✨Phạm Thận Duật

Phạm Thận Duật

Phạm Thận Duật (范慎遹, 1825–1885) là một nhà chính trị, nhà ngoại giao, một học giả và một trí thức lớn có tầm vóc của Việt Nam trong giai đoạn cuối thế kỷ thứ XIX. Ông đảm nhiệm nhiều phận sự từ thấp lên cao trong triều đình nhà Nguyễn dưới triều đại của vua Tự Đức và một số vị vua triều Nguyễn sau đó. Cùng với Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường, Ông là một thành viên chủ chốt của phái Chủ Chiến trong triều đình nhà Nguyễn, đã phò tá vua Hàm Nghi ra Sơn phòng Quảng Trị (Thành Tân Sở) lập căn cứ kháng chiến và góp phần quan trọng cho việc khởi động phong trào Cần Vương chống thực dân Pháp xâm lược.

Ngày 29 tháng 7 năm 1885, trong lúc chuẩn bị vượt biển ra Bắc để thực hiện sứ mệnh vua ban làm khâm sai đại thần lãnh nhiệm tổ chức phong trào kháng chiến chống Pháp tại các tỉnh phía Bắc Việt Nam, ông đã bị tay sai thân Pháp bắt cùng toàn bộ gia đình. Ông bị biệt giam tại nhà tù Côn Đảo trước khi bị đày đi biệt xứ ở đảo Tai-hi-ti. Vì bệnh trở nặng, ông đã qua đời giữa biển khơi, tại khu vực hải phận Mã lai (Malaysia) lúc tròn 60 tuổi.

Ông là một nhà văn hoá đa diện, có những đóng góp đặc biệt có giá trị trong các lĩnh vực nghiên cứu về dân tộc học, nhân học, ngôn ngữ học. Đồng thời ông cũng là một nhà sử học nổi tiếng, từng giữ chức vụ Phó tổng tài Quốc Sử Quán kiêm Quản Quốc Tử Giám, là người kiểm duyệt lần cuối bộ Quốc sử triều Nguyễn là Khâm định Việt sử thông giám cương mục.

Thân thế

Phạm Thận Duật có tên chữ là Quan Thành, hiệu là Vọng Sơn (tên một ngọn núi ở quê Ninh Bình của ông), quê ở làng Yên Mô Thượng, tổng Yên Mô, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình (nay thuộc xã Yên Mạc, tỉnh Ninh Bình). Ông sinh ngày 4 tháng 11 năm Ất Dậu (1825), dưới triều Minh Mạng, trong một gia đình nông dân nghèo, có truyền thống hiếu học. Năm 9 tuổi, ông học Nho học với thầy Vũ Phạm Khải ở làng bên, nhưng chỉ được vài ngày thì Vũ Phạm Khải phải lên đường vào kinh nhậm chức, Phạm Thận Duật đến học người cậu ruột là Nguyễn Hữu Văn. Sau đó theo học thầy đồ Phạm Tư Tề là người làng, ra Xuân Trường (Nam Định) mở trường dạy học. Sau 4 năm, ông quay về học Lục Khê cư sĩ Phạm Đức Diệu, người Nộn Khê cùng huyện Yên Mô, sau này trở thành nhạc phụ của ông. Lục Khê cư sĩ nhận thấy tư chất tốt của ông nên năm ông 21 tuổi đã đưa ông đến nhờ người bạn thân là Hoàng giáp Phạm Văn Nghị, người Nam Định khi ấy vừa cáo quan về quê mở trường dạy học.

Tiến thân trong quan trường

Năm 1850, ông thi đỗ Cử nhân ở trường Nam, năm sau vào dự thi Hội ở Huế nhưng không đỗ. Tuy nhiên, ông vẫn được triệu ra làm quan dưới triều Nguyễn thời Tự Đức.

Đầu tiên, ông được bổ làm giáo thụ huyện Đoan Hùng, rồi thăng Tri châu Tuần Giáo. Trong dịp này, ông đã viết cuốn Hưng Hóa ký lược vào năm 1856 với bút danh là Quan Thành.

Năm 1855, ông nhận chức Tri châu Tuần Giáo, tỉnh Hưng Hóa, được thăng Tòng lục phẩm. Năm 1857, ông thăng hàm Tri phủ tòng ngũ phẩm, đảm nhiệm Tri huyện Quế Dương và Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh. Một thời gian lại được thăng lên quan tỉnh, giữ các chức: Bang biện tỉnh vụ kiêm Đồn điền sứ, Án sát sứ, Bố chính sứ Bắc Ninh rồi quyền Tổng đốc Bắc Ninh.

Năm 1870-1871, ông tham gia diệt trừ thổ phỉ vùng biên giới trung du. Đến năm 1873, khi Pháp đánh ra Bắc Kỳ, ông được cử đi tiếp quản các tỉnh và cắt đặt quan chức lâm thời, sau đó về giữ chức quyền Tuần phủ Hà Nội. Năm 1874, ông được cử làm Tuần phủ Bắc Ninh, mở cuộc hành quân tiễu phạt thổ phỉ trên biên cương phía Bắc thắng lợi. Đến năm 1875, ông được cử làm Hộ lý cho Hiệp đốc Tôn Thất Thuyết, coi sóc việc hành chính hai tỉnh Bắc Ninh - Thái Nguyên, đóng ở Thái Nguyên.

Năm 1876, Phạm Thận Duật được triệu về Huế làm Tham tri Bộ Lại, kiêm Phó Đô sát ngự sử, được 4 tháng lại ra Bắc giữ chức Hà đê sứ, đôn đốc việc đắp đê Sông Hồng và chuyên lo về thủy lợi. Năm 1882, Phạm Thận Duật được cử làm Khâm sai Chánh sứ sang Thiên Tân cùng với Phó sứ Nguyễn Thuật và đoàn tùy tùng gần hai chục người. Năm 1884 về nước, ông chuyển từ Thượng thư Bộ Hình sang Thượng thư Bộ Hộ, thăng Hiệp biện Đại học sĩ kiêm Tham tri Bộ Công, góp phần xây dựng căn cứ Tân Sở (Quảng Trị) chuẩn bị chống Pháp.

Năm 1878, ông lĩnh quyền Thượng thư Bộ Hình, được sung vào Viện cơ mật, sau lại sung làm Phó Tổng tài Quốc Sử Quán, kiêm quản Quốc Tử Giám (tháng 11/1878). Năm 1879, Ông được sung vào làm Đại thần Viện Cơ mật và cũng cùng năm đó được cử làm quan Độc quyền khoa thi Đình. Đến năm 1882, được cử kiêm Sư bảo Dục Đức đường và Chánh Mông đường, thầy dạy cho 2 ông hoàng Ưng Chân và Ưng Đường, con nuôi của vua Tự Đức (sau này là vua Dục Đức và Đồng Khánh. Năm 1883, Phạm Thận Duật lĩnh chức Chánh sứ sang Thiên Tân (Trung Quốc) - GS.NGND Phan Huy Lê (Cố Chủ tịch Hội KHLS Việt Nam)

“Chúng ta ngỡ ngàng khi thấy ở thời điểm đó những phương pháp nghiên cứu tân tiến mà chúng ta chỉ thấy ở các học giả châu Âu đã xuất hiện trong các công trình như Hưng Hóa ký lược của ông. Đây là một trong những tác phẩm được coi là có giá trị rất lớn của Việt Nam lúc đó và được các học giả quốc tế đánh giá rất cao.” - GS. Nguyễn Hồng Phong (Cố Viện trưởng Viện Sử học)
"Điểm cuối cùng tôi muốn nêu lên là "Ông là ai?": nhà yêu nước chống ngoại xâm (theo đánh giá của GS. Nguyễn Hồng Phong), nhà văn hóa lớn, nhà chính trị - văn hóa (theo GS. Đinh Xuân Lâm), nhà văn hóa đa diện (theo NNC Nguyễn Văn Huyền), nhà sưu tầm dân tộc học (theo PGS. Bình Xuân Đính), nhà văn hóa xuất sắc, nhà chính trị (theo NNC Phạm Đình Nhân)... và nhiều danh hiệu khác rất xác đáng. Chỉ với Hưng Hóa ký lược, đóng góp của ông thật to lớn. Theo tôi, ông là nhà địa chí học, cụ thể hơn là địa chí học tộc người." - PGS. TS Lâm Bá Nam (Chủ tịch Hội Dân tộc học và Nhân học Việt Nam)
"Phạm Thận Duật là một nhà "kỹ trị" (theo nghĩa rộng của khái niệm này) và thực chứng, sử dụng tri thức và việc ra các quyết định hành chính, quân sự. Chúng ta có thể kiểm nghiệm tư tưởng này một cách sống động qua cách thức ông tổ chức và quản lý vùng biên vùng Hưng Hóa." - TS. Vũ Đức Liêm (Phó Trưởng khoa Lịch sử, Trường ĐHSP Hà Nội)
"Như nhiều trí thức Nho giáo đương thời, Phạm Thận Duật tìm kiếm các ý tưởng và thực hành "chí" của mình ở văn chương, chữ nghĩa thánh hiền. Tuy nhiên, để đạt được sự phát triển về tầm vóc tri thức, khả năng nhận biết các phương thức tư duy, khảo cứu và cập nhật tri thức trên nhiều lĩnh vực thì có lẽ Phạm Thận Duật nằm trong số ít các học giả cuối thế kỷ XIX vươn tầm ra ngoài lãnh thổ Đại Việt" - PGS.TS. Kathlene Baldanza (Pennsylvania State University)
“Công trình của Phạm Thận Duật về vùng Tây Bắc là ví dụ cho một xu thế dân tộc học chung ở Việt Nam trước nền cai trị thực dân Pháp.” -PGS.TS. Bradley Camp Davis (Eastern Connecticut State University)

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Phạm Thận Duật (_范慎遹_, 1825–1885)** là một nhà chính trị, nhà ngoại giao, một học giả và một trí thức lớn có tầm vóc của Việt Nam trong giai đoạn cuối thế kỷ thứ XIX.
**Phạm Tiến Duật** (1941 - 2007) là nhà thơ Việt Nam, được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật vào năm 2012 và được tặng Giải thưởng Nhà nước về
**Phạm** là một họ thuộc vùng Văn hóa Đông Á, phổ biến ở Việt Nam. Chữ Phạm ở đây theo tiếng Phạn cổ thì đó là chữ "Pha" hoặc chữ "Pho" có nghĩa là "Thủ
Nguyên Trưởng Ban Ban liên lạc họ Phạm toàn quốc Việt Nam TS. Phạm Khắc Di đã có 2 câu thơ khái quát tôn chỉ mục đích hoạt động của Họ Phạm chúng ta,
nhỏ|phải|Chân dung Vũ Phạm Khải **Vũ Phạm Khải** (chữ Hán: 武范啟, 1807 – 1872), là một vị quan tiến bộ của triều đình nhà Nguyễn, một trong những vị quan tích cực nhất trong phái
nhỏ|phải|Nội và ngoại thất đền thờ Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị **Phạm Văn Nghị** (chữ Hán: _范文誼_, 1805-1884) hiệu **Nghĩa Trai**; là một nhà giáo, nhà thơ và là một viên quan nhà
**Hòa ước Giáp Thân 1884** hay còn có tên là **Hòa ước Patenôtre** (phiên âm: Hòa ước Pa-tơ-nốt), là hòa ước cuối cùng nhà Nguyễn ký với thực dân Pháp vào ngày 6 tháng 6
thumb|_Ma cà rồng_, tranh vẽ bởi [[Philip Burne-Jones, 1897]] **Ma cà rồng** là cách gọi một sinh vật huyền huyễn được truyền tụng từ lâu trong ký ức dân gian, loài này được cho là
**Lãnh thổ Việt Nam qua từng thời kỳ** là sự biến đổi không gian sinh tồn của người Việt. Sự biến đổi này mang tính chất phức tạp, lúc bị mất lãnh thổ về các
**Chiến tranh Pháp – Đại Nam** hoặc **chiến tranh Pháp – Việt**, hay còn được gọi là **Pháp xâm lược Đại Nam** là cuộc xung đột quân sự giữa nhà Nguyễn của Đại Nam và
**Đồng Khánh Đế** (chữ Hán: 同慶 19 tháng 2 năm 1864 – 28 tháng 1 năm 1889), tên húy là **Nguyễn Phúc Ưng Thị** (阮福膺豉) và **Nguyễn Phúc Ưng Đường** (阮福膺禟 ), lên ngôi lấy
**Trần Đình Liêm** (1828-1879) là một thượng quan dưới triều vua Tự Đức. Trọng tâm hoạt động của ông là lãnh vực hình luật, điều tra, xử án. Sau này ông cũng làm tham mưu
**Trận kinh thành Huế năm 1885** là một sự kiện chính trị, một trận tập kích của quân triều đình nhà Nguyễn do Tôn Thất Thuyết chỉ huy đánh vào lực lượng Pháp. Sự kiện
**Phạm Văn** (tiếng Trung: 范文, ?-349) là vị vua mở đầu triều đại thứ hai của Lâm Ấp sau triều đại thứ nhất do Khu Liên thành lập. ## Tiểu sử ### Thân thế Ông
**Lê Thái Tổ** (chữ Hán: 黎太祖 10 tháng 9 năm 1385 – 5 tháng 10 năm 1433), tên thật là **Lê Lợi** (黎利) là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo quân sự, người đã
**Nguyễn Thành Ý** (chữ Hán: 阮誠意, 1820-1897), tự là **Thiện Quan**, hiệu là **Túy Xuyên**, là một quan đại thần triều Nguyễn. Ông được xem là vị lãnh sự ngoại giao đầu tiên của Đại
nhỏ|Trần Đức Anh Sơn năm 2017. **Trần Đức Anh Sơn** (sinh ngày 16 tháng 9 năm 1967 tại Huế) là nhà nghiên cứu trong lĩnh vực sử học, khảo cổ học, văn hóa học... ở
Đây là bản dịch tiếng Việt của tham luận (bằng tiếng Anh) của TS. Trần Đức Anh Sơn đã viết để tham gia “Conference on Nguyen Vietnam: 1558 – 1885” (Hội thảo về nhà Nguyễn
:_Bài này nói về một tỉnh cũ ở Việt Nam. Xem các nghĩa khác tại Hưng Hóa (định hướng)_ **Hưng Hóa** (Hán-Việt: 興化省) là một tỉnh cũ của Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ
_Đối với các định nghĩa khác, xem_ _Ninh Bình (định hướng)._ **Ninh Bình** là tỉnh nằm ở cửa ngõ phía Nam của thủ đô Hà Nội và thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng, miền Bắc,
**Người Thái** với tên tự gọi là _Tay/Tày/Thay/Thày_ () tùy thuộc vào cách phát âm của từng khu vực. Các nhóm, ngành lớn của người Thái tại Việt Nam bao gồm: **Tay Đón** (Thái Trắng),
**Thanh vương** **Trịnh Tráng** (chữ Hán: 鄭梉, 6 tháng 8 năm 1577 – 28 tháng 5 năm 1657), thụy hiệu **Văn Tổ Nghị vương** (文祖誼王), là chúa Trịnh thứ 2 thời Lê Trung hưng chính
**Tôn Thất Đính** (chữ Hán: 尊室訂; 15 tháng 7 năm 1812 – 5 tháng 7 năm 1893) là một võ quan đề đốc nhà Nguyễn dưới thời vua Tự Đức. Ông thuộc dòng tông thất
**Ngũ Hành Sơn** là một quận cũ thuộc thành phố Đà Nẵng, Việt Nam. ## Địa lý Một góc quận Ngũ Hành Sơn nhìn từ trên cao Quận Ngũ Hành Sơn nằm ở phía đông
**Thủ Đức** là một thành phố cũ thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Tiền thân của thành phố Thủ Đức là huyện Thủ Đức cũ trước khi bị chia tách thành ba quận
**Cầu Giấy** là một quận nội thành cũ thuộc thành phố Hà Nội, Việt Nam. ## Địa lý Quận Cầu Giấy nằm ở phía tây trung tâm thành phố Hà Nội, có vị trí địa
**Nguyễn Thuật** (1842-1911), tự: **Hiếu Sinh**, hiệu: **Hà Đình**; là danh sĩ và là danh thần triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp **Nguyễn Thuật** sinh ngày 13 tháng
**Nguyễn Khoa Điềm** (tên khác là **Nguyễn Hải Dương**; sinh 15 tháng 4 năm 1943) là một nhà thơ, nhà chính trị Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung
**Hà Nam Ninh** là một tỉnh cũ của Việt Nam, tồn tại từ năm 1975 đến năm 1991. Địa giới hành chính tỉnh Hà Nam Ninh tương ứng với tỉnh Ninh Bình ngày nay. ##
**Nguyễn Giản Tông** (chữ Hán:阮簡宗; 12 tháng 2 năm 1869 – 31 tháng 7 năm 1884), tên thật là **Nguyễn Phúc Ưng Đăng** (阮福膺登), là vị hoàng đế thứ bảy của triều đại nhà Nguyễn
**Học phi Nguyễn Văn thị** (chữ Hán: 學妃阮文氏, ? - 1893), còn gọi là **Huy Thuận Học phi** (徽順學妃), là một phi tần của Nguyễn Dực Tông Tự Đức và là mẹ nuôi của Nguyễn
**Hòa Thạc Hàm Thân vương** (chữ Hán: 和碩諴親王, ) là tước vị Thân vương truyền đời của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Khái quát Thủy tổ của Hàm vương phủ là Dận
**Chiến tranh Pháp – Thanh** là cuộc chiến giữa Đệ tam Cộng hòa Pháp và Đế quốc Đại Thanh, diễn ra từ tháng 9 năm 1884 tới tháng 6 năm 1885. Cuộc chiến nổ ra
Lê Lợi (tức Lê Thái Tổ) đã cho khắc hai bài thơ lên vách đá, một ở núi Pú Huổi Chỏ (nay thuộc xã Lê Lợi, huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu), một ở núi
**Hồ Văn Hiển** (1825-1885) là một võ quan của nhà Nguyễn. Ông là một trong những chỉ huy quân Đại Nam tấn công bất thành đồn Mang Cá dẫn đến thất thủ kinh đô Huế
**Yên Thịnh** là thị trấn huyện lỵ của huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, Việt Nam. ## Địa lý Thị trấn Yên Thịnh cách trung tâm thành phố Hoa Lư 14 km, có vị trí địa
**Nguyễn Cao** (1837 - 1887), tên đầy đủ là **Nguyễn Thế Cao**, hiệu là _Trác Hiên_; là một danh tướng nhà Nguyễn và là một nhà thơ Việt Nam ở thế kỷ 19. ## Tiểu
**Ku Su Jeong** (Hangul: 구수정) (sinh 1966) là một nữ ký giả người Hàn Quốc. Bà là Tiến sĩ ngành Lịch sử Việt Nam, phó chủ tịch thường trực của Quỹ hòa bình Hàn-Việt. Ku
nhỏ|phải| Phủ Lâm An (臨安府) là một phủ cũ của tỉnh Vân Nam Trung Quốc nằm bên cạnh các địa danh An Nam (Cửu Chân, Giao chỉ), Cảnh Hồng,... **Lâm An** (臨安) là một phủ
**Mường Tè** là một huyện miền núi nằm ở phía tây tỉnh Lai Châu, Việt Nam. ## Địa lý ### Vị trí địa lý Huyện Mường Tè nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Lai Châu,
### I. Tổng quan nhỏ|291x291px|Logo chính thức của Hội Được thành lập ngày 07 tháng 09 năm 2001 theo Quyết định số **54/2001/QĐ-BTCCBCP** của Ban tổ chức - cán bộ chính phủ, **Hội Khoa học
**Đường Trường Sơn** hay **đường mòn Hồ Chí Minh** () là một tuyến Hậu cần chiến lược bao gồm mạng lưới giao thông quân sự, chạy từ lãnh thổ miền Bắc Việt Nam vào tới
**Rồng** (chữ Nôm: 𧍰, 𧏵, hay 蠬) hay **Long** (chữ Hán: 龍) là sinh vật thần thoại khổng lồ sở hữu phép thuật xuất hiện trong văn hóa dân gian ở nhiều nơi trên thế
**_Bài thơ về tiểu đội xe không kính_** là một tác phẩm của nhà thơ Phạm Tiến Duật sáng tác năm 1969. Bài thơ khắc họa hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến
**Đặng Văn Long**, tự **Tử Vân**, một tướng lĩnh cao cấp của phong trào Tây Sơn . ## Xuất thân và võ nghệ Đặng Văn Long tự là Tử Vân quê ở làng Đại An
**Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật** là 1 trong 2 lĩnh vực của Giải thưởng Nhà nước, do Chủ tịch nước Việt Nam ký quyết định, tặng thưởng cho những tác giả
**Huy Du**, tên đầy đủ là **Nguyễn Huy Du** (1 tháng 12 năm 1926 - 17 tháng 12 năm 2007) là một nhạc sĩ chuyên về nhạc đỏ của Việt Nam, nổi tiếng với các
thumb|Văn phòng Hội tại Hà Nội **Hội Nhà văn Việt Nam** là một tổ chức của những người Việt Nam hoạt động sáng tác, dịch thuật và phê bình văn học. Tổ chức được thành
Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật được trao cho tác giả của các lĩnh vực âm nhạc, văn học, sân khấu, mỹ thuật, nhiếp ảnh, múa, điện ảnh, văn nghệ dân
**Đỗ Chu (Chu Bá Bình)** là một nhà văn Việt Nam nổi tiếng thuộc thế hệ các tác giả trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ông đã được tặng Giải thưởng Nhà nước