Nguyễn Văn Huấn () là một trong những tướng lĩnh kiệt xuất của phong trào Tây Sơn.
Công trạng
Nguyễn Văn Huấn là em của Đại Tư mã Nguyễn Văn Danh. Hai anh em là em cô cậu với ba anh em Tây Sơn Tam Kiệt, đều theo học thầy Trương Văn Hiến. Trong khi Nguyễn Văn Danh chuyên về văn học và binh pháp thì Nguyễn Văn Huấn chuyên về binh pháp và võ nghệ. Do có sức khỏe, ông rất được Nguyễn Huệ yêu thích, cho làm tâm phúc.
Năm 1786, Khi Tây Sơn đánh lấy Thăng Long, triệu tập thợ rèn về phủ Phụng Thiên rèn đúc binh khí. Dương Trọng Tế giữ đất Gia Lâm, Dương Vân là con trai người anh ruột Dương Trọng Tế, tính rất hung tợn, vẫn thường tụ tập những phường vô loại, hoành hành ở các làng xóm, ai cũng phải khiếp sợ.
Lúc quân Tây Sơn ra, Vân ngầm cho gọi thợ rèn đến rèn đúc khí giới.. Nguyễn Huệ sai người tìm thợ rèn, nhân biết việc đó, bèn cho tróc nã bọn Vân. Vân đóng cổng làng, bắt hết những người của Bình đem giết đi. Trọng Tế cả sợ, bất đắc dĩ mới phải khởi binh, kéo cờ, chiếm cứ huyện Gia Lâm.
Chỉ trong mười ngày, quân của Dương Trọng Tế đã lên trên một vạn. Quân tuần tiễn của Tây Sơn do Nguyễn Văn Huấn chỉ huy đem quân sang sông đánh nhưng không hạ nổi. Sau đó ông cùng quân Tây Sơn rút về Nam.
Năm 1787, Nguyễn Văn Huấn theo về phe Bắc Bình vương Nguyễn Văn Huệ trong trận đánh Quy Nhơn với Thái Đức Đế Nguyễn Nhạc. Đó là lý do sau này ông và các tướng cũ của Thái Đức thù ghét nhau.
Cuối năm 1788, Sau khi Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, ông được phong là Hộ giá Thượng tướng quân, tước Quận công.
Năm 1792, Quang Trung mất. Ông là một trong các đại thần nhận trọng mệnh phò tá Cảnh Thịnh.
Năm 1793, Khi Nguyễn Ánh vây thành Hoàng Đế, Nguyễn Văn Huấn cùng Thái úy Phạm Văn Hưng, Đại Tư mã Ngô Văn Sở, Đại Tổng quản Trần Quang Diệu, Tư lệ Lê Trung đem binh vào giải vây. Sau đó ông cùng Phạm Văn Hưng chiếm lấy kho tàng, bức ép Thái Đức Hoàng Đế Nguyễn Nhạc thổ huyết chết.
Đại Nam Thực Lục viết:
Tháng 8, quân ta vây thành Quy Nhơn đã lâu, giặc Nguyễn Văn Nhạc thế cùng, sai người báo cấp với Phú Xuân, Nguyễn Quang Toản sai đảng là Thái úy Nguyễn Văn Hưng, Hộ giá Nguyễn Văn Huấn, Tư lệ Lê Trung, Tư mã Ngô Văn Sở đem bộ binh 17.000 người, voi 80 thớt cùng Đô đốc Hố và Chưởng cơ Thiêm (đều không rõ họ) đem hơn 30 chiếc binh thuyền, đại cử vào cứu viện. (ĐNTL Tập 1, trang 307-308).
Giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc chết. Tướng giặc là Nguyễn Văn Hưng, Nguyễn Văn Huấn, nhân quân ta đã lùi, bức Nhạc mà giữ lấy thành, Nhạc tức giận phát bệnh chết. Quang Toản phong con Nhạc là Nguyễn Văn Bảo làm Hiếu công, cắt huyện Phù Ly cho làm thực ấp. ý Bảo rất bất bình, mẹ Bảo nói khích rằng: "Mở mang bờ cõi đều là công của cha mày, nay Quang Toản cho mày ăn lộc một huyện, thà chết còn hơn chịu nhục". Bảo bèn cùng Quang Toản thất hòa. (ĐNTL Tập 1, trang 310).
Năm 1795, ông cùng Phạm Văn Hưng, Trần Quang Diệu, Lê Trung đem binh đánh Diên Khánh. Trong trận đánh ở Vân Canh, Nguyễn Văn Huấn cùng Kiểm điểm Trần Viết Kết phục binh đánh cho Nguyễn Văn Thành đại bại.
Đại Nam Thực Lục viết:
Thủy quân ta chặn ngang cửa biển. Thái úy giặc là Nguyễn Văn Hưng, thống lĩnh là Nguyễn Văn Chân ở trong cửa biển chẹn chỗ hiểm chống giữ. Hộ giá Nguyễn Văn Huấn giữ chợ Vân Sơn và Điểm Kiểm Trấn Viết Kết giữ bảo Hà Nha để chống bộ binh ta. Đông cung dâng biểu xin chia đường tiến đánh.. (ĐNTL Tập 1, trang 319).
Bộ binh của Đông cung từ thượng đạo đánh úp phá được ba bảo Hà Nha, Thị Dã và Chủ Sơn, bắt được hơn 2.000 quân giặc. Điểm kiểm giặc là Trần Viết Kết lùi chạy. Nguyễn Văn Thành khinh suất tiến theo, gặp phục binh nên bị thua. Quân ta bèn giữ bảo Hà Nha.. (ĐNTL Tập 1, trang 320).
Khi thấy Thái sư Bùi Đắc Tuyên lộng quyền, Nguyễn Văn Huấn cùng Đại Tư khấu Vũ Văn Dũng, Thái úy Phạm Văn Hưng làm binh biến giết chết Bùi Đắc Tuyên. Đại Tư mã Ngô Văn Sở và Tham nghị Bùi Đắc Trụ cũng bị thanh trừ ngay sau đó.
Tư khấu giặc là Võ Văn Dũng giết Thái sư giặc là Bùi Đắc Tuyên. Đắc Tuyên là cậu Nguyễn Quang Toản, khi Huệ chết, phó thác cho giúp Quang Toản. Đắc Tuyên lên nhiếp chính, sống chết cho lấy đều ở trong tay, tướng giặc nhiều người oán. Trung thư Trần Văn Kỷ có tội, Đắc Tuyên xử tội đồ, đày ra trạm Mỹ Xuyên. Dũng từ Bắc Thành về, Kỷ đón Dũng nói hết tình trạng Đắc Tuyên chuyên chế lộng quyền, dặn Dũng dùng kế mà giết. Dũng đến Phú Xuân, bàn mưu với Thái úy Nguyễn Văn Hưng và Hộ giá Nguyễn Văn Huấn tuyên bố là ra cánh đồng phía nam để tế cờ, nhân đêm đem đồ đảng vây Đắc Tuyên ở chùa Thiền Lâm. (Đắc Tuyền dùng chùa Thiền Lâm làm dinh ở). Đắc Tuyên lại ngẫu nhiên có việc vào ngủ ở phủ Quang Toản. Dũng bèn dời quân đến vây phủ Đắc Tuyên. Quang Toản bất đắc dĩ phải bắt Đắc Tuyên đưa cho Dũng. Dũng dìm chết. Con Đắc Tuyên là Đắc Thận và bè đảng là Ngô Văn Sở, ngự sử Chương (không rõ họ) hơn mười người đều bị Dũng giết. Quang Toản lại cho Kỷ làm phụ chính. Tư lệ Lê Trung cũng là bè đảng của Đắc Tuyên. Dũng bèn sai Huấn dẫn 500 quân vào thành Quy Nhơn, giả là đến tiếp viện, mà lập mưu trị Trung và Diệu để cướp binh quyền. (ĐNTL Tập 1, trang 320).
Nguyễn Văn Huấn đem binh vào Quy Nhơn để kiềm chế Trần Quang Diệu. Khi Trần Quang Diệu và Lê Trung gian lao rút về đến Quy Nhơn, ông đến tạ tội. Trần Quang Diệu không hỏi đến, kéo quân thẳng về Phú Xuân, cách Hương Giang đối binh với Đại Tư khấu Võ Văn Dũng.
Nội hầu Nguyễn Thế Tử kéo một đạo binh ra canh phòng cả hai bên. Thái úy Phạm Văn Hưng, Tham tri Binh bộ Võ Đình Tú, Lễ bộ Phan Huy Ích phải đi điều đình hai phe.
Cuối cùng hai bên giải binh. Tứ trụ đại thần gồm: Thiếu bảo Nguyễn Văn Huấn, Đại Tư đồ Vũ Văn Dũng, Thiếu phó Trần Quang Diệu, Đại Tư mã Nguyễn Văn Danh. Thái úy Phạm Văn Hưng là bậc cao nhất, nắm binh quyền. Chức Thái sư bỏ trống.
Tướng giặc Trần Quang Diệu đã về Quy Nhơn, Nguyễn Văn Huấn mưu không thành về Thuận Hóa trước, Diệu cũng dẫn quân đi theo. Đến nơi, Nguyễn Quang Toản đem lời giảng giải, bèn lấy Diệu làm Thiếu phó, Huấn làm Thiếu bảo, Vũ Văn Dũng làm Tư đồ, Nguyễn Văn Danh làm Tư mã, gọi là tứ trụ. Từ đó bọn tướng giặc chia thành bè đảng, đánh giết lẫn nhau, Quang Toản không thể ngăn được. (ĐNTL Tập 1, trang 337).
Năm 1798, Nguyễn Văn Huấn sau được điều vào trấn thủ Quy Nhơn thay cho Đại Tư lệ Lê Trung, nhưng do ông bị các tướng của Thái Đức cũ không phục nên lại bị triệu về triều. Do có công lớn, lại bị dè xiểm, Cảnh Thịnh còn nhỏ tuổi đã ra lệnh giết ông. Nguyễn Văn Huấn với Lê Trung, hai viên tướng tài của Tây Sơn cuối cùng bị giết oan. Nhà Tây Sơn suy sụp.
Giặc Nguyễn Quang Toản tính hay nghi kỵ, nghe lời gièm pha. Trong việc biến Tiểu triều, Toản ngờ Tư lệ Lê Trung ở Trà Khúc có dự mưu, gọi Trung về Thuận Hóa, rồi hỏi phụng chính là Trần Văn Kỷ rằng: "Tội Trung có đáng không ?" Kỷ nói: "Đáng". Toản bèn giết Trung. Lại nghe lời nói vu của Thượng thư Hồ Công Diện mà giết Thiếu bảo Nguyễn Văn Huấn. Từ đó các tướng giặc đâm lòng ly tán, nhiều người có chí bỏ chỗ tối về chỗ sáng. (ĐNTL Tập 1, trang 384).
Nhận định
Có thể nhận định rằng Nguyễn Văn Huấn là một viên tướng tài nhưng ông nóng nảy, hung dữ khiến mất lòng nhiều người. Hành động sai lầm nhất là cùng Phạm Văn Hưng ép buộc Nguyễn Nhạc khiến ông uất hận mà chết. Điều này khiến nhiều tướng Tây Sơn sau này trở cờ theo Nguyễn Ánh chống lại triều đình Phú Xuân.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Văn Huấn** () là một trong những tướng lĩnh kiệt xuất của phong trào Tây Sơn. ## Công trạng Nguyễn Văn Huấn là em của Đại Tư mã Nguyễn Văn Danh. Hai anh em
**Nguyễn Văn Danh** () hay **Nguyễn Văn Tứ** là một tướng lĩnh kiệt xuất của phong trào Tây Sơn. Ông là anh của Hộ giá Thượng tướng quân Nguyễn Văn Huấn. Hai anh em là
**Quân đội Tây Sơn** là tổ chức vũ trang của Nhà Tây Sơn, xuất phát từ lực lượng nghĩa quân của phong trào nông dân từ năm 1771 cho đến ngày sụp đổ năm 1802.
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1787–1802)** là giai đoạn thứ hai của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Giai đoạn này bắt đầu khi Nguyễn Ánh trở về tái chiếm Gia
**Lê Văn Hưng** (chữ Hán:黎文興, ?-1794?) là một danh tướng của nhà Tây Sơn. Ông được tôn xưng là một trong Tây Sơn thất hổ tướng. Xuất thân trong một gia đình giàu có, buôn
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1771–1785)** là giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Cuộc chiến tranh này bắt đầu khi các lực lượng nổi dậy của 3
**Nguyễn Văn Trương** (; 1740 - 1810), là một trong Ngũ hổ tướng Gia Định, và là một danh tướng của chúa Nguyễn Phúc Ánh trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự
**Nguyễn Văn Bảo** (阮文寶, 1776 – 1798), hay còn gọi là **Nguyễn Bảo** (阮寶), con của Thái Đức hoàng đế Nguyễn Nhạc của nhà Tây Sơn. ## Tiểu sử Nguyễn Bảo là con trưởng của
**Vũ Văn Dũng** hay **Võ Văn Dũng** (chữ Hán: 武文勇) (1750 - 1802), là một danh tướng của nhà Tây Sơn, đứng đầu trong Tây Sơn thất hổ tướng. Ông là người được vua Quang
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn** là một phần của nội chiến ở Đại Việt thời gian nửa cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19. Đây là cuộc chiến diễn ra chủ
**Trương Văn Đa** (張文多, ? - ?) là phò mã của vua Thái Đức (Nguyễn Nhạc) và là danh tướng nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp **Trương
**Nguyễn Hữu Chỉnh** (, 1741 - 15 tháng 1 năm 1788), biệt hiệu **Quận Bằng** (鵬郡), là nhà quân sự, chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê trung hưng và Tây
**Nguyễn Bá Huân** (1853-1915) tự **Ôn Thanh**, hiệu **Mộ Chân sơn nhân**, sau lấy tên hiệu nữa là **Ái Cúc ẩn sĩ**; là một danh sĩ thời nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ##
**Ngô Văn thi** (chữ Hán: 吳文楚, ?– 1795), còn có tên là **Ngô Văn**, **Ngô Văn Thi**, là một danh tướng của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự
**Lê Văn Thanh** (黎文清) là tướng lĩnh của phong trào Tây Sơn. ## Hành trạng Lê Văn Thanh tham gia phong trào Tây Sơn khi nào không rõ, nhưng ông là tướng lĩnh cao cấp
nhỏ|phải|Tượng Chưởng Trung Quân Nguyễn Văn Thành được tôn trí thờ sau 1868 tại một ngôi miếu cận Đại Nội Huế**Nguyễn Văn Thành** (chữ Hán: 阮文誠; 1758–1817) thiếu thời đã theo cha chinh chiến, về
**Lý Văn Bưu** (李文寶, ?-?) là một võ tướng của nhà Tây Sơn. Ông là một trong bảy vị tướng được tôn gọi là Tây Sơn thất hổ tướng. Lý Văn Bưu còn có tên
**Nguyễn Thị Dung** (阮氏蓉, ? - 1802), là một trong Tây Sơn ngũ phụng thư, và là một nữ tướng của triều Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Bà Dung là
**Nguyễn Quang Toản ** (chữ Hán: 阮光纘, 1783 – 1802), là vị hoàng đế thứ 3 và cuối cùng của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông là con trai của vua Quang
**Phaolô Nguyễn Văn Bình** (1 tháng 9 năm 1910 – 1 tháng 7 năm 1995) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Tổng giám mục Tiên khởi của Tổng
**Trương Huân** (; 16 tháng 9 năm 1854 - 11 tháng 9 năm 1923), tự **Thiếu Hiên** (少軒), hiệu **Tùng Thọ Lão nhân** (號松壽老人), là một tướng lĩnh bảo hoàng, trung thành với nhà Thanh
**Trần Văn Kỷ** (chữ Hán: 陳文紀, ?- 24 tháng 12 năm 1801), còn có tên là **Trần Chánh Kỷ** là một công thần dưới triều Tây Sơn; và là bậc danh sĩ ở Nam Hà,
**Đô đốc Tuyết** (chữ Hán: 都督雪; ?-1802?), có tên là **Nguyễn Văn Tuyết** (阮文雪), là danh tướng nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông là một trong Tây Sơn thất hổ tướng. ##
**Nguyễn Hữu Thận** (chữ Hán: 阮有慎; 01 tháng 3, 1757- 12 tháng 8, 1831), tự **Chân Nguyên**, hiệu **Ý Trai** (hoặc **Ức Trai**, chữ Hán: 意齋); là nhà toán học và nhà thiên văn học,
**Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận** (17 tháng 4 năm 1928 – 16 tháng 9 năm 2002) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách cương vị
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Lê Trung** (黎忠, ?-1798) là một võ quan cao cấp của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp Thái sư Lê Trung, tên thật là **Lê Văn Trung.** Quê quán của
**Đặng Tiến Đông** (1738–1794 hay 1797) làm quan thời Lê – Trịnh, sau đầu quân Tây Sơn và trở thành danh tướng của lực lượng này. Thân thế và sự nghiệp của ông hiện vẫn
**Phạm Công Hưng** (范公興) hay còn gọi là **Phạm Văn Hưng** (范文興), một danh tướng, trụ cột của nhà Tây Sơn. Phạm Công Hưng là anh em cùng họ với Thái bảo Phạm Văn Tham,
**Nguyễn Văn Ngọc** (1908 - 1999) là một nhà cách mạng và chính khách Việt Nam. Ông từng là Bí thư Thành ủy Hà Nội, từng được huấn luyện để trở thành điệp viên nhảy
**Trần Quang Diệu** (chữ Hán: 陳光耀; 1746 – 1802) là một trong _Tây Sơn thất hổ tướng_ của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông cùng với vợ là nữ tướng Bùi Thị
**Võ Đình Tú** (chữ Hán: 武廷秀, ? - 1799), tự **Tuấn Chi** (俊之), hiệu **Thiết Hán** (鐵漢), là một tì tướng của nhà Tây Sơn, được người đương thời liệt vào Tây Sơn thất hổ
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Trần Danh Tuấn** (chữ Hán: 陳名俊) là một tướng lĩnh của phong trào Tây Sơn. ## Hành trạng Trần Danh Tuấn là Đại Đô đốc, thuộc quyền Tiết chế của Thiếu phó Trần Quang Diệu.
**Bùi Thị Xuân** (; 1752 – 1802) là một trong Tây Sơn ngũ phụng thư, là chính thất của Thái phó Trần Quang Diệu và là một Đô đốc của vương triều Tây Sơn trong
**Nguyễn Cảnh Hoan** (阮景節 1521-1576) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, có tài liệu chép là Nguyễn Cảnh Mô, Trịnh Mô, Nguyễn Hoan tước Tấn Quận công, giữ chức Binh
**Vinh Sơn Nguyễn Văn Long** (**Vincent Long Van Nguyen**, sinh năm 1961) là một giám mục người Úc gốc Việt, hiện giữ chức giám mục chính tòa giáo phận Parramatta, Australia và Chủ tịch Ủy
**Văn Thiên Tường** (, 6 tháng 6, 1236 - 9 tháng 1, 1283) là thừa tướng trung nghĩa lẫm liệt nhà Nam Tống, một thi sĩ nổi tiếng mà tư tưởng yêu nước đã thấm
**Lê Chất** (chữ Hán: 黎質, 1774 - 1826), còn có tên khác là **Lê Tông Chất** (黎宗質), **Lê Văn Chất** (黎文質), **Lê Công Chất** (黎公質) dân gian thường gọi **Hậu quân Chất**, là tướng lĩnh,
**Lê Văn Huân** (1876 - 1929), hiệu **Lâm Ngu**; là một chí sĩ theo đường lối kháng Pháp ở đầu thế kỷ 20 trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp Ông
**Nguyễn Thiếp** (chữ Hán: 阮浹, 1723 - 1804) tự Khải Xuyên, là danh sĩ cuối đời Hậu Lê và Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông là người xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô,
**Trần Viết Kết** (陳曰結), không rõ năm sinh năm mất, là một tướng lĩnh cao cấp của triều đình Tây Sơn. ## Hành trạng trong lịch sử Không rõ Trần Viết Kết tham gia phong
**Nguyễn Văn Trỗi** (1 tháng 2 năm 1940 – 15 tháng 10 năm 1964) là một chiến sĩ biệt động thành phố Sài Gòn, đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, đã
**Nguyễn Văn Tường** (chữ Hán: 阮文祥; 1824–1886), là đại thần phụ chính của nhà Nguyễn. ## Tên họ và thi cử Ông xuất thân từ một gia đình lao động nghèo thuộc làng An Cư,
**Nguyễn Văn Vịnh** (1918 - 1978) là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng. Ông từng là Trưởng phái đoàn Quân đội nhân dân Việt Nam bên cạnh Ủy ban
**Phạm Văn Nhân** (1745 – 1815) là một võ quan đại thần vào cuối thời chúa Nguyễn cai trị Đàng Trong và đầu triều Nguyễn. Ông đã theo chúa Nguyễn Ánh (vua Gia Long sau
**Nguyễn Văn Vỹ** (1916 - 1981) nguyên là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, mang cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị do Quân
**Nguyễn Năng** (1927 – 2010) là sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, Phó Giáo sư, nguyên Phó Tư lệnh Quân khu 2, Phó Viện trưởng Học viện
**Nguyễn Viên** (1752-1804) là quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Nguyễn Viên quê làng Bột Thượng, xã Hoằng Lộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa, sinh ra trong một gia
**Nguyễn Văn Lập** (1927 - 25 tháng 6 năm 2021), tên khai sinh **Kostas Sarantidis** (tiếng Hy Lạp: Κώστας Σαραντίδης), là một chiến sĩ người Hy Lạp–Việt Nam. Ông là người nước ngoài duy nhất