✨Nguyễn Văn Thị Hương

Nguyễn Văn Thị Hương

Học phi Nguyễn Văn thị (chữ Hán: 學妃阮文氏, ? - 1893), còn gọi là Huy Thuận Học phi (徽順學妃), là một phi tần của Nguyễn Dực Tông Tự Đức và là mẹ nuôi của Nguyễn Giản Tông Kiến Phúc hoàng đế trong lịch sử Việt Nam.

Người ta cho rằng bà có mối quan hệ tư thông với Nguyễn Văn Tường, một trong hai đại thần phụ chính quyền lực nhất Việt Nam lúc đó và là nguyên nhân dẫn đến cái chết đầy bí ẩn của Kiến Phúc.

Tiểu sử

Xuất thân

Tên thật của bà là Thị Hương (氏香), lại có tên là Thị Nguyệt (氏月), sinh ngày 12 tháng giêng mà không rõ năm, quê ở thôn An Đức, xã Bảo Lộc, huyện Bảo An, tỉnh Vĩnh Long. Bà là cháu nội của Hoàng Trung hầu Nguyễn Văn Trọng, làm quan dưới 3 triều Gia Long (1802 - 1820), Minh Mạng (1820 - 1840) và Thiệu Trị (1840 - 1847), là con gái của ông Nguyễn Văn Tuấn và bà Lê Thị Nữ. Dưới thời Tự Đức, cha của bà cũng là một vị quan của triều đình, và đã được ban tặng chức Nghiêm Oai tướng quân.

Theo gia phả của dòng họ Nguyễn Văn, hiện lưu giữ tại nhà ông Nguyễn Văn Song, tổ 11, khu vực 3, phường Thủy Xuân, thành phố Huế, thì bà có ba người anh em trai là Nguyễn Văn Huy, Nguyễn Văn Diệu và Nguyễn Văn Giai. Trong đó anh trai Nguyễn Văn Huy làm chức Phó vệ úy và em trai là Phò mã Đô úy.

Phi tần của Tự Đức

Năm Tự Đức thứ 14 (1861), Nguyễn Văn Thị Hương xuất thân trong một gia đình quyền quý, danh gia vọng tộc, lại có sắc đẹp mê hồn. Sau khi được tiến cung bà đã khiến cho Tự Đức, một người yêu thơ ca, hết sức mê đắm và sủng ái. Xiêu lòng trước nhan sắc của bà, nên không lâu sau khi vào cung, Tự Đức đã sắc phong cho bà giai hàm là Lượng tần (諒嬪). Căn cứ vào việc định rõ thứ bậc ở nội cung dưới thời Minh Mạng thì Lượng tần ở vào bậc thứ 4 trong hệ thống Cửu giai, gọi là Tứ giai Lượng tần (四階諒嬪).

Năm Tự Đức thứ 23 (1870), bà được tấn phong làm Nhị giai Khiêm phi (二階謙妃). Cũng trong năm này, theo lệnh Tự Đức, Khiêm Phi Nguyễn Văn Thị Hương nhận con trai thứ hai của Kiên Quốc công là Nguyễn Phúc Ưng Đăng, lúc này mới lên 2 tuổi, làm con nuôi. Từ khi được phong làm Khiêm phi, bà càng ngày càng được Tự Đức sủng ái vô cùng thương yêu.

Năm Tự Đức thứ 27 (1874), Hoàng đế sắc phong cho bà hàm Nhất giai Học phi (一階學妃). Khi ấy, địa vị của bà chỉ đứng sau bà Hoàng quý phi Võ Thị Duyên (chức vị cao nhất trong hậu cung lúc bấy giờ), ngang với Thiện phi Nguyễn Thị Cẩm.

Tấm sắc phong này hiện nay vẫn được dòng họ Nguyễn Văn lưu giữ một cách trân trọng tại phường Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một tấm sắc phong có giá trị với hình thức sang trọng, được thêu hình chim phụng trên nền lụa vàng, chữ viết bằng chữ Hán, nét chân phương. Nội dung của tấm sắc phong:

:"Đoái nghĩ Khiêm phi Nguyễn Văn Thị khoan thai trinh tiết- nết hạnh khoan thai, con cái bậc huân thần, răn bảo nết na, phép khuôn nơi cung cấm, chăm lo kính cẩn, sớm được mến thương Khiêm cung gắng giữ. Một lòng kính cẩn, cần mẫn lo toan. Tốt lành một lòng giữ tiết, được trên soi xét. Ân sủng nhất giai hiển vinh, cần được thưởng khen. Nay đặc biệt phong ngươi là Học phi, để ngươi: Cẩn đội sủng ân, kính tuân phép tắc. Lo toan dạy bảo, để sửa sang lề lối nội cung tràn thấm trạch ân, giữ sủng ân trước sau chiếu cố..."

Hoàng thái phi

Năm Tự Đức thứ 36 (1883), ngày 16 tháng 6 (tức ngày 19 tháng 7 dương lịch), Tự Đức băng hà. Hoàng đế đã lập di chiếu truyền ngôi lại cho Hoàng trưởng tử Ưng Chân, tức Nguyễn Cung Tông, hay thường gọi là Dục Đức. Theo di chiếu của Tự Đức, sau khi Tiên đế qua đời thì bà Học phi Nguyễn Văn Thị Hương và bà Thiện phi Nguyễn Thị Cẩm lên sống ở Khiêm Lăng để lo toan việc hương khói và cúng kỵ.

Cứ ngỡ rằng cuộc đời bà cứ thế bình lặng trôi qua ở Khiêm Lăng cho đến hết đời, nhưng do đây là thời kì lịch sử đầy biến động, thế sự khó lường với sự kiện Tứ nguyệt Tam vương, với thân phận là một người tần phi, mẹ của hoàng tử, bà Học phi không thể thoát khỏi vòng xoáy của các diễn biến chính trị thời bấy giờ. Dưới sự chuyên quyền của phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, Tự quân (cách gọi khi ấy của đại thần đối với Dục Đức) chỉ nhận ngôi được 3 ngày thì phế, thậm chí ông còn chưa kịp làm lễ lên ngôi. Con út của Nguyễn Hiến Tổ Thiệu Trị, là Hiệp Hòa lên thay cũng chỉ được 4 tháng rồi bị bức tử mà chết.

Ngày 1 tháng 12 năm đó (1883), hoàng tử thứ ba của Tự Đức tự là Ưng Đăng vâng theo ý chỉ của Từ Dụ Hoàng thái hậu lên ngôi, lấy niên hiệu là Kiến Phúc. Khi ấy, Tân hoàng đế chỉ vừa tròn 15 tuổi. Cuộc đời Học phi lại một lần nữa được thăng hoa, bởi khi Kiến Phúc vừa lên ngôi đã cho đón bà vào cung và đưa bà lên một địa vị mới quan trọng và đầy quyền lực, đó là Hoàng thái phi.

Kiến Phúc sai bàn định điển lễ tấn tôn Hoàng thái hậu, Hoàng thái phi và làm sách vàng, con dấu vàng. Lúc này, các bậc hoàng thân vương công và đình thần cùng dâng lời tâu xin theo di chiếu tấn tôn Khiêm hoàng hậu Võ thị - chính thất của Tự Đức - lên làm Trang Ý Hoàng thái hậu, và tôn Học phi Nguyễn Văn thị làm Hoàng thái phi. Hoàng đế liền xin ý chỉ của Từ Dụ Thái hoàng thái hậu và được chuẩn y. Các công tác liên quan đến việc sắc phong cho Học phi đã được chuẩn bị, dự định sau khi mãn tang triều đình sẽ cử hành nghi lễ. Tờ chiếu viết rằng

Vì vậy, mặc dù đến tháng 3 sang năm (1885) bà mới chính thức được tấn tôn nhưng thời gian này các đình thần đã mặc nhiên xem bà là Hoàng thái phi được hưởng mọi quyền lợi và bổng lộc như một Hoàng mẫu, sinh mẫu của Hoàng đế. Trong cung, bà cùng với Trang ý Hoàng thái Hậu và Từ Dụ Thái hoàng thái hậu hợp lại gọi là Tam Cung (三宮), là những người phụ nữ có quyền lực nhất trong triều đình Nguyễn lúc bấy giờ. Theo đó, cứ vào ngày sinh nhật của bà, triều đình tổ chức một cuộc lễ mừng rất trọng thể gọi là Diên Xuân tiết, nghi lễ không khác gì một Hoàng thái hậu vậy.

Kết cục

Vua Kiến Phúc mất vào ngày 31 tháng 7 năm sau (1884). Khi ấy, nội cung và dân chúng cho đến ngày nay vẫn lưu truyền một nghi án cho rằng: Học phi, mẹ nuôi của Kiến Phúc có tư tình với Phụ chính Đại thần Nguyễn Văn Tường, hai người đã âm mưu đầu độc Kiến Phúc khi Hoàng đế đang lâm trọng bệnh.

Cái chết của Kiến Phúc chỉ được ghi chép vắn tắt trong Đại Nam thực lục, một bộ chính sử của triều Nguyễn: "Giáp Thân, năm Kiến Phúc thứ 1 (1884), ngày mồng 10 Nhâm Ngọ, bệnh kịch, giờ ngọ hôm ấy Đế mất ở chính tẩm điện Càn Thành". Tuy nhiên trong gia phả của Hoàng tộc Nguyễn (Nguyễn Phúc tộc thế phả) đã đề cập rất cụ thể về vụ án này. Nguyễn Phúc tộc Thế phả viết:

:"Một hôm, nhân vua bị bệnh, Tường ban đêm tự tiện vào thăm rồi ngồi nói chuyện với Học phi, vua nhìn thấy quở mắng Tường: "Thấy đừng tưởng gươm nhà Nguyễn không sắc". Tường thấy nguy bèn đến Thái Y viện bốc một thang thuốc dâng lên. Hôm sau thì vua mất".

Chuyện có hay không mối quan hệ mờ ám giữa bà Học phi và quan Đại thần Nguyễn Văn Tường vẫn còn được bàn cãi cho đến ngày nay.

Sau khi Kiến Phúc và Hàm Nghi mất, bà Hoàng thái phi bèn vời các hoàng thân gồm Miên Định, Hồng Hưu cùng đại thần Phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và Phạm Thận Duật truyền di chúc của tiên vương, lập Công tử Ưng Lịch lên nối ngôi, trở thành vua Hàm Nghi. Theo lẽ đáng lý Kiến Phúc qua đời, thì phải lập ông Chánh Mông (Đồng Khánh sau này) là con nuôi còn lại của Tự Đức lên ngôi; về tình thì cũng là anh em một cha một mẹ với Kiến Phúc, sống chung với nhau từ nhỏ. Còn Hàm Nghi vừa không phải Hoàng tử, không có danh nghĩa gì. Mà đây là từ lời miệng của bà Hoàng thái phi, chưa rõ thật sự vua Kiến Phúc có di chúc như thế không.

Sau biến loạn kinh thành năm 1885, bà theo triều đình lên Quảng Trị một thời gian rồi lại theo Thái hoàng Thái hậu trở về Huế. Vì triều đình không đón được vua Hàm Nghi về, ông Chánh Mông lại được lập lên ngôi lấy niên hiệu là Đồng Khánh. Vì trước kia bà đã tuyên bố di chúc của Kiến Phúc lập Hàm Nghi chứ không lập Đồng Khánh, nên khiến ông này bất bình. Ít lâu sau, triều đình bèn lấy lý do rằng huy hiệu Hoàng thái phi của bà là do quyền thần tự tấn tôn chứ không phải là di mệnh của tiên triều nên cho đình lại giáng về vị thứ Học phi như cũ, đồng thời Diên Xuân tiết và tên húy cũng cho hủy đi. Từ đó về sau, không thấy sử sách đề cập gì về cuộc đời của bà nữa.

Lăng mộ

Những người cháu, chắt của bà cho biết có lẽ sau khi Kiến Phúc mất thì khoảng 2-3 năm sau bà cũng bệnh mà chết, chấm dứt cuộc đời huy hoàng nhưng không ít thăng trầm của một bà phi trong cung nhà Nguyễn.

Điều may mắn đối với bà là Học phi Văn Thị Hương được thờ chung với các phi tần khác của Tự Đức ở Chí Khiêm đường (nay chuyển đến Lương Khiêm Điện, Khiêm Lăng – lăng của Tự Đức). Lăng của bà toạ lạc tại làng Dương Xuân Thượng, tỉnh Thừa Thiên – Huế (cách thành phố Huế 7 km về hướng Tây). Lăng nằm khiêm tốn trên một quả đồi nhỏ về phía Tây Bắc của lăng Tự Đức. Cấu trúc của lăng mang nhiều đặc điểm tương đồng với các lăng hoàng hậu khác ở Huế với 3 tầng sân ở phía trước, hai lớp bửu thành bao bọc, bên trong có nhà bia, tẩm, bình phong tiền, bình phong hậu. Tuy nhiên các chi tiết trang trí ở bình phong, nhà bia thể hiện sự vụng về, thiếu chỉn chu của một công trình thuộc kiến trúc cung đình. Đường nét ghép các mảnh không được sắc sảo, một khác biệt so với các lăng tẩm của các hoàng hậu khác. Đặc biệt nhà bia của khu lăng thiết trí một tấm bia bằng đá Thanh, nhưng nội dung của bia không rõ ràng và hoàn toàn khác biệt so với các bia đá thông thường thuộc quần thể di tích triều Nguyễn. Tấm bia chỉ ghi vỏn vẹn một dòng chữ Hán: 前朝學妃阮文氏谥徽順之寢 (Tiền triều Học phi Nguyễn Văn thị thụy Huy Thuận chi tẩm - Tẩm của bà Học phi họ Nguyễn Văn thị thụy Huy Thuận thuộc tiền triều). Ngoài ra, mặc dù đã tìm kiếm rất cẩn thận nhưng cũng không thể nào tìm thấy dòng lạc khoản nào ghi lại ngày dựng lăng, lập mộ.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Học phi Nguyễn Văn thị** (chữ Hán: 學妃阮文氏, ? - 1893), còn gọi là **Huy Thuận Học phi** (徽順學妃), là một phi tần của Nguyễn Dực Tông Tự Đức và là mẹ nuôi của Nguyễn
**Nguyễn Nhược Bích** (chữ Hán: 阮鄀碧; 1830 – 1909), biểu tự **Lang Hoàn** (嫏嬛), phong hiệu **Tam giai Lễ tần** (三階禮嬪), là một phi tần của vua Tự Đức nhà Nguyễn. Bà nổi tiếng là
**Nguyễn Đình Thi** (1924–2003) là một nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, nhà phê bình văn học, chính trị gia Việt Nam thời hiện đại. Ông là đại biểu Quốc hội các khóa I, II,
thumb|Mỹ Lương Công chúa, húy là [[Nguyễn Phúc Tốn Tùy|Tốn Tùy - chị gái Vua Thành Thái, và hai nữ hầu.]] **Hậu cung nhà Nguyễn** là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Phaolô Nguyễn Văn Bình** (1 tháng 9 năm 1910 – 1 tháng 7 năm 1995) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Tổng giám mục Tiên khởi của Tổng
**Nguyễn Văn Vĩnh** (chữ Hán: 阮文永; 1882 – 1936) là nhà tân học, nhà báo, nhà văn, nhà phiên dịch Việt Nam, nhà chính trị Việt Nam đầu thế kỷ 20. Khi viết bài, ông
nhỏ|phải|Tượng Chưởng Trung Quân Nguyễn Văn Thành được tôn trí thờ sau 1868 tại một ngôi miếu cận Đại Nội Huế**Nguyễn Văn Thành** (chữ Hán: 阮文誠; 1758–1817) thiếu thời đã theo cha chinh chiến, về
**Nguyễn Văn Tường** (chữ Hán: 阮文祥; 1824–1886), là đại thần phụ chính của nhà Nguyễn. ## Tên họ và thi cử Ông xuất thân từ một gia đình lao động nghèo thuộc làng An Cư,
**Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận** (17 tháng 4 năm 1928 – 16 tháng 9 năm 2002) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách cương vị
**Nguyễn Văn Linh** (tên khai sinh: **Nguyễn Văn Cúc;** 1 tháng 7 năm 1915 – 27 tháng 4 năm 1998) là Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam giai
**Nguyễn Văn Thương** (22 tháng 5 năm 1919 – 5 tháng 12 năm 2002) là một nhạc sĩ, nhà giáo, nghệ sĩ người Việt Nam. Có tác phẩm đầu tay từ năm 17 tuổi vào
**Nguyễn Văn Lý** (chữ Hán: 阮文理; 1795-1868), húy **Dưỡng**, thường được gọi là **"Cụ Nghè Đông Tác"**, tự **Tuần Phủ**, hiệu **Chí Đình**, **Chí Am**, **Chí Hiên**, biệt hiệu **Đông Khê**, là một danh sĩ,
Xem bảng danh sách những người thi đỗ Trường Nam Định, khoa Đinh dậu 1897. **Thi Hương** là một khoa thi liên tỉnh, theo lệ 3 năm tổ chức 1 lần về nho học do
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Nguyễn Chánh Thi** (1923-2007) nguyên là một cựu tướng lĩnh gốc Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ một trường Võ bị Địa phương do
**Phêrô Nguyễn Văn Khảm** (sinh ngày 2 tháng 10 năm 1952) là một Giám mục Công giáo người Việt. Ông hiện đảm nhận vai trò Giám mục Chính tòa Giáo phận Mỹ Tho, Chủ tịch
**Nguyễn Văn Huy** (sinh ngày 3 tháng 8 năm 1945) là một nhà nghiên cứu dân tộc học Việt Nam, cựu Giám đốc Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam Năm 1967, ông tốt nghiệp
**Nguyễn Văn Giáp** (1837 -1887), tục gọi là **Bố Giáp** (vì ông từng làm chức Bố chính tỉnh Sơn Tây), là một lãnh tụ và danh tướng trong phong trào Cần Vương ở vùng Tây
**Jayaatu Khan Nguyên Văn Tông** (1304 - 1332), tên thật là **Borjigin Töbtemür** (tiếng Mông Cổ: Заяат хаан, Jayaγatu qaγan; chữ Hán:元文宗; phiên âm Hán Việt: **Bột Nhi Chỉ Cân Đồ Thiếp Mục Nhi**) là
**Văn Mai Hương** (sinh ngày 27 tháng 9 năm 1994) là một nữ ca sĩ người Việt Nam. Cô bắt đầu được biết đến sau khi tham gia và đoạt ngôi vị á quân của
**Nguyễn Văn Thể** (sinh ngày 27 tháng 11 năm 1966) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông nguyên là Bí thư Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương. Ông từng là Bộ
**Nguyễn Văn Thông** (30 tháng 11 năm 1926 – 25 tháng 9 năm 2010) là một đạo diễn, nhà văn và biên kịch điện ảnh người Việt Nam, Đại tá Quân đội nhân dân Việt
**Nguyễn Văn Trỗi** (1 tháng 2 năm 1940 – 15 tháng 10 năm 1964) là một chiến sĩ biệt động thành phố Sài Gòn, đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, đã
Thống chế Điều bát **Nguyễn Văn Tồn** (Chữ Hán: 阮文存, 1763–1820) là một danh tướng và nhà khai hoang đầu thời nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông là người có công lớn trong
**Nguyễn Văn Siêu** (chữ Hán: 阮文超, 1799 - 1872), ban đầu tên là **Định**, sau đổi là **Siêu**, còn gọi là **Án Sát Siêu**, tự: **Tốn Ban**, hiệu: **Phương Đình**, là nhà thơ, nhà nghiên
**Nguyễn Thị Hương** (sinh năm 2001) là vận động viên đua thuyền người Việt Nam. Cô từng giành 8 huy chương vàng tại các kì Đại hội thể thao Đông Nam Á và tham dự
**Đa Minh Nguyễn Văn Mạnh** (sinh năm 1955) là một giám mục người Việt của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông hiện giữ chức giám mục chính tòa Giáo phận Đà Lạt. Trước đó, ông
**Nguyễn Văn Phương** (sinh ngày 29 tháng 12 năm 1970) là chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Phó Bí thư Thành ủy, Bí thư Ban Cán
**Nguyễn Văn Trương** (; 1740 - 1810), là một trong Ngũ hổ tướng Gia Định, và là một danh tướng của chúa Nguyễn Phúc Ánh trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự
**Nguyễn Văn Xuân** (1921-2007), là một học giả, nhà văn và nhà giáo Việt Nam. ## Tiểu sử **Nguyễn Văn Xuân** sinh ngày 10 tháng 5 năm 1921 tại làng Thanh Chiêm, xã Điện Phương,
**Nguyễn Văn Giao** (chữ Hán: 阮文交; 1811-1863), hiệu **Quất Lâm** (橘林), tự là **Đạm Như**, là một danh sĩ Việt Nam thế kỷ 19. ## Cuộc đời và sự nghiệp Theo Gia phả gia tộc,
**Phêrô Nguyễn Văn Viên** (sinh 1965) là một giám mục người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma. Ông hiện đảm nhận vai trò giám mục phụ tá của Giáo phận Vinh Ông cũng
**Nguyễn Phúc Hồng Y** (chữ Hán: 阮福洪依, 11 tháng 9 năm 1833 – 23 tháng 2 năm 1877), tôn hiệu **Thụy Thái vương** (瑞太王) (còn được đọc trại thành **Thoại Thái vương**), biểu tự **Quân
**Nguyễn Văn Út** (sinh ngày 30 tháng 12 năm 1969) là chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Phó Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Ban Cán
**Nguyễn Văn Huyên** (1905-1975) là một giáo sư, tiến sĩ, nhà sử học, nhà dân tộc học, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Ông cũng là người giữ chức vụ Bộ
phải|Anh hùng, phi công **Nguyễn Văn Cốc** trên khoang lái máy bay **Nguyễn Văn Cốc** (sinh năm 1942), là Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân,
**Phêrô Nguyễn Văn Nhơn** (sinh ngày 1 tháng 4 năm 1938) là một hồng y, giám mục Công giáo người Việt Nam. Ông hiện đảm nhận tước vị Hồng y Đẳng Linh mục Nhà thờ
**Nguyễn Văn Nên** (sinh ngày 14 tháng 7 năm 1957) là một nhà chính trị người Việt Nam. Ông hiện là Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
**Vũ Thị Hương** (sinh năm 1986) là một cựu vận động viên chạy nước rút người Việt Nam. Do thành tích thi đấu nổi bật trên đấu trường Đông Nam Á, cô được giới truyền
**Mátthêu Nguyễn Văn Khôi** (sinh 1951) là một giám mục của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Ông hiện là Giám mục chính tòa của Giáo phận Qui Nhơn và Chủ tịch Nghệ thuật
nhỏ|244x244px|Chân dung Phó bảng Nguyễn Văn Mại **Nguyễn Văn Mại** (chữ Hán: 阮文邁; 1858-1945), tự **Tiểu Cao** (小皋), hiệu **Lô Giang** (蘆江), là một danh sĩ và nhà khoa bảng Việt Nam. Ông từng là
**Nguyễn Văn Hiếu** (1746 - 1835) là tướng chúa Nguyễn và là quan nhà Nguyễn, Việt Nam. ## Tiểu sử **Nguyễn Văn Hiếu** là người Kiến Hòa, tỉnh Định Tường, về sau đổi thuộc tỉnh
**Nguyễn Văn Là** (1918-1990) nguyên là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông nguyên được đào tạo trong môi trường Quân đội từ nhỏ
**Nguyễn Văn Toàn** (1932 - 2005) nguyên là một tướng lĩnh gốc Kỵ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, mang cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên tại
**Phêrô Nguyễn Văn Tốt** (sinh ngày 15 tháng 4 năm 1949) là một giám mục Công giáo người Việt. Ông nguyên là Sứ thần Tòa Thánh tại Sri Lanka. Nếu không kể Hồng y Phanxicô
**Nguyễn Văn Huấn** () là một trong những tướng lĩnh kiệt xuất của phong trào Tây Sơn. ## Công trạng Nguyễn Văn Huấn là em của Đại Tư mã Nguyễn Văn Danh. Hai anh em
**Anrê Nguyễn Văn Nam** (22 tháng 2 năm 192216 tháng 3 năm 2006) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông từng đảm trách cương vị giám mục chính tòa Giáo phận
**Nguyễn Văn Lực** (? – ?) là Thiếu tướng người Việt Nam và là lãnh đạo của Việt Nam Quốc dân Đảng dưới thời Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa. ## Tiểu
**Nguyễn Văn Binh** (25 tháng 4 năm 1932 – 28 tháng 2 năm 2023) là chính khách, nhà báo và cựu sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tá, từng là
**Nguyễn Văn Thọ** (sinh năm 1948) là nhà văn Việt Nam, được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật vào năm 2022. ## Tiểu sử Nguyễn Văn Thọ (bút danh Thụ Nguyễn)