Lê Trung (黎忠, ?-1798) là một võ quan cao cấp của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam.
Sự nghiệp
Thái sư Lê Trung, tên thật là Lê Văn Trung. Quê quán của Ông ở làng Phú Mỹ, huyện Phù Ly, phủ Quy Nhơn nay là thôn Khánh Lộc, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Cha của Ông tên là Lê Văn Thể và mẹ của Ông là bà Nguyễn thị Trọng (mộ bà đã bị khai quật vào năm 1984 và xác của bà được ướp trong dung dịch có màu nâu trong). Ông là con trai út. Mặc dù chị của Ông (Minh Phi Lê thị Nga) là vợ của Vua Thái Đức Nguyễn Nhạc nhưng Ông đầu quân vào hàng ngũ lính mộ (vào lính bình thường) của Tây Sơn.
Là người văn võ toàn tài. Sau này tự thân thi thố tài năng và có nhiều đóng góp lớn cho phong trào Tây Sơn, Lê Trung được triều đình Tây Sơn phong Thái Sư.
Nhà Tây Sơn dựng nghiệp Lê Trung đến đầu quân dưới trướng Nguyễn Huệ, được trọng dụng, thường cùng với Huệ bàn việc binh cơ rất đắc.
Năm Bính Ngọ (1786), Vua Thái Đức sai Nguyễn Huệ làm Tiết chế, Vũ Văn Nhậm làm Tả quân Đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm Hữu quân Đô đốc hợp với Nguyễn Văn Lộc làm Thủy sư Đô đốc cùng Nguyễn Lữ chỉ huy thủy binh ra đánh Thuận Hóa. Lê Trung được Nguyễn Huệ cho theo hầu dưới trướng, lập được nhiều chiến công.
Hạ xong thành Phú Xuân, Lê Trung theo Vũ Văn Nhậm, Nguyễn Văn Lộc đánh chiếm và trấn thủ các doanh trại thuộc Quảng Trị, Quảng Bình.
Đầu năm 1787, Nguyễn Huệ tổng động viên chừng 6 vạn tới 10 vạn quân Nam tiến tiến vào Qui Nhơn.
Lê Trung, lại ra lệnh để cho quân Nguyễn Huệ ‘mượn đường’, rồi đem quân bản bộ về yết kiến vua Thái Đức. Lê Trung tâu với vua Thái Đức rằng nếu vua trả lại gia quyến cho các tướng thì Nguyễn Huệ sẽ lui binh và nếu Nguyễn Huệ không lui binh thì ông sẽ tự tử để đền tội. Thái Đức giam Lê Trung lại rồi tự mình làm tướng lo việc phòng thủ. Sau khi sự việc giải quyết xong Lê Trung được thả.
Sau trận đại phá quân Thanh vào mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung phong cho ông làm đô đốc, lãnh việc chiêu mộ quân bổ sung vào các đội tượng binh.
Lê Chiêu Thống theo tàn quân Thanh chạy sang Tàu, Lê Duy Chỉ ở lại Tuyên Quang nương nhờ thổ tù Nùng Phúc Tân và Huỳnh Văn Đồng. Lê Duy Chỉ cũng liên kết với các thổ dân ở Vạn Tượng, Trấn Ninh, Trịnh Cao, Quy Hợp, Xiêm La và chuẩn bị đánh chiếm thành Nghệ An làm hành dinh.
Vua Quang Trung được tin. Năm 1791, vua bèn phong cho đô đốc Trần Quang Diệu làm đại tổng quản, Lê Trung làm đại tư lệ cùng xuất quân tiến sang tảo trừ.
Tháng 6 năm Canh Tuất quân của Trần Lê chiếm được Trấn Ninh, hai tù trưởng là Cheo Nam và Cheo Kiêu bị Lê Trung bắt sống.
Tháng 8 cùng năm, Trịnh Cao và Quy Hợp bị chiếm đóng. Tháng 10 thì thủ lãnh Vạn Tượng chống cự không nổi, bỏ thành đem quân chạy trốn. Quân Tây Sơn tràn vào thành, thu hết vàng bạc, châu báu, voi ngựa... đem về nước. Lê Trung lấy được vô số chiêng trống và vài chục thớt voi. Thừa thắng, quân Tây Sơn đánh thẳng đến biên giới Xiêm La, chém được Tả súy Phan Dung và Hữu súy Phan Siêu. Quân Xiêm thua chạy tán loạn.
Dẹp yên biên giới, Trần Quang Diệu và Lê Trung kéo quân về Tuyên Quang đánh Nùng Phúc Tân và Huỳnh Văn Đồng. Nùng, Huỳnh chống cự không lại, bị giết chết. Lê Duy Chỉ chạy trốn không kịp cũng bị giết luôn.
Sau chiến công này, Lê Trung được phong chức Đô đốc.
Tính Trung nghĩa của Lê Trung thường được tướng quân lấy câu thơ của Văn Thiên Tường làm tâm sự:
Nhân gian tự cổ thùy vô tử
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh
Tháng 7 năm Nhâm Tý (1792), vua Quang Trung đột ngột qua đời. Tuân theo di chiếu, Trần Quang Diệu, Bùi Đắc Tuyên và Vũ Văn Dũng cùng tôn phò Nguyễn Quang Toản (10 tuổi) lên ngôi, tức vua Cảnh Thịnh.
Kể từ đó nội bộ nhà Tây Sơn cứ xảy ra việc mất đoàn kết. Thấy vậy, con rể ông là đô đốc Lê Chất bàn ra hàng chúa Nguyễn Phúc Ánh nhưng ông không nghe.
Năm 1793, Nguyễn Phúc Ánh đem Đại binh chiếm Bình Thuận, Diên Khánh và tiến vào Thị Nại, uy hiếp thành Quy Nhơn. Vua Thái Đức chống không lại cầu viện Phú Xuân. Vua Cảnh Thịnh sai Thái úy Phạm Công Hưng, hộ giá Nguyễn Văn Huấn, Đại Tư lệ Lê Trung cùng đại tư mã Ngô Văn Sở đem 17.000 bộ binh cùng 80 thớt voi đi đường bộ phối hợp với Đại Thống lĩnh Đặng Văn Chân đem 30 chiến thuyền vào cứu Quy Nhơn. Nguyễn Phúc Ánh liệu đánh không nổi bèn rút lại binh về Diên Khánh.
Phạm Công Hưng vào thành Quy Nhơn, giải giáp quân Thái Đức, chiếm giữ các kho tàng. Vua Thái Đức uất mà chết. Các đại thần phần cho về qua hưu trí phần ra Huế phục vụ. Con trai Thái Đức là Nguyễn Bảo được phong Hiến công, ăn lộc một huyện, dinh đóng tại lụy sở Tuy Viễn gọi là Tiểu Triều.
Lê Trung và Nguyễn Văn Huấn ở lại trấn thủ Quy Nhơn. Sau đó Tư đồ Nghĩa được cử vào thay Nguyễn Văn Huấn. Huấn vừa về đến Phú Xuân thì Thượng thư Hồ Công Diệu tâu cùng Cảnh Thịnh rằng Huấn ở Quy Nhơn mưu kết thông cùng giặc nên khi bị triệu hồi về kinh thì tỏ ý bất bình. Cảnh Thịnh đợi Huấn vào chầu, thét quân tả hữu bắt đem ra chém.
Năm Mậu Ngọ (1798), Nguyễn Bảo nổi dậy đánh thành Quy Nhơn, nhưng bị dẹp tan. Bảo bị bắt và đem nhận chìm xuống sông cho đến chết. Viên Thái phó Lê Văn Ứng tâu cùng Cảnh Thịnh rằng cuộc nội biến của Tiểu Triều la do Lê Trung chủ mưu, nguyên Lê Trung vốn là người Quy Nhơn, trước kia có kết giao thân mật vua Thái Đức nên có ý muốn liên kết với Nguyễn Bảo đế dựng lại triều đại Thái Đức. Huống nữa, Lê Trung vốn là một phụ tá đắc lực của Trấn thủ Nguyễn Văn Huấn. Nay Huấn bị gia hình nên Trung lập chủ tâm báo thù cho Huấn.
Vua Cảnh Thịnh tin lời tấu, cho triệu Lê Trung về Phú Xuân rồi bắt đem giết đi.
Năm Mậu Ngọ (1798), theo sách Việt sử giai thoại (tập 8) thì lúc bấy giờ Lê Chất đang đóng quân ở Trà Khúc (Quảng Ngãi). Nội bộ Tây Sơn càng mất đoàn kết, trong khi ngoài mặt trận quân chúa Nguyễn lại liên tiếp thắng nhiều trận liền. Vua Cảnh Thịnh ngờ rằng Lê Trung cùng con rể là Lê Chất thông đồng với đối phương, nên giết đi. Lê Chất sợ quá, trốn sang đầu chúa Nguyễn tâu rằng nội biến này là do Lê Trung gây ra, nhà vua bèn sai vời Lê Trung vào dinh, bảo võ sĩ trói lại chém chết.
*Sách Việt Nam sử lược kể:
:Năm Mậu Ngọ (1798) Tiểu triều là Nguyễn Bảo căm tức vua Cảnh Thịnh là Nguyễn Quang Toản chiếm giữ mất đất Quy Nhơn, bèn định bỏ về hàng Nguyễn triều. Vua Cảnh Thịnh biết mưu ấy, sai tướng vào bắt Nguyễn Bảo đưa về dìm xuống sông giết đi.
:Lại có người nói gièm rằng việc Tiểu Triều làm phản là tại quan trấn thủ Lê Trung. Vua Cảnh Thịnh triệu Lê Trung về Phú Xuân, sai võ sĩ bắt chém chết. Được ít lâu quan thiếu phó Nguyễn Văn Huấn cũng bị giết. Từ đó quân Tây Sơn ai cũng nản lòng, có nhiều người bỏ theo về chúa Nguyễn.
Chúa Nguyễn thấy thế Tây Sơn đã suy nhược, đến tháng ba năm Kỷ Mùi (1799) bèn cử đại binh ra đánh Quy Nhơn...
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nhà Lê trung hưng** (chữ Nôm: 茹黎中興, chữ Hán: 黎中興朝, Hán Việt: _Lê trung hưng triều_, 1533–1789) là giai đoạn sau của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê (giai đoạn đầu là nhà Lê
Tranh vẽ cảnh vua Lê thiết triều của Samuel Baron - thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVII. **Hành chính Đàng Ngoài thời Lê trung hưng**, hay còn gọi là **hành chính Đại Việt thời
Biến động biên giới Việt - Trung, 1428 - 1895. **Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Lê trung hưng** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Lê trung hưng ở
**Lê Trung Tông** (chữ Hán: 黎中宗 1535 - 24 tháng 1 năm 1556) là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Lê trung hưng và là thứ 13 của nhà Hậu Lê, ở ngôi từ
thumb|Sứ thần triều cống và chức sắc [[Chăm pa, Lan Xang, Ayutthaya, Taungoo, Demak, Khơme, Lan Na, Ba Tư, Lưu Cầu,... yết kiến triều đình nhà Lê ở Thanh Hóa (tranh thế kỷ 16)]] **Thương
**Tôn giáo Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh những ảnh hưởng của các tôn giáo đối với lãnh thổ Đàng Ngoài nước Đại Việt thời Lê trung hưng do chính quyền vua Lê
nhỏ|320x320px|Tiền thông dụng thời Lê Trang Tông **Tiền tệ Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào thời nhà Lê trung hưng (1593-1789) trong
nhỏ|phải|"Văn quan vinh quy đồ (文官榮歸圖)". quan văn diễu hành, Nghệ An thế kỷ 18 Do nước Đại Việt bị chia cắt thời Lê trung hưng, việc **giáo dục thi cử của Đàng Ngoài** và
Do nước Đại Việt bị chia cắt từ đầu thế kỷ 17, nông nghiệp Đại Việt thời Lê trung hưng bao gồm 2 nội dung _nông nghiệp Đàng Ngoài_ và nông nghiệp Đàng Trong. Nông
**Lê Trung Nghĩa**(?-1786) là quan thời Lê Trung Hưng lãnh đạo quân dân Thanh Hoá chống lại quân Tây Sơn ## Tiểu sử Lê Trung Nghĩa không rõ sinh năm nào người làng Tu, thôn
nhỏ|Diễu binh ở phủ chúa Trịnh **Quân đội nhà Lê trung hưng** là tổng thể tổ chức quân sự của triều đình nhà Hậu Lê bắt đầu từ vua Lê Trang Tông đến hết triều
**Tiền tệ Đàng Trong thời Lê trung hưng** trong lịch sử Việt Nam phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông thuộc vùng đất do chúa Nguyễn quản lý. Từ đầu
nhỏ|600x400px|_Võ quan vinh quy đồ_ (**武官榮歸圖**) **Võ học Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh việc đào tạo và thi cử võ bị của chính quyền Lê-Trịnh trong lịch sử Việt Nam. ## Trước
**Hành chính Đàng Trong thời Lê trung hưng** phản ánh bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương ở Đàng Trong - miền Đại Việt từ sông Gianh trở vào, thuộc quyền cai
**Văn học Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** là một bộ phận của văn học Việt Nam, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời nhà Lê trung hưng
**Kinh tế Đàng Trong thời Lê trung hưng** trong lịch sử Việt Nam phản ánh những vấn đề liên quan tới hoạt động kinh tế thuộc vùng đất do chúa Nguyễn quản lý. ## Nông
**Nghệ thuật Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh các loại hình nghệ thuật của nước Đại Việt dưới thời Lê trung hưng trong vùng lãnh thổ do chúa Trịnh cai quản (phía bắc
**Thủ công nghiệp Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** có những biến đổi lớn so với thời Lê Sơ, do sự tác động từ sự du nhập của khoa học kỹ thuật phương Tây. Không
**Khoa học kỹ thuật Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh các thành tựu về sử học, y học và khoa học quân sự miền Bắc nước Đại Việt dưới quyền cai quản của
**Thương mại Đàng Trong thời Lê trung hưng** bao gồm các hoạt động thương mại trong và ngoài nước của miền nam Đại Việt thời Lê trung hưng dưới quyền cai quản của các chúa
Do nước Đại Việt bị chia cắt từ đầu thế kỷ 17, **nông nghiệp Đại Việt** thời Lê trung hưng bao gồm 2 bộ phận: nông nghiệp Đàng Ngoài và **nông nghiệp Đàng Trong**. Nông
**Văn học Đàng Trong thời Lê trung hưng** là một giai đoạn của văn học Việt Nam, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời nhà Lê trung hưng
**Tôn giáo Đàng Trong thời Lê trung hưng** phản ánh những ảnh hưởng của các tôn giáo đối với lãnh thổ Đàng Trong nước Đại Việt thời Lê trung hưng do chúa Nguyễn cai quản.
Do nước Đại Việt bị chia cắt thời Lê trung hưng, việc **giáo dục khoa cử của Đàng Trong** và Đàng Ngoài hoàn toàn tách biệt dưới hai chế độ cai trị của chúa Nguyễn
**Văn học Việt Nam thời Lê trung hưng** là sự phản ánh tiến trình văn học Việt Nam thời Lê trung hưng. ## Đặc trưng Do hoàn cảnh lịch sử, nước An Nam bị chia
thumb|Võ sĩ Đàng Trong thế kỷ 17 trong tranh cuộn Trà ốc tân lục Giao Chỉ độ hàng đồ quyển 朱印船交趾渡航図巻 **Quân đội Đàng Trong thời Lê trung hưng** là tổng thể tổ chức quân
**Tiền Lê Trung Tông** (chữ Hán: 前黎中宗 983 – 21 tháng 12 năm 1005), tên thật **Lê Long Việt** là vị hoàng đế thứ hai của nhà Tiền Lê. Khi vua cha Lê Đại Hành
**Lê Trung Tuấn** (sinh ngày 19 tháng 5 năm 1977) là Chủ tịch Hội đồng quản lý và là người sáng lập Viện Nghiên cứu Tâm lý người sử dụng ma túy PSD. Năm 2016,
**Lê Trung Hưng** (sinh ngày 18 tháng 6 năm 1968) là kiểm sát viên cao cấp người Việt Nam. Ông hiện giữ chức vụ Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên. ##
**Lê Trung Hải **(sinh năm 1957), là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Ưu tú, Bác sĩ cao cấp, nguyên
**Lê Trung Chinh** (sinh năm 1969) là chính trị gia người Việt Nam. Ông nguyên là Phó Bí thư Thành ủy Đà Nẵng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng. Theo thông
Dù Đàng Trong tách thành chính quyền độc lập, **thủ công nghiệp Đàng Trong** về cơ bản cũng có những nét tương đồng so với Đàng Ngoài. Do sự tác động từ sự du nhập
**Lê Trung Thành** (sinh năm 1943) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng. Ông nguyên là Chính ủy Tổng cục Hậu cần, Đại biểu Quốc hội
**Tết Trung thu** còn được gọi là **Tết trông Trăng** hay **Tết hoa đăng** theo Âm lịch là ngày Rằm tháng 8 hằng năm, là một lễ hội truyền thống được kỉ niệm ở văn
**Lê Quý Đôn** (chữ Hán: 黎貴惇, 2 tháng 8 năm 1726 – 11 tháng 6 năm 1784), tên lúc nhỏ là **Lê Danh Phương**, tự **Doãn Hậu** (允厚), hiệu **Quế Đường** (桂堂), là vị quan
**Lê Trung** (黎忠, ?-1798) là một võ quan cao cấp của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp Thái sư Lê Trung, tên thật là **Lê Văn Trung.** Quê quán của
phải|Ải Lê Hoa trong bản đồ châu Thủy Vĩ thời kỳ 1397 - 1688, trên vùng biên giới Đại Việt - Đại Minh 1428-1644, và biên giới Đại Việt - Đại Thanh 1644-1688. **Ải Lê
**Quý Kiệt hoàn dân Thì Trung phát phối** (chính văn: 貴傑還民時中發配) là nhan đề học giới đặt cho một văn tự án chấn động Bắc Hà năm 1775. ## Lịch sử Theo _Tứ bình thực
**Lê Trang Tông** (chữ Hán: 黎莊宗 1515 - 9 tháng 3 năm 1548), hay còn gọi là **Trang Tông Dụ Hoàng đế** (莊宗裕皇帝), tên thật là **Lê Ninh** (黎寧), là vị Hoàng đế thứ 12
**Nội chiến Lê – Mạc** (1533–1677) là cuộc nội chiến giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Phe chống nhà Mạc về sau khi chép sử có gọi đây là
**Lê Anh Tông** (chữ Hán: 黎英宗 1532 - 22 tháng 1 năm 1573), tên húy là **Lê Duy Bang** (黎維邦), là hoàng đế thứ ba của Nhà Lê Trung hưng và là hoàng đế thứ
**Lê Bá Ly** (黎伯驪, 1476-1557) là tướng nhà Lê sơ và nhà Mạc và nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông tham gia cuộc chiến tranh Lê-Mạc lần lượt phục vụ cho
**Lê Trung Tường**, nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị Quốc gia do Quân đội Pháp và
Sách “binh chế chí” trong bộ “lịch triều hiến chương loại chí” của nhà bác học phan huy chú ghi lại câu tục ngữ truyền tụng trong dân gian cuối thời lê trung hưng “đánh
**Lê Trung Đình** (1863-1885), hiệu: **Long Cang**, là một chí sĩ yêu nước đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa kháng chiến chống Pháp ở Quảng Ngãi trong phong trào Cần Vương. ## Thân thế &
**Nhà Hậu Lê** (chữ Nôm: 茹後黎, chữ Hán: 後黎朝, Hán Việt: _Hậu Lê triều_; (1428-1789) là một triều đại phong kiến Việt Nam tồn tại sau thời Bắc thuộc lần 4 và đồng thời với
** Lê Trọng Thứ** hay ** Lê Phú Thứ** (1693 – 1783), đôi khi còn gọi là ** Lê Trung Hiến**, là quan đại thần thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông
**Lê Quýnh** (, Nôm: 黎侗; 1750 - 1805) hay **Lê Doãn Hữu** (黎允有), là một võ quan Đại Việt triều Lê trung hưng. Ông được xem là một trung thần của vua Lê Chiêu Thống.
**Lê Hiển Tông** (chữ Hán: 黎顯宗 20 tháng 5 năm 1717 – 10 tháng 8 năm 1786), tên húy là **Lê Duy Diêu** (黎維祧), là vị hoàng đế áp chót của nhà Lê Trung hưng
**Lê Duy Mật** (黎維樒, ? – 1770) là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa lớn chống lại chúa Trịnh vào giữa thế kỷ 18. Cuộc khởi nghĩa được hình thành và phát triển cùng với