✨Nguyễn Văn Hiếu (trung tướng)

Nguyễn Văn Hiếu (trung tướng)

Nguyễn Văn Hiếu (1929-1975) nguyên là Thiếu tướng Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, tử nạn được truy thăng Trung tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên tại trường Võ bị Quốc gia do Chính phủ Quốc gia Việt Nam mở ra tại Nam Cao nguyên Trung phần vào đầu thập niên 50 của thế kỷ trước. Ông đã từng chỉ huy các Sư đoàn Bộ binh và được cử giữ chức Phụ tá Đặc biệt trong Ủy ban chống tham nhũng thuộc Phủ Phó Tổng thống Trần Văn Hương, một vị trí phù hợp với con người và tính cách của ông. Bản thân ông đã được một số tài liệu đánh giá là liêm khiết, không tham nhũng.

Do chống tham nhũng, ông được cho là đã làm mất lòng nhiều tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa, vốn có nhiều tai tiếng vì tham nhũng. Nhiều người cũng cho rằng đây là lý do dẫn đến việc ông bị đồng ngũ ám sát trong văn phòng tại bản doanh Bộ Tư lệnh Quân đoàn III ở Biên Hòa ngày 8 tháng 4 năm 1975, khi đang giữ chức Tư lệnh phó đặc trách Hành quân của Quân đoàn.

Tiểu sử & Binh nghiệp

Ông sinh ngày 23 tháng 06 năm 1929 tại Thiên Tân, Trung Quốc nhưng quê nội ở Bắc Ninh và quê ngoại ở Hà Đông. Ở Thượng Hải, ông học tại trường Collège Français de Shanghai. Năm 1948, ông đậu bằng Baccalauréat en mathématiques (Tú tài toàn phần ban Toán). Năm 1949, trong khi đang học năm thứ 1 ban Kỹ thuật tại Đại học Aurore (thuộc Dòng Tên của Pháp) thì Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp quản Thượng Hải, ông theo gia đình trở về Sài Gòn, sau đó (đầu năm 1950) gia đình ông chuyển ra Hà Nội.

Quân đội Quốc gia Việt nam

Cuối tháng 10 năm 1950, thi hành lệnh động viên của Quốc trưởng Bảo Đại, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 49/300.479. Theo học khóa 3 Trần Hưng Đạo tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt, khai giảng ngày 5 tháng 11 năm 1950. Ngày 25 tháng 6 năm 1951 mãn khóa tốt nghiệp Á khoa với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Tuy nhiên sau đó ông bị bệnh lao phổi phải nằm nhà thương Lanessan Hà Nội một thời gian. Đến đầu năm 1953 ông xuất viện và được chuyển đến phục vụ tại Phòng 3 Bộ Tổng tham mưu dưới quyền Đại tá Trưởng phòng Trần Văn Đôn, đồng thời ông được thăng cấp Trung úy tại nhiệm. Đến tháng 6 năm 1954, ông được thăng cấp Đại úy.

Quân đội Việt Nam Cộng hòa

Sau khi Quân đội Quốc gia được cải danh thành Quân đội Việt Nam Cộng hòa vào cuối năm 1955, ông vẫn tiếp tục phục vụ thêm một thời gian nữa ở Bộ Tổng tham mưu. Trung tuần tháng 8 năm 1957, ông được thăng cấp Thiếu tá, và chuyển đi làm Phó phòng 3 của Bộ Tư lệnh Quân đoàn I, do Trung tướng Trần Văn Đôn làm Tư lệnh Quân đoàn. Ngày 1 tháng 8 năm 1962, ông được giữ chức Trưởng phòng 3 Quân đoàn I, do Thiếu tướng Lê Văn Nghiêm làm Tư lệnh Quân đoàn.

Đầu năm 1963, ông được cử đi du học lớp Chỉ huy Tham mưu cao cấp tại Học viện Chỉ huy và Tham mưu Fort Leavenworth thuộc Kansas, Hoa Kỳ, đến ngày 10 tháng 5 tốt nghiệp về nước. Ngày 1 tháng 6 cùng năm, ông được thăng cấp Trung tá và được cử giữ chức Tham mưu trưởng Sư đoàn I Bộ binh, do Đại tá Đỗ Cao Trí làm Tư lệnh.. Ngày 11 tháng 11 năm 1963 (sau vụ đảo chính 1/11/1963), bàn giao chức Tham mưu trưởng Sư đoàn 1 lại cho Trung tá Tôn Thất Khiên, sau đó ông được cử giữ chức Tham mưu trưởng Quân đoàn I thay thế Đại tá Trần Thanh Phong đi nhận chức Tư lệnh Sư đoàn 1.

Ngày 1 tháng 1 năm 1964, ông được chuyển về Quân đoàn II nhận chức Tham mưu trưởng Quân đoàn do Trung tướng Đỗ Cao Trí làm Tư lệnh. Ngày 7 tháng 9 cùng năm, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 22 Bộ binh thay thế Thiếu tướng Linh Quang Viên về Trung ương làm Giám đốc Nha An ninh Quân đội. Ngày 24 tháng 10 cùng năm, bàn giao Sư đoàn 22 lại cho Đại tá Nguyễn Xuân Thịnh, ông chuyển về Quân đoàn II tái nhiệm chức vụ Tham mưu trưởng Quân đoàn.

Tháng 5 năm 1965, ông được thăng cấp Đại tá tại nhiệm. Đến ngày 23 tháng 6 năm 1966, tái nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 22 Bộ binh thay thế Đại tá Nguyễn Thanh Sằng đi làm Tư lệnh phó Quân đoàn II. Ngày Quốc khánh Đệ Nhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm 1967, ông được thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm. Ngày 11 tháng 8 năm 1969, bàn giao Sư đoàn 22 lại cho Chuẩn tướng Lê Ngọc Triển nguyên Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Quốc gia Quang Trung. Ngay sau đó, thuyên chuyển về Quân khu 3, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh thay thế Thiếu tướng Phạm Quốc Thuần đi làm Chỉ huy trưởng Trường Bộ binh Thủ Đức. Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1970, ông được thăng cấp Thiếu tướng tại nhiệm. Trung tuần tháng 6 năm 1971, bàn giao chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 5 lại cho Đại tá Lê Văn Hưng (nguyên Tư lệnh phó), ông được cử đi làm Tư lệnh phó Quân đoàn I do Trung tướng Hoàng Xuân Lãm làm Tư lệnh Quân đoàn.

Thượng tuần tháng 2 năm 1972, ông được Phó Tổng thống Trần Văn Hương cử giữ chức vụ Thứ trưởng Đặc trách bài trừ tham nhũng. Đây là giai đoạn mà nạn tham nhũng hoành hành trong giới lãnh đạo Quân đội Việt Nam Cộng hòa với những tai tiếng về buôn lậu, ăn cắp quân nhu và tiền viện trợ quân sự. Trên cương vị này, ông đã tiến hành hàng loạt các cuộc điều tra về tham nhũng, mà đặc biệt là cuộc điều tra về vụ tham nhũng trong Quỹ Tiết kiệm Quân đội. Đây là vụ án tham nhũng lớn nhất được ông tiến hành, thực hiện trong 5 tháng và được ông công bố đầy đủ chi tiết và bằng chứng buộc tội trên màn truyền hình toàn quốc ngày 14 tháng 7 năm 1972., buộc hàng loạt sĩ quan, trong đó có 2 tướng lĩnh là Tổng trưởng Quốc phòng, Trung tướng Nguyễn Văn Vỹ, và Trung tướng Lê Văn Kim với 7 Đại tá bị cách chức. Quỹ Tiết kiệm Quân đội bị buộc phải giải tán. Tuy nhiên, chính do những cuộc điều tra tham nhũng của ông đã gây đụng chạm đến quyền lợi của giới lãnh đạo quân sự biến chất, thậm chí ở cấp cao nhất. Sau vụ án Quỹ Tiết kiệm Quân đội, Tổng thống Thiệu đã thu hẹp quyền hạn điều tra tham nhũng của tướng Hiếu ở cấp Quận trưởng, và cần có sự chấp thuận tiên quyết trước khi khởi công điều tra ở cấp Tỉnh trưởng. Điều này khiến ông nản lòng và ông đã xin trở về phục vụ trong quân đội và tuyên bố: "chúng ta phải sửa những sai lầm của chúng ta hoặc Cộng sản sẽ sửa chữa nhưng sai lầm đó cho chúng ta".

Vào tháng 5 năm 1972, Tướng Hiếu đã nói với các viên chức Sứ Quán là chiến dịch chống tham nhũng sẽ không đi tới đâu vì các Bộ trưởng trong Nội các và Thủ tướng không cộng tác với ông.. Ngày 2 tháng 4 năm 1975, kiêm Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn III để nhận bàn giao từ Thiếu tướng Phạm Văn Phú (nguyên Tư lệnh Quân đoàn II) phần lãnh thổ 2 tỉnh cuối cùng còn lại của Quân khu 2 là Bình Thuận và Ninh Thuận được sát nhập vào Quân đoàn III, Quân khu 3. 2 ngày sau, ngày 4 tháng 4 bàn giao chức Tư lệnh Tiền phương cho Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, vẫn giữ chức Tư lệnh phó Đặc trách Hành quân.

Bị ám sát

Vào ngày 8 tháng 4 năm 1975, ông bị ám sát bởi cận vệ của Tướng Toàn, Đại úy Đỗ Đức, trong văn phòng riêng tại bản doanh Bộ tư lệnh Quân đoàn III bởi một một viên đạn bắn vào cằm xuyên lên não. Theo tư liệu của C.I.A công bố. Ông mất khi mới có 46 tuổi.

:''Ngay sau đó, Bộ Tổng tham mưu cử Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi đương nhiệm Chỉ huy trưởng Trường Bộ binh Thủ Đức thay thế vào chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn III kiêm Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn, trách nhiệm bảo vệ phòng tuyến Phan Rang.

Sáng ngày 10 tháng 4 năm 1975, Phó Tổng thống Trần Văn Hương thay mặt Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đến tư thất trong cư xá sĩ quan Chí Hòa để viếng linh cữu và truy thăng cho ông cấp bậc Trung tướng đồng thời truy tặng Bảo quốc Huân chương Đệ tam đẳng kèm Anh dũng Bội tinh với nhành Dương liễu.

Tang lễ của ông được tổ chức trọng thể theo lễ nghi Quân cách. An táng tại Nghĩa trang Quốc gia Biên Hòa (Nghĩa trang Quân đội) cạnh mộ phần cố Đại tướng Đỗ Cao Trí.

Huy chương

Bảo quốc Huân chương đệ tam đẳng Anh dũng Bội tinh với nhành dương liễu

Nhận định

Báo cáo đánh giá tháng 5 năm 1958 của các cố vấn Mỹ tại Quân khu I:

Đại tá John Hayes, Cố vấn trưởng Mỹ tại Sư đoàn 5 Bộ binh đánh giá ngày 7 tháng 2 năm 1970:

Tờ trình tháng 11 năm 1974 của Sứ Quán Mỹ:

Thái độ đối với giới chức Mỹ

Cách chung tuy tướng Hiếu tỏ vẻ "thân thiện và dễ cộng tác... với các giới chức Mỹ tại Vùng 3 Chiến thuật, ông giữ một khoảng cách và kín đáo." Ngày hôm sau, sau khi tham dự buổi họp báo của phát ngôn viên quân sự, thông tấn xã UPI loan tin như sau:

Gia đình

Thân phụ: Cụ Nguyễn Văn Hướng (Quê quán Bắc Ninh. Từng giữ chức Phụ tá Giám đốc Công an Nguyễn Đình Tại ở Hà Nội (1950), Giám đốc Công an Bắc Phần (1953), Phụ tá Tổng Giám đốc Công an Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Lễ ở Sài Gòn (1955). Thân mẫu: Cụ Nguyễn Thị Nghiêm (Quê quán Hà Đông. Từng là Trợ giáo trường Pháp-Việt tại Thượng Hải). *''Tướng Hiếu có một người chị họ là bà Nguyễn Thị Khánh, vợ của ông Trần Đại Nghĩa và một người anh họ là ông Nguyễn Quang Đích, thư ký riêng của Đại tướng Văn Tiến Dũng. Hai người này là con cụ Nguyễn Văn Thường (anh cụ Hướng), bác ruột của ông.

Tối ngày 29 tháng 4 năm 1975, bà quả phụ tướng Hiếu cùng 6 người con được di tản bằng trực thăng ra Hạm đội 7 Hoa Kỳ đậu ở ngoài khơi Vũng Tàu, sau đó sang định cư tại Philadelphia, Pennsylvania, Hoa Kỳ.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Văn Hiếu** (1929-1975) nguyên là Thiếu tướng Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, tử nạn được truy thăng Trung tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên tại trường Võ
**Nguyễn Văn Xuân** (1892 – 1989) là Thủ tướng của Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ từ ngày 8 tháng 10 năm 1947 đến ngày 27 tháng 5 năm 1948, sau đó giữ chức vụ
**Nguyễn Văn Thắng** (20 tháng 6 năm 1947 – 21 tháng 12 năm 2012) là Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam. Ông từng là Giám đốc Học viện An ninh nhân dân. Ông
**Nguyễn Văn Thái **(sinh năm 1930), là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, nguyên Phó Chủ nhiệm Chính ủy Sư đoàn 9, Chủ nhiệm Chính trị
**Nguyễn Văn Ngọc** là một Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam, giáo sư, tiến sĩ người Việt Nam. Ông nguyên là Giám đốc Học viện An ninh nhân dân. Ông được phong tặng
**Nguyễn Văn Hiếu** (1746 - 1835) là tướng chúa Nguyễn và là quan nhà Nguyễn, Việt Nam. ## Tiểu sử **Nguyễn Văn Hiếu** là người Kiến Hòa, tỉnh Định Tường, về sau đổi thuộc tỉnh
**Nguyễn Văn Hiệu** (sinh ngày 21 tháng 7 năm 1938 – mất ngày 23 tháng 1 năm 2022) là giáo sư, nhà vật lý, và chính trị gia của Việt Nam. Ông là ủy viên
**Nguyễn Xuân Hoàng** (1918-1987), tên thật **Nguyễn Văn Bàn**, là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Bộ quốc
**Nguyễn Văn Toàn** (1932 - 2005) nguyên là một tướng lĩnh gốc Kỵ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, mang cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên tại
**Trung tướng** (tiếng anh: _Lieutenant general_) là một bậc quân hàm cấp tướng lĩnh trong quân đội nhiều quốc gia. Trong quân đội nhiều nước, cấp bậc trung tướng có 3 sao cấp tướng, trên
**Nguyễn Văn Bé** (sinh năm 1946 - 2024) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng. Ông nguyên là Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng (1995–2000),
**Nguyễn Văn Nam ** (1914-2007), tên thật là **Phạm Luận**, là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, nguyên là Cục trưởng Cục Quân giới, Phó Chủ
**Nguyễn Văn Danh** là Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam. Ông từng giữ chức vụ Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Công an Trung ương (từ 2011), Phó Thủ trưởng
**Nguyễn Văn Thiện** là một sĩ quan cao cấp trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, hiện là Phó Tư lệnh Bộ đội Biên phòng. ## Tiểu sử Khi còn mang quân
**Nguyễn Văn Hưởng** (sinh năm 1946 ở phường Xuân Sơn, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh) là Thượng tướng Công an nhân dân Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Công an, nguyên Tổng cục
**Nguyễn Văn Thân** (sinh ngày 07 tháng 7 năm 1958) là một Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam. Nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, nguyên Giám đốc Công an Tỉnh Bình
**Phạm Hồng Sơn** (1923 – 2013) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Quân sự, nguyên Phó Giám đốc Học
**Nguyễn Văn Bình** (sinh 1963) là sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, hiện đang giữ chức Phó Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật (2019-nay) ## Thân thế
**Nguyễn Văn Khánh** (sinh năm 1956) là Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam, từng giữ chức Giám đốc Công an tỉnh Đồng Nai (2010-2015) và đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13,
**Nguyễn Văn Hiếu** (sinh ngày 23 tháng 6 năm 1959) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII tỉnh Bến Tre, nguyên Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nguyên Chủ tịch Ủy
**Nguyễn Văn Cừ** (9 tháng 7 năm 1912 - 28 tháng 8 năm 1941) là Tổng Bí thư thứ tư của Đảng Cộng sản Đông Dương từ năm 1938 đến năm 1940. ## Tiểu sử
nhỏ|phải|Kiến trúc kiểu Trung Hoa. nhỏ|phải|Ẩm thực kiểu Trung Hoa. nhỏ|phải|Hán phục (áo [[Sườn xám).]] **Văn hóa Trung Quốc** (chữ Hán giản thể: 中华文化; chữ Hán phồn thể: 中華文化; Hán-Việt:Trung Hoa văn hoá;pinyin: Zhōnghuá wénhuà)
**Nguyễn Văn Huấn** () là một trong những tướng lĩnh kiệt xuất của phong trào Tây Sơn. ## Công trạng Nguyễn Văn Huấn là em của Đại Tư mã Nguyễn Văn Danh. Hai anh em
**Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam** là cấp bậc tướng lĩnh thứ hai trong Công an nhân dân Việt Nam với cấp hiệu 2 ngôi sao vàng. Theo quy định pháp luật Việt
phải|Anh hùng, phi công **Nguyễn Văn Cốc** trên khoang lái máy bay **Nguyễn Văn Cốc** (sinh năm 1942), là Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân,
**Nguyễn Văn Vịnh** (1918 - 1978) là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng. Ông từng là Trưởng phái đoàn Quân đội nhân dân Việt Nam bên cạnh Ủy ban
**Nguyễn Văn Tình **(sinh ngày 2 tháng 10 năm 1945), là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Phó Đô đốc, nguyên Phó Tư lệnh Binh chủng Đặc công,
**Văn học Trung Quốc** có bề dày lịch sử hàng ngàn năm, từ các tài liệu lưu trữ của các triều đại cho đến các tiểu thuyết hư cấu từ thời trung cổ để phục
**Trung tướng** **Quân đội nhân dân Việt Nam** là một tướng lĩnh cấp cao, có bậc quân hàm cao thứ ba trong hệ thống quân hàm Quân đội nhân dân Việt Nam với cấp hiệu
**Khuất Duy Tiến** (27 tháng 2 năm 1931 – 23 tháng 11 năm 2024), bí danh Duy Tân, là một tướng lĩnh trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, nguyên Hiệu trưởng
**Nguyễn Văn Hiền** (sinh ngày 22 tháng 2 năm 1967) là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, cấp bậc Thượng tướng. Ông hiện là Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng
**Anrê Nguyễn Văn Nam** (22 tháng 2 năm 192216 tháng 3 năm 2006) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông từng đảm trách cương vị giám mục chính tòa Giáo phận
**Nguyễn Văn Vượng** là Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam. Ông từng giữ chức vụ Tư lệnh Bộ Tư lệnh Cảnh sát Cơ động (K20). ## Thân thế và sự nghiệp Ông sinh
**Hoàng Phương** (1924-2001) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, Giáo sư, Tiến sĩ, nguyên Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, nguyên
**Đặng Văn Hiếu** (sinh năm 1953) là một Thượng tướng Công an nhân dân Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X, XI, nguyên
**Lê Hữu Đức** (3 tháng 9 năm 1925 – 11 tháng 8 năm 2018) là Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, Phó giáo sư người Việt Nam. Ông nguyên là Phó Tư lệnh,
**Nguyễn Năng** (1927 – 2010) là sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, Phó Giáo sư, nguyên Phó Tư lệnh Quân khu 2, Phó Viện trưởng Học viện
**Trương Công Cẩn **(1923-1993) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, nguyên là Hiệu trưởng Trường sĩ quan chính trị (nay là Học viện chính trị
**Bằng Giang** (1915-1990) là một Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông từng giữ chức Tư lệnh Quân khu Tây Bắc, Phó Tổng Thanh tra Quân đội nhân dân Việt Nam. ## Thân
**Phaolô Nguyễn Văn Bình** (1 tháng 9 năm 1910 – 1 tháng 7 năm 1995) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Tổng giám mục Tiên khởi của Tổng
nhỏ|phải|Tượng Chưởng Trung Quân Nguyễn Văn Thành được tôn trí thờ sau 1868 tại một ngôi miếu cận Đại Nội Huế**Nguyễn Văn Thành** (chữ Hán: 阮文誠; 1758–1817) thiếu thời đã theo cha chinh chiến, về
**Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận** (17 tháng 4 năm 1928 – 16 tháng 9 năm 2002) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách cương vị
**Jayaatu Khan Nguyên Văn Tông** (1304 - 1332), tên thật là **Borjigin Töbtemür** (tiếng Mông Cổ: Заяат хаан, Jayaγatu qaγan; chữ Hán:元文宗; phiên âm Hán Việt: **Bột Nhi Chỉ Cân Đồ Thiếp Mục Nhi**) là
**Nguyễn Văn Vĩnh** (chữ Hán: 阮文永; 1882 – 1936) là nhà tân học, nhà báo, nhà văn, nhà phiên dịch Việt Nam, nhà chính trị Việt Nam đầu thế kỷ 20. Khi viết bài, ông
**Vinh Sơn Nguyễn Văn Long** (**Vincent Long Van Nguyen**, sinh năm 1961) là một giám mục người Úc gốc Việt, hiện giữ chức giám mục chính tòa giáo phận Parramatta, Australia và Chủ tịch Ủy
**Phêrô Nguyễn Văn Viên** (sinh 1965) là một giám mục người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma. Ông hiện đảm nhận vai trò giám mục phụ tá của Giáo phận Vinh Ông cũng
**Văn hóa Lê–Mạc** (hoặc được khái quát hóa lên là **Thời đại Lê–Mạc** hay cụ thể hơn nữa là **Thời kỳ chuyển giao Lê–Mạc**) là một khái niệm mang tính tổng hợp dùng để chỉ
**Nguyễn Văn Linh** (tên khai sinh: **Nguyễn Văn Cúc;** 1 tháng 7 năm 1915 – 27 tháng 4 năm 1998) là Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam giai
**Nguyễn Văn Trỗi** (1 tháng 2 năm 1940 – 15 tháng 10 năm 1964) là một chiến sĩ biệt động thành phố Sài Gòn, đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, đã
**Nguyễn Đức Trung** (阮德忠, 1404 - 1477) là một công thần nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam, người làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, Thanh Hóa, Việt Nam. Đồng thời ông là ngoại