✨Nguyễn Văn Giao

Nguyễn Văn Giao

Nguyễn Văn Giao (chữ Hán: 阮文交; 1811-1863), hiệu Quất Lâm (橘林), tự là Đạm Như, là một danh sĩ Việt Nam thế kỷ 19.

Cuộc đời và sự nghiệp

Theo Gia phả gia tộc, Nguyễn Văn Giao, húy là Tao, sinh vào giờ Sửu ngày 3 tháng 11 năm Tân Mùi (tức 18 tháng 12 năm 1811), người xã Trung Cần, tổng Nam Kim, huyện Thanh Chương, phủ Anh Sơn (nay là xã Nam Trung, huyện Nam Đàn), tỉnh Nghệ An. Thân phụ là ông Nguyễn Danh Học, là một thầy thuốc và thầy địa lý, từng làm quan trong Trấn Ty, triều Gia Long, sang triều Minh Mạng, nghỉ hưu về nhà dạy con cháu học và đọc sách thánh hiền, được triều định phong hàm Lục phẩm Hàn lâm viện trước tác. Thân mẫu là bà Trần Thị Khoan, người Thịnh Quả, được triều đình tặng hiệu "Quốc nhân vinh" và "Lục phẩm an nhân". Anh ông là Nguyễn Trọng Dực, cũng là một danh sĩ có tiếng.

Ông đậu Tú tài khoa Tân Mão 1831. Năm Giáp Ngọ niên hiệu Minh Mạng thứ 15 1834, đi đỗ Cử nhân (Hương cống), nhưng do cuối quyển có chữ viết phạm trường quy nên xét lại bị đánh hỏng, bị án "Chung thân bất đắc ứng thi" (suốt đời không được đi thi). Trong suốt 17 năm liền sau đó không được đi thi, ông về quê dạy học. Số người theo học rất đông, thành đạt nhiều.

Mãi đến năm Nhâm Tý 1852, niên hiệu Tự Đức thứ 5, ông mới được ân xá. Ông thi lần thứ hai và đỗ Giải nguyên ở trường Nghệ. Năm sau ông dự khoa thi Quý Sửu niên hiệu Tự Đức năm thứ 6 (1853), đậu Hội nguyên. Vào thi Đình, ông được chấm đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, Đệ tam danh (tức Thám hoa) khi đã 42 tuổi.

Sau khi thi đỗ, tháng 11 năm đó, ông được bổ thụ Hàn lâm viện Trước tác, nhận chức vụ Hành tẩu ở Nội các. Tháng 8 năm Ất Sửu 1855, được thăng thụ Hàn lâm viện Thừa chỉ. Năm Mậu Ngọ 1858, được thăng nhiệm Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ kiêm chức Hành tẩu Nội các. Tháng 6 năm Kỷ Mùi 1859, thăng thực thụ Thị giảng học sĩ, tháng 1 năm Nhâm Tuất 1862, thăng thụ Thị độc học sĩ, vẫn kiêm chức Tham biện Nội các.

Ông mất ngày 18 tháng 3 năm Quý Hợi (tức 5 tháng 5 năm 1863). Thi hài ông được đưa về quê an táng. Triều đình truy tặng ông hàm Quan lộc Tự khanh, tòng Tam phẩm.

Giai thoại

Trong thời chịu án không được đi thi, ông đọc sách, làm thơ, trong đó có bài sau: : ''Hay gù, hay gáy lại hay bay : ''Lỡ bước sa cơ đến nỗi này : ''Xin chúa thả lồng cho thử sức : ''Rồi đây bay bổng chín tầng mây :(Con Cu Gáy) Vua Tự Đức nghe bài thơ này, biết có sự uẩn khúc, đã ân xá cho ông thi lại. Nhờ vậy mà ông đã đỗ đầu thi Hội và thi Đình.

Khoa thi Quý Sửu 1853 có Nguyễn Đức Đạt và Nguyễn Văn Giao cùng quê ở tổng Nam Kim, cùng đỗ Tiến sĩ, cùng đậu Đình nguyên, Đệ nhất giáp Thám hoa. Sau khi vinh quy bái tổ, Nguyễn Đức Đạt đến thăm nhà Nguyễn Văn Giao, thấy nhà ông đồng khoa chỗ nào cũng có đậu (đúng mùa thu hoạch đậu) liền ra vế đối: :''Trong nhà đậu, ngoài sân đậu, cha thi đậu, con thi đậu, thi vân: :''Đa đậu thử chi vi giã

Nguyễn Văn Giao trông ra hàng rào cây dâm bụt đang trổ nhiều hoa, liền đối: :''Trên cây hoa, dưới gốc hoa, Bác vinh hoa, tôi thám hoa. :''Thi viết: Trùng hoa bất diệc nghi hồ.

Tác phẩm nổi bật

Ông có nhiều trước tác, nay còn lưu lại được 4 tác phẩm

  • Quất Lâm di thảo (橘林遺草)
  • Sử Lâm ký Yếu
  • Tam Khoa Bị Lục
  • Thưởng lãm Sách Thi Tập

Ngoài ra còn ghi nhận được một số trước tác của ông như:

  • Nam sử lược thuyết (Lịch sử)
  • Ngự Thiện tự thi tập (Văn - Giáo khoa)
  • Vạn sự vịnh sử (Văn)
  • Diệp tự văn (ngụ ngôn)
  • Kim, Nguyên, Minh sử phú (sử văn)
  • Sách học tân truyện (Văn dùng cho khoa cử).

Lưu Ngọc Quân trong công trình nghiên cứu của mình có đề cập trường hợp thư tịch Việt Nam sau khi truyền nhập Trung Quốc được các văn sĩ Trung Quốc in khắc rồi lại từ Trung Quốc quay về Việt Nam. Đó là tập Sử Luận của Nguyễn Đạm Như Phủ (tức Nguyễn Văn Giao).Vào năm Đồng Trị thứ 10 (1871), Nguyễn Hữu Lập, học sĩ Hàn Lâm Viện, được lệnh đi sứ Trung Quốc, khi qua sông Trường Sa, tình cờ gặp gỡ Tương Âm Lý Phụ Diệu mà ca tụng tập Sử Luận của bác ông là Nguyễn Đạm Như Phủ, viết về lịch sử Trung Quốc từ Thượng Cổ đến triều Minh, các câu trong bài luận đều là những câu có sẵn trong Thập Tam Kinh. Sách này sau được Từ Thụ Minh, Ngọc Khởi Vận, Tương Âm Lý Phụ Diệu đề tựa, do họ Lý vào năm Đồng Trị thứ 13 (1874) in khắc. Thư viện Quốc gia Trung Quốc có hai bản khắc in năm 1874 với tên Sử Luận ký hiệu 142429 và 72095, còn tại Viện nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội lại là hai bản viết tay, một đề Nguyễn Thám Hoa Đạm Như Phủ Sử Luận Thập Tam Kinh Tập Cú (VNV.1728), một bản đề Sử Luận Tập Cú (A.234). Do hai bản lưu tại thư viện Quốc gia Trung Quốc là bản khắc in, còn hai bản lưu tại Viện nghiên cứu Hán Nôm là bản viết tay nhưng ở phần mục lục đều có bài đề tựa của Từ Thụ Minh, Ngọc Khải Vận và bài bạt của Lý Phụ cho nên Lưu Ngọc Quân cho rằng có thể bản chép lưu tại Viện nghiên cứu Hán Nôm là chép từ bản khắc Trung Quốc.

Di sản

Ngày nay tại xóm Tân Hoa, xã Nam Trung, huyện Nam Đàn Nghệ An có Nhà thờ Thám hoa Nguyễn Văn Giao. Tại đây còn lưu giữ nhiều di vật quý như: Bản sắc phong khảm trên gỗ tếch, phủ nhũ vàng; Tấm bia đá xanh nhỏ 25 cm x 25 cm, 2 tấm bia lớn ở phía trước nhà thờ trong đó có một tấm hình chữ nhật, tấm bia kia có hoa văn hình rồng, trên đỉnh có hình mặt trăng toả sáng và nhiều hoa văn sống động. Bia ở đây đều khắc chữ Hán cổ. Trong bàn thờ còn có mũ cánh chuồn Vua ban cho ông, nhưng lại bằng gỗ dổi, được khắc tạo rất công phu.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Văn Giao** (chữ Hán: 阮文交; 1811-1863), hiệu **Quất Lâm** (橘林), tự là **Đạm Như**, là một danh sĩ Việt Nam thế kỷ 19. ## Cuộc đời và sự nghiệp Theo Gia phả gia tộc,
**Nguyễn Văn Lý** (chữ Hán: 阮文理; 1795-1868), húy **Dưỡng**, thường được gọi là **"Cụ Nghè Đông Tác"**, tự **Tuần Phủ**, hiệu **Chí Đình**, **Chí Am**, **Chí Hiên**, biệt hiệu **Đông Khê**, là một danh sĩ,
liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp tin:Cross_menorah_Oxford_20051225.jpg|nhỏ|Cây [[thánh giá của đài tưởng niệm chiến tranh (Nhà thờ Anh) và một menorah (Đạo Do Thái) cùng tồn tại ở cuối phía bắc của St Giles 'ở Oxford, Anh]] liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp tin:Bosanska_Krupa_Churches.JPG|nhỏ|[[Giáo hội
**Nguyễn Văn Siêu** (chữ Hán: 阮文超, 1799 - 1872), ban đầu tên là **Định**, sau đổi là **Siêu**, còn gọi là **Án Sát Siêu**, tự: **Tốn Ban**, hiệu: **Phương Đình**, là nhà thơ, nhà nghiên
**Nguyễn Văn Toản** (sinh ngày 26 tháng 11 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Việt Nam hiện đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Hải
**Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận** (17 tháng 4 năm 1928 – 16 tháng 9 năm 2002) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách cương vị
**Phaolô Nguyễn Văn Bình** (1 tháng 9 năm 1910 – 1 tháng 7 năm 1995) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Tổng giám mục Tiên khởi của Tổng
**Phêrô Nguyễn Văn Nhơn** (sinh ngày 1 tháng 4 năm 1938) là một hồng y, giám mục Công giáo người Việt Nam. Ông hiện đảm nhận tước vị Hồng y Đẳng Linh mục Nhà thờ
**Phêrô Nguyễn Văn Khảm** (sinh ngày 2 tháng 10 năm 1952) là một Giám mục Công giáo người Việt. Ông hiện đảm nhận vai trò Giám mục Chính tòa Giáo phận Mỹ Tho, Chủ tịch
**Phaolô Nguyễn Văn Hòa** (1931 – 2017) là một Giám mục người Việt của Giáo hội Công giáo Rôma, đồng thời là một nhạc sĩ nhạc Công giáo. Ông từng giữ các vị trí giám
**Vinh Sơn Nguyễn Văn Long** (**Vincent Long Van Nguyen**, sinh năm 1961) là một giám mục người Úc gốc Việt, hiện giữ chức giám mục chính tòa giáo phận Parramatta, Australia và Chủ tịch Ủy
**Tôma Nguyễn Văn Tân** (1940 – 2013) là một Giám mục người Việt Nam của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách vai trò Giám mục chính tòa Giáo phận Vĩnh Long từ
**Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản** (sinh năm 1956) là một giám mục Công giáo tại Việt Nam, hiện là giám mục chính tòa Giáo phận Hải Phòng và chủ tịch Uỷ ban Thánh Kinh trực
**Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Sang** (8 tháng 1 năm 1931 – 5 tháng 10 năm 2017) là một giám mục của Giáo hội Công giáo Rôma tại Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục chính
**Anrê Nguyễn Văn Nam** (22 tháng 2 năm 192216 tháng 3 năm 2006) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông từng đảm trách cương vị giám mục chính tòa Giáo phận
**Đa Minh Nguyễn Văn Mạnh** (sinh năm 1955) là một giám mục người Việt của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông hiện giữ chức giám mục chính tòa Giáo phận Đà Lạt. Trước đó, ông
**Nguyễn Văn Thương** (22 tháng 5 năm 1919 – 5 tháng 12 năm 2002) là một nhạc sĩ, nhà giáo, nghệ sĩ người Việt Nam. Có tác phẩm đầu tay từ năm 17 tuổi vào
**Nguyễn Văn Huyên** (1905-1975) là một giáo sư, tiến sĩ, nhà sử học, nhà dân tộc học, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Ông cũng là người giữ chức vụ Bộ
**Nguyễn Văn Thể** (sinh ngày 27 tháng 11 năm 1966) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông nguyên là Bí thư Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương. Ông từng là Bộ
**Phêrô Nguyễn Văn Viên** (sinh 1965) là một giám mục người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma. Ông hiện đảm nhận vai trò giám mục phụ tá của Giáo phận Vinh Ông cũng
**Nguyễn Văn Vĩnh** (chữ Hán: 阮文永; 1882 – 1936) là nhà tân học, nhà báo, nhà văn, nhà phiên dịch Việt Nam, nhà chính trị Việt Nam đầu thế kỷ 20. Khi viết bài, ông
**Tađêô Nguyễn Văn Lý** (sinh ngày 15 tháng 5 năm 1946) là một linh mục Công giáo và một nhân vật bất đồng chính kiến ở Việt Nam, đã nhiều lần bị Chính phủ Việt
**Jayaatu Khan Nguyên Văn Tông** (1304 - 1332), tên thật là **Borjigin Töbtemür** (tiếng Mông Cổ: Заяат хаан, Jayaγatu qaγan; chữ Hán:元文宗; phiên âm Hán Việt: **Bột Nhi Chỉ Cân Đồ Thiếp Mục Nhi**) là
**Tôma Nguyễn Văn Trâm** (sinh ngày 9 tháng 1 năm 1942) là một giám mục người Việt, từng giữ chức giám mục phụ tá của Giáo phận Xuân Lộc (1992–2005), giám mục chính tòa tiên
**Mátthêu Nguyễn Văn Khôi** (sinh 1951) là một giám mục của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Ông hiện là Giám mục chính tòa của Giáo phận Qui Nhơn và Chủ tịch Nghệ thuật
**Phêrô Nguyễn Văn Đệ** (sinh 1946) là một Giám mục của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Ông từng đảm trách vai trò Giám mục phụ tá Giáo phận Bùi Chu (2005–2009), giám mục
**Giacôbê Nguyễn Văn Mầu** (1914–2013) là một giám mục của Giáo hội Công giáo Rôma tại Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục chính tòa của Giáo phận Vĩnh Long trong hơn 30 năm, từ
nhỏ|phải|Tượng Chưởng Trung Quân Nguyễn Văn Thành được tôn trí thờ sau 1868 tại một ngôi miếu cận Đại Nội Huế**Nguyễn Văn Thành** (chữ Hán: 阮文誠; 1758–1817) thiếu thời đã theo cha chinh chiến, về
**Nguyễn Văn Tường** (chữ Hán: 阮文祥; 1824–1886), là đại thần phụ chính của nhà Nguyễn. ## Tên họ và thi cử Ông xuất thân từ một gia đình lao động nghèo thuộc làng An Cư,
**Phêrô Nguyễn Văn Tốt** (sinh ngày 15 tháng 4 năm 1949) là một giám mục Công giáo người Việt. Ông nguyên là Sứ thần Tòa Thánh tại Sri Lanka. Nếu không kể Hồng y Phanxicô
**Phêrô Nguyễn Văn Nho** (1937 – 2003) là một giám mục của Giáo hội Công giáo Rôma tại Việt Nam. Ông từng đảm nhận vai trò Giám mục phó của Giáo phận Nha Trang từ
**Raphael Nguyễn Văn Diệp** (1926–2007) là một Giám mục của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Ông từng đảm trách vai trò giám mục phó Giáo phận Vĩnh Long trong khoảng thời gian kéo
**Giuse Nguyễn Văn Yến** (sinh 1942) là một Giám mục của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Ông hiện đảm trách vai trò Phó Chủ tịch Ủy ban Bác ái Xã hội – Caritas
**Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền** (1906–1973) là một giám mục của Giáo hội Công giáo Roma tại Việt Nam, ông là người Việt thứ 11 được tấn phong giám mục, giám mục người Việt đầu
**Nguyễn Văn Linh** (tên khai sinh: **Nguyễn Văn Cúc;** 1 tháng 7 năm 1915 – 27 tháng 4 năm 1998) là Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam giai
**Nguyễn Văn Hiệu** (sinh ngày 21 tháng 7 năm 1938 – mất ngày 23 tháng 1 năm 2022) là giáo sư, nhà vật lý, và chính trị gia của Việt Nam. Ông là ủy viên
**Antôn Nguyễn Văn Thiện** (1906–2012) là một Giám mục Công giáo người Việt, từng đảm nhận vai trò Giám mục Tiên khởi Giáo phận Vĩnh Long trong thời gian từ năm 1960 đến năm 1968.
**Nguyễn Văn Nam ** (14 tháng 7 năm 1932 – 17 tháng 5 năm 2020) là giáo sư, tiến sĩ, nhạc sĩ nổi tiếng tại Việt Nam. Ông là nhà soạn nhạc Việt Nam đầu
**Nguyễn Văn Huyền** (1913 – 1995) là chính khách Việt Nam. Ông từng là Chủ tịch Thượng viện đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa (1967–1973), nguyên Phó tổng thống đặc trách hòa đàm dưới
**Nguyễn Văn Ngọc** (1 tháng 3 năm 1890 - 26 tháng 4 năm 1942) tự **Ôn Như** là nhà văn, nhà giáo, nhà nghiên cứu văn hoá Việt Nam. ## Tiểu sử Ông sinh năm
**Nguyễn Văn Toàn** (1932 - 2005) nguyên là một tướng lĩnh gốc Kỵ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, mang cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên tại
**Nguyễn Văn Quỳ** (2 tháng 1 năm 1925 – 27 tháng 1 năm 2022) là một nhà soạn nhạc và nhạc sĩ người Việt Nam. Nguyễn Văn Quỳ chuyên sáng tác các thể loại như
**Nguyễn Văn Hiếu** (1929-1975) nguyên là Thiếu tướng Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, tử nạn được truy thăng Trung tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên tại trường Võ
**Nguyễn Văn Lộc** (1922 – 1992) là Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa từ tháng 11 năm 1967 đến đầu năm 1968. ## Thời trẻ Nguyễn Văn Lộc sinh năm 1922 tại làng Long Châu
**Nguyễn Văn Phương** (sinh ngày 29 tháng 12 năm 1970) là chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Phó Bí thư Thành ủy, Bí thư Ban Cán
**Phêrô Nguyễn Văn Hùng** (sinh ngày 21 tháng 11 năm 1958) là một linh mục Công giáo người Úc gốc Việt, hiện đang sinh sống và làm việc tại Đài Loan. Tại Đài Loan ông
**Nguyễn Văn Hầu** (1922-1995), là nhà văn, nhà nghiên cứu văn học, văn hóa và lịch sử Việt Nam, đặc biệt là những nghiên cứu gắn với vùng đất Nam bộ. ## Tiểu sử **Nguyễn
**Nguyễn Văn Huy** (sinh ngày 3 tháng 8 năm 1945) là một nhà nghiên cứu dân tộc học Việt Nam, cựu Giám đốc Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam Năm 1967, ông tốt nghiệp
**Gioan Baotixita Nguyễn Văn Riễn** sinh 1955, là một linh mục của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV-XV và là người Công giáo duy nhất trúng
**Nguyễn Văn Ngọ** (1906 -1954), là nhà cách mạng Việt Nam, Bí thư Tỉnh ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Thái Bình. ## Tiểu sử Nguyễn Văn Ngọ quê tại