan mãnh" (dùng luật "tài nan xạ trĩ"), làm phú "đế đức hiếu sinh, hiệp vụ dân tâm"; bước 3 thi về chế, chiếu, biểu; bước cuối cùng là thi đối sách. Khoa thi này lấy được 48 người gồm Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi (được phong chức Thái học sinh hỏa dũng thủ, sung làm Nội thư gia), Bảng nhãn Bùi Mộ (lãnh chức Chi hậu bạ thư mạo sam, sung làm Nội lệnh thư gia), Thám hoa Trương Phóng (lãnh chức Hiệu thư quyền miện, sung làm Nhị tư), Hoàng giáp Nguyễn Trung Ngạn cùng 44 thái học sinh. Ba người đỗ đầu được ra cửa Long Môn dạo chơi đường phố 3 ngày. Nhờ sự giúp đỡ của Thượng hoàng và bề tôi, Anh Tông đã giữ vững sự hưng thịnh về chính trị, kinh tế và văn hóa của Đại Việt.

Tôn sùng Phật giáo

nhỏ|Chùa Hoa Yên trên [[núi Yên Tử, nay thuộc địa phận tỉnh Quảng Ninh.]] Cũng giống như nhiều vị vua Trần khác, Anh Tông cũng là một tín đồ Phật giáo thuần thành. Năm 1299, Thượng hoàng Trần Nhân Tông xuất gia tại núi Yên Tử (Quảng Ninh), lấy đạo hiệu là Giác hoàng Điều ngự và lập ra Thiền phái Trúc Lâm. Đây được xem là giáo hội thống nhất đầu tiên của đạo Phật ở Việt Nam. Đến năm 1308, Điều ngự viên tịch; đệ tử Điều ngự là Pháp Loa trở thành Tổ thứ hai của phái Thiền Trúc Lâm. Anh Tông hỗ trợ tích cực cho Điều ngự và Pháp Loa trong việc phát triển giáo hội. Sau khi hai sứ Nguyên về nước, Anh Tông sai Nội viên ngoại lang Trần Khắc Dụng cùng Phạm Thảo sang Nguyên để xin thỉnh ấn bản mới nhất của Đại tạng kinh Phật giáo. Triều đình nhà Nguyên chấp thuận. :"Lời nói hắt hủi Pháp Loa gán cho Anh Tông có lẽ được một sử thần Nho gia ghét đạo Phật thêm vào. Có thể vì Anh Tông mệt quá không thể nói chuyện được với Pháp Loa, muốn được nghỉ yên đôi chút trước khi nhắm mắt nên đã lắc đầu không muốn Pháp Loa vào, thế thôi. Trong trạng thái đó, bảo người ra nhắn một câu nói vô lễ, đó không phải là phong độ của một người như Anh Tông." Ngày 16 tháng 3 âm lịch năm Canh Thân (nhằm ngày 21 tháng 4 năm 1320) Trần Anh Tông qua đời ở cung Trùng Quang (thuộc phủ Thiên Trường), hưởng dương 45 tuổi. Ngày 12 tháng 12 âm lịch năm 1320 (tức 10 tháng 1 dương lịch năm 1321) ông được chôn cất vào Thái lăng tại Yên Sinh (nay thuộc thành phố Đông Triều, Quảng Ninh). Triều đình truy tôn ông miếu hiệu là Anh Tông (英宗), thụy hiệu là "Ứng Thiên Quảng Vận Hiển Văn Duệ Vũ Khâm Minh Nhân Hiếu Hoàng đế" (應天廣運顯文睿武欽明仁孝皇帝).

Tác phẩm

Tác phẩm của Trần Anh Tông có Thủy vân tùy bút ("Tùy bút nước mây") gồm 2 quyển, trong đó ông vẽ nhiều bức họa và dưới mỗi bức hoạ đều có thơ đề. Tuy nhiên, Anh Tông đã sai đốt tập thơ này trước khi ông mất. Nay thơ ông chỉ còn lại 12 bài chép trong Việt âm thi tập.

Theo nhận xét trong cuốn Thơ văn Lý Trần (tập 2, quyển thượng) do Nguyễn Huệ Chi, Trần Thị Băng Thanh, Đỗ Văn Hỷ và Trần Tú Châu biên soạn, thơ của Trần Anh Tông "giản dị, trong sáng, giàu tình cảm và trau chuốt. Niềm hào hứng của người chiến thắng, mang lại yên vui cho dân cũng như niềm tự tin, sự tỉnh táo của một nhà lãnh đạo tối cao phản ánh trong thơ ông. Đặc biệt, Anh Tông đã mở đầu cho dòng thơ vịnh sử của nước nhà. Trong số thơ này, thái độ khen chê những nhân vật lịch sử thể hiện sự tiếp thu có phê phán với quá khứ, đồng thời bày tỏ những quan điểm trị nước và cũng là nhân sinh quan của tác giả..."

Sách Thơ văn Lý-Trần cũng chép lại một số thi phẩm của Trần Anh Tông như sau:

Nhận định

Các tác giả Đại Việt sử ký toàn thư đã ca ngợi Trần Anh Tông là vị vua "sáng suốt, thận trọng về hình phạt" và " tính tình khiêm tốn hòa nhã, hòa mục với người trong họ, mọi việc của triều đình đều tự mình quyết đoán." Tuy nhiên, với nhãn quan Nho giáo, Toàn thư vẫn phê phán ông là quá mộ đạo Phật, rằng "vua khéo biết kế thừa, cho nên thời cuộc đi tới thái bình, chính trị trở nên tốt đẹp, văn vật chế độ ngày càng thịnh vượng, cũng là bậc vua tốt của triều Trần. Song tụ họp nhà sư trên núi Yên Tử, làm nhọc sức dân dựng gác Ánh Vân, thì chẳng phải là tỳ vết nhỏ trong đức lớn đó sao?" Trong bộ Việt giám thông khảo tổng luận (biên soạn vào thời Hậu Lê), sử gia Lê Tung cũng bàn rằng: "Anh Tông định cấp bậc triều ban của văn võ, đặt quy thức khoa cử của sĩ nhân; khi đại hạn thì soát ngục tha tù, năm đói to thì cho vay phát chẩn; trị đạo lấy nuôi dân làm kíp, chính sự lấy phong hiến làm đầu; văn vật chế độ một phen đổi mới, cũng đủ làm bậc vua giỏi của nhà Trần. Song theo bọn sa môn ở núi Yên Tử, làm nhọc sức dân xây gác Anh Vân, không phải là độ lượng của đế vương." Dưới góc nhìn của Phật giáo, tác giả Nguyễn Lang – Thiền sư Thích Nhất Hạnh có nhận xét trong cuốn Việt Nam Phật giáo Sử luận, tập 1, chương XII rằng: "Nhân Tông và Anh Tông là những nhà chính trị giỏi, nhưng đồng thời cũng là những Phật tử thật sự. Nhà phê bình lịch sử có thể nói họ lợi dụng đạo Phật cho chính trị nhưng nhà phê bình văn hóa cũng có thể nói họ là những người Phật tử sùng đạo."

Gia quyến

  • Cha: Trần Nhân Tông Trần Khâm.
  • Mẹ: Khâm Từ Bảo Thánh Hoàng hậu Trần Thị Trinh (欽慈保聖皇后 陳氏貞 ; ? - 1293), con gái Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn và Thiên Thành Trưởng Công chúa.

Hậu phi

Văn Đức Phu nhân Trần Thị (文德夫人), nguyên phối, cháu nội Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, con gái trưởng của Hưng Nhượng Đại vương Trần Quốc Tảng. Lập làm Thái tử phi năm 1292. Khi Anh Tông kế vị lại lập làm Văn Đức Phu nhân rồi lại phế đi. Không rõ kết cục.

Bảo Từ Thuận Thánh Hoàng hậu Trần Thị Phùng (陳氏豐) (保慈皇后; ? - 1330), con gái Hưng Nhượng Đại vương Trần Quốc Tảng, em gái Văn Đức Phu nhân. Anh Tông kế vị phong làm Thánh Tư Phu nhân (聖婆夫人) rồi Thuận Thánh Hoàng hậu (順聖皇后). Minh Tông kế vị tấn tôn làm Thuận Thánh Thái Thượng hoàng hậu (順聖皇太后).

Chiêu Từ Hoàng hậu Trần thị (昭慈皇后; ? - 1359), lúc còn nhỏ có danh hiệu Chiêu Hiến Quận chúa (昭賢郡主), nguyên là Huy Tư Hoàng phi (徽思皇妃) của Anh Tông, con gái duy nhất của Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng và Thụy Bảo Công chúa (con gái vua Trần Thái Tông), mẹ sinh Trần Minh Tông. Khi Minh Tông kế vị, bà được tôn làm Huy Tư Thái thượng hoàng phi (徽思太皇妃). Thụy hiệu của bà là Chiêu Từ Hoàng thái hậu (昭慈皇太后).

Đệ nhị cung phi Nguyễn Thị La, sinh ngày mồng 7 tháng 3 năm Bính Dần 1266, quê quán ở ấp Dưỡng Phúc nay là thôn Dưỡng Phú, xã Chính Nghĩa, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Hiện nay ở quê quán còn miếu thờ và khu lăng mộ của bà.

Từ Ý Thái Hòa Đệ Tam Cung phi Nguyễn Nguyệt Ảnh, sinh năm 1280, mất ngày 14 tháng 4 năm Mậu Tuất, Quê tại Trang Quang Lang nay là thôn Trang Lang Đông xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình trong một gia đình làm nghề muối. Từ nhỏ bà là người có tài mạo khác thường, học rộng, biết nhiều, nhan sắc hơn người,

Tĩnh Huệ Thứ phi Phạm Thị (静惠妃), con gái Phạm Ngũ Lão, không con, xuất gia năm 1309.

Giao Châu Thứ phi, có tư tình với Đoàn Nhữ Hài, triều đình luận án chém cả, nhưng được Huệ Túc Phu nhân Hoàng Chu Linh (phi tần của Trần Thái Tông) xin tha tội,sau được tác hợp với Đoàn Nhữ Hài.

Cung phi Đa La Thanh (德妃), con gái sư người Hồ là Du Chi Bà Lam.

Cung tần Trần Thị Thái Bình (賢妃陳太平) mẹ sinh của Huy Chân Công chúa, tính tình tham lam, từng chiếm ruộng đất của dân.

Nữ quan Vương thị (女官王氏) mẹ sinh của Huệ Chân công chúa, được yêu quý mà có thai, Bảo Từ Hoàng hậu cho Song Hương đường (phòng ngủ của mình) làm nơi đẻ. Tiếc rằng Vương thị bị bệnh hậu sản mà qua đời. Có Cung nhân tâu riêng với Anh Tông Vương thị là do Hoàng hậu hại chết, Anh Tông vốn biết tính Hoàng hậu, nổi giận lấy roi đánh người Cung nhân ấy, Hoàng hậu cũng bỏ qua không để lòng.

Nữ quan Nguyễn Thị Diên. Anh Tông có ý xuất gia nên sai cung nhân ăn chay. Các cung nhân đều ngần ngại, duy có nữ quan Nguyễn Thị Diên chặt ngón tay đem dâng. Thượng hoàng ngợi khen, ban cho 40 mẫu ruộng làm lương ăn tu hành ngày sau. Rồi Thị Diên quả nhiên đi tu cho đến lúc mất, Phật hiệu là Tịnh Quang.

Hậu Duệ

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trần Anh Tông** (chữ Hán: 陳英宗; 25 tháng 10 năm 1276 – 21 tháng 4 năm 1320) tên khai sinh là **Trần Thuyên** (陳烇), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Trần nước Đại
**Trần Minh Tông** (chữ Hán: 陳明宗 4 tháng 10 năm 1300 – 10 tháng 3 năm 1357) tên thật là **Trần Mạnh** (陳奣), là vị hoàng đế thứ năm của Hoàng triều Trần nước Đại
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Trần Thánh Tông** (chữ Hán: 陳聖宗 12 tháng 10 năm 1240 – 3 tháng 7 năm 1290), tên húy **Trần Hoảng** (陳晃) là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Trần nước Đại Việt, trị
**Trần Nhân Tông** (chữ Hán: 陳仁宗, 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308), tên khai sinh là **Trần Khâm** (陳昑), là vị hoàng đế thứ ba của nhà Trần nước Đại
**Minh Anh Tông** (chữ Hán: 明英宗, 29 tháng 11, 1427 – 23 tháng 2, 1464), là vị Hoàng đế thứ 6 và thứ 8 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì
**Trần Nghệ Tông** (chữ Hán: 陳藝宗) (20 tháng 12 năm 1321 – 6 tháng 1 năm 1395), tên húy là **Cung Định Vương Trần Phủ** (陳暊) hoặc **Trần Thúc Minh** (陳叔明), xưng hiệu **Nghệ Hoàng**
**Trần Duệ Tông** (chữ Hán: 陳睿宗, 30 tháng 6 năm 1337 – 4 tháng 3 năm 1377) tên thật là **Trần Kính** là vị hoàng đế thứ 10 của triều đại nhà Trần trong lịch
**Phạm Trấn** (chữ Hán: 范镇, 1007 – 1088), tự **Cảnh Nhân**, người huyện Hoa Dương, phủ Thành Đô , quan viên, nhà sử học đời Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Về chánh trị,
**Trần Anh Dũng** là Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát Thi hành án hình sự và Hỗ trợ Tư pháp, Bộ Công an (Việt
**Trần Dụ Tông** (chữ Hán: 陳裕宗) 22 tháng 11 năm 1336 – 25 tháng 5 năm 1369) là vị hoàng đế thứ 7 của triều đại nhà Trần nước Đại Việt, ở ngôi 28 năm
**Tống Anh Tông** (chữ Hán: 宋英宗, 16 tháng 2, 1032 - 25 tháng 1, 1067), thụy hiệu đầy đủ **Thể Càn Ứng Lịch Long Công Thịnh Đức Hiến Văn Túc Vũ Duệ Thánh Tuyên Hiếu
**Trần Thuận Tông** (chữ Hán: 陳順宗 1377 – 30 tháng 4 năm 1400) là vị hoàng đế thứ 12 và cũng là hoàng đế áp chót của triều Trần nước Đại Việt. Ông trị vì
nhỏ|Tiền thời Trần Hiến Tông. **Trần Hiến Tông** (chữ Hán: 陳憲宗 17 tháng 5 năm 1319 – 11 tháng 6 năm 1341) là vị hoàng đế thứ sáu của triều đại nhà Trần trong lịch
**Anh Tông** (chữ Hán: 英宗) là miếu hiệu của một số vua chúa trong lịch sử Việt Nam, Trung Quốc, và Triều Tiên. ## Việt Nam ### Hoàng đế *Lý Anh Tông *Trần Anh Tông
**Trần Anh Trà** (16 tháng 6 năm 1929 – 17 tháng 9 năm 2011) là một nhà quay phim, đạo diễn phim tài liệu Việt Nam, ông được biết đến là 1 trong 2 người
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
**Trần** () là một họ người Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Việt Nam, Hàn Quốc, Singapore và một số nơi khác trên thế giới. Họ Trần là họ phổ biến nhất tại miền Nam
**Trần Nhật Duật** (chữ Hán: 陳日燏, 1255 – 1330), được biết qua tước hiệu **Chiêu Văn vương** (昭文王) hay **Chiêu Văn đại vương** (昭文大王), là một nhà chính trị, quân sự Đại Việt thời Trần.
**Trần Liễu** (chữ Hán: 陳柳; 1210 - 1251), hay **An Sinh vương** (安生王) hoặc **Khâm Minh Đại vương** (欽明大王), một tông thất vương công thuộc hoàng tộc nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông
**Trần Thủ Độ** (chữ Hán: 陳守度, 1194 – 1264), cũng gọi **Trung Vũ đại vương** (忠武大王), là một nhà chính trị Đại Việt, sống vào thời cuối triều Lý đầu triều Trần trong lịch sử
**Huệ Vũ đại vương Trần Quốc Chẩn** (chữ Hán: 惠武大王陳國瑱; 1281 - 1328) là một chính trị gia và hoàng thân của triều đại nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông được đánh giá
**Trần Quang Khải** (chữ Hán: 陳光啓; 24 tháng 08 năm 1241 – 26 tháng 7 năm 1294), hay **Chiêu Minh Đại vương** (昭明大王), là một nhà chính trị, quân sự, tôn thất hoàng gia Đại
**Trần Khắc Chung** (, 1247 – 1330), biểu tự **Văn Tiết** (文節), là một nhân vật chính trị, quan viên cao cấp đời nhà Trần. Ông trải qua các triều Trần Nhân Tông, Trần Anh
**Lý Anh Tông** (chữ Hán: 李英宗 tháng 4 năm 1136 - 14 tháng 8 năm 1175) là vị hoàng đế thứ sáu của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1138
**Tôn giáo Đại Việt thời Trần** về cơ bản cũng giống như thời Lý, có ảnh hưởng lớn của Phật giáo. Tuy nhiên so với thời Lý, Nho giáo ngày càng có vai trò lớn
**Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng** (chữ Hán: 興讓王陳國顙, 1252 - 1313) một tông thất hoàng gia, tướng lĩnh quân sự Đại Việt thời Trần. Ông là con trai thứ ba của Hưng Đạo đại
**Trần Khánh Dư** (chữ Hán: 陳慶餘, 13 tháng 3, 1240 - 23 tháng 4, 1340), hiệu là **Nhân Huệ vương** (仁惠王), là một chính khách, nhà quân sự Đại Việt dưới thời đại nhà Trần.
**Văn học đời Trần** là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225-1400). ## Tổng quan văn học thời Trần Nước Việt dưới đời Trần xuất hiện nhiều
**Quân sự nhà Trần** phản ánh việc tổ chức quân đội của vuơng triều Trần trong lịch sử Việt Nam. Hoạt động quân sự nhà Trần diễn ra ở cả trong nước lẫn bên ngoài
**Ngoại giao Việt Nam thời Trần** phản ánh quan hệ ngoại giao của Việt Nam dưới triều đại nhà Trần từ năm 1226 đến năm 1400 trong lịch sử Việt Nam. ## Bối cảnh Năm
Am Mây Ngủ Năm 1306, Huyền Trân công chúa con gái vua Trần Nhân Tông, em gái vua Trần Anh Tông được gả cho Quốc vương Chiêm Thành là Chế Mân để đổi lấy hai
**Huyền Trân Công chúa ** (chữ Hán: 玄珍公主; sinh năm 1287, mất ngày 9 tháng 1 năm 1340), là công chúa đời nhà Trần, Hòa thân công chúa, là con gái của Trần Nhân Tông,
**Lê Anh Tông** (chữ Hán: 黎英宗 1532 - 22 tháng 1 năm 1573), tên húy là **Lê Duy Bang** (黎維邦), là hoàng đế thứ ba của Nhà Lê Trung hưng và là hoàng đế thứ
Combo 2 Cuốn Thích Nhất Hạnh Am Mây Ngủ Từng Bước Nở Hoa Sen 1.Am Mây Ngủ Năm 1306, Huyền Trân công chúa con gái vua Trần Nhân Tông, em gái vua Trần Anh Tông
**Viện Trần Nhân Tông** là một trong 5 viện nghiên cứu của Đại học Quốc gia Hà Nội được Thủ tướng Chính phủ thành lập, là đơn vị nghiên cứu chuyên sâu về Phật học,
**Trần Quang Triều** (chữ Hán: 陳光朝, 1287 -1325) còn có tên là **Nguyên Đào**, biệt hiệu là **Cúc Đường chủ nhân** (菊塘主人) và **Vô Sơn Ông** (无山翁), là một nhà chính trị, tôn thất hoàng
**Trần Anh Kim** là một nhân vật bất đồng chính kiến tại Việt Nam, cựu Trung tá Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông đã hai lần bị xử tù giam theo điều 79 BLHS,
**Trần Uất** (chữ Hán: 陳蔚; ? – ?), là một tông thất hoàng gia Đại Việt thời nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Trần Uất là con trai út của vua
Tập Đoàn Trần Anh Group (tên đầy đủ là Công ty Cổ phần Tập đoàn Trần Anh Long An, tên tiếng anh là TRAN ANH GROUP JOINT STOCK COMPANY), với bề dày kinh nghiệm hơn
Tập Đoàn Trần Anh Group (tên đầy đủ là Công ty Cổ phần Tập đoàn Trần Anh Long An, tên tiếng anh là TRAN ANH GROUP JOINT STOCK COMPANY), với bề dày kinh nghiệm hơn
**Trần Văn Bích** (Chữ Nho: 陳文壁 hay 陳文璧; ? – ?), là một tông thất hoàng gia Đại Việt thời nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Trần Văn Bích là con
**Trần Thì Kiến** (陳時見, 1260–1330?) người làng Cự Xạ, huyện Đông Triều, phủ Tân Hưng (nay là thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh). Ông từng là môn khách của Trần Hưng Đạo, và được
**Hiếu Túc Chu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝肅周皇后; 30 tháng 10, 1430 - 16 tháng 3, 1504), là một phi tần của Minh Anh Tông Chu Kỳ Trấn và là sinh mẫu của Minh Hiến
**Bùi Tông Quán** (chữ Hán: 裴宗瓘), có sách chép là **Bùi Tông Hoan** (裴宗驩), hiệu: **Thủy Hiên** (có sách chép là **Thúy Hiên**), không rõ năm sinh và năm mất; là nhà thơ Việt Nam
**Trần Anh Khoa** (28 tháng 7 năm 1991 – 4 tháng 12 năm 2024) là một huấn luyện viên và cựu cầu thủ bóng đá Việt Nam. Anh thi đấu từ năm 2013 đến 2015
**Trần Anh Vinh** (sinh 1954) là một tướng lĩnh trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, nguyên Tư lệnh Quân đoàn 1, nguyên Cục trưởng Cục Tác chiến, Bộ Tổng tham mưu
**Trần Anh Vinh** (1926–2016) là một kỹ sư mỏ và chính khách Việt Nam, từng giữ chức Quyền Bộ trưởng Bộ Mỏ và Than Việt Nam. ## Binh nghiệp Trần Anh Vinh sinh năm 1926
phải|Mỗi phần tử của một ma trận thường được ký hiệu bằng một biến với hai chỉ số ở dưới. Ví dụ, a2,1 biểu diễn phần tử ở hàng thứ hai và cột thứ nhất
**Võ thuật tổng hợp** hay **Võ thuật tự do** (Tiếng Anh: _mixed martial arts_, viết tắt **MMA**), đôi khi còn được gọi với cái tên **đấu lồng**, là một môn thể thao đối kháng toàn