Lê Trung Nghĩa(?-1786) là quan thời Lê Trung Hưng lãnh đạo quân dân Thanh Hoá chống lại quân Tây Sơn
Tiểu sử
Lê Trung Nghĩa không rõ sinh năm nào người làng Tu, thôn Nhuệ thuộc xã An Hoạch, tổng Quảng Chiếu, huyện Đông Sơn.Nhà nghèo nên ông phải trốn làng ra đi tránh phải nấu chè kho khao làng theo tục lệ. Ông đi dến làng Mía, tỉnh Ninh Bình ông được hai vợ chồng chủ quán cho ở nhờ để đi làm công cho làng Mía.Sau đó ông đi lính, sau được chọn làm quân cấm vệ, tình nguyện bị hoạn để phục vụ trong cung. Dần dần ông thăng đến chức Đô đốc Tổng trấn tước Quận Công nên người ta gọi ông là Quận Mãn.
Trong thời kì quân Tây Sơn tiến ra Bắc, Lê Trung Nghĩa lãnh đạo quân dân Thanh Hoá chống lại quân Tây Sơn.
Tháng 11 năm 1786, vua Lê Chiêu Thống và chúa Trịnh Bồng xảy ra xung khắc. Lê Chiêu Thống sai tướng Nguyễn Hữu Chỉnh (trước đây theo Tây Sơn) từ Nghệ An kéo quân ra hộ giá. Chúa Trịnh Bồng cử Trấn thủ Thanh Hoa Lê Trung Nghĩa làm tham lĩnh và Đốc đồng Phan Huy Ích làm đốc thị kéo quân chặn đánh Chỉnh ở địa phận huyện Tĩnh Gia bây giờ nhưng thất bại. Lê Trung Nghĩa bị giết chết.
Đình thờ và lăng mộ
Để cảm ơn công đức của ông, nhân dân địa phương xin lập sinh từ để thờ sống ông khi ông làm Tổng trấn Thanh Hoa. Do biết mình không có con cháu thờ tự (ông là một hoạn quan) nên ông bằng lòng và tự xuất tiền mua ruộng của chín làng giao cho dân cày cấy để lấy cái thờ cúng về sau.Ông thuê thợ làng Nhuệ lấy đá núi Nhồi đục tượng xây thành khu mộ, trên một diện tích mấy ha, nay vẫn còn ở xã Đông Hưng. Trước có đình thờ, cây cối um tùm rậm rạp. Do chiến tranh tàn phá nay chỉ còn lại một cây lộc vừng cổ thụ từ xưa. Đình cũng bị phá, hồ sen bị lấp. Từ ngoài vào có 2 con chó đá (ngao) cao gần 1,5m đứng canh cổng. Ngay tại cửa thềm lên xuống chính điện, hai bên có đôi rồng chầu được chạm trổ, điêu khắc tinh xảo. Số đồ thờ còn lại có hai chiếc ngai bằng đá, chiếc lớn đặt trên một bể đá hình vuông, mỗi chiều khoảng 2m, dày khoảng 0,4m. Hai dãy tượng đá hai bên gồm hai voi, hai ngựa và 10 tượng quan văn võ, tay cầm gươm, đầy đủ trang phục. Phía ngoài vào còn có hai bể đá khắc hình rồng, đường nét tinh xảo. Gần hồ sen cũ có 4 tấm bia đá, mỗi tấm cao khoảng 2m, rộng 1,2m, dày 0,15m vào loại đẹp, ghi tiểu sử Mãn Quận công và tên các làng cúng tế. Văn bia do Lê Quý Thuần, con Lê Quý Đôn viết. Ngày nay, bia và tượng đá ở lăng ông là những tác phẩm điêu khắc với quy mô và số lượng lớn ở nước ta, là những công trình nghệ thuật cuối cùng của thời Lê Trung Hưng còn tồn tại.
Chùa Quán Thánh
Lê Trung Nghĩa khi làm Tổng trấn Thanh Hoa đã cho xây một ngôi chùa trong hang núi mà nhân dân quen gọi là chùa Quán Thánh. Trong chùa, trên vách đá có khắc hình mấy nhân vật lịch sử Trung Hoa như Quan Công, Trương Phi,.. và hình của ông.Chùa Quán Thánh hiện nay là di tích lịch sử của tỉnh Thanh Hoá.
Đường phố
Tên ông được đặt cho một con đường ở phường 12, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lê Trung Nghĩa**(?-1786) là quan thời Lê Trung Hưng lãnh đạo quân dân Thanh Hoá chống lại quân Tây Sơn ## Tiểu sử Lê Trung Nghĩa không rõ sinh năm nào người làng Tu, thôn
**Nhà Lê trung hưng** (chữ Nôm: 茹黎中興, chữ Hán: 黎中興朝, Hán Việt: _Lê trung hưng triều_, 1533–1789) là giai đoạn sau của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê (giai đoạn đầu là nhà Lê
nhỏ|320x320px|Tiền thông dụng thời Lê Trang Tông **Tiền tệ Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào thời nhà Lê trung hưng (1593-1789) trong
Tranh vẽ cảnh vua Lê thiết triều của Samuel Baron - thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVII. **Hành chính Đàng Ngoài thời Lê trung hưng**, hay còn gọi là **hành chính Đại Việt thời
**Văn học Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** là một bộ phận của văn học Việt Nam, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời nhà Lê trung hưng
Biến động biên giới Việt - Trung, 1428 - 1895. **Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Lê trung hưng** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Lê trung hưng ở
**Tôn giáo Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh những ảnh hưởng của các tôn giáo đối với lãnh thổ Đàng Ngoài nước Đại Việt thời Lê trung hưng do chính quyền vua Lê
**Tôn giáo Đàng Trong thời Lê trung hưng** phản ánh những ảnh hưởng của các tôn giáo đối với lãnh thổ Đàng Trong nước Đại Việt thời Lê trung hưng do chúa Nguyễn cai quản.
nhỏ|phải|"Văn quan vinh quy đồ (文官榮歸圖)". quan văn diễu hành, Nghệ An thế kỷ 18 Do nước Đại Việt bị chia cắt thời Lê trung hưng, việc **giáo dục thi cử của Đàng Ngoài** và
**Thủ công nghiệp Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** có những biến đổi lớn so với thời Lê Sơ, do sự tác động từ sự du nhập của khoa học kỹ thuật phương Tây. Không
**Khoa học kỹ thuật Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh các thành tựu về sử học, y học và khoa học quân sự miền Bắc nước Đại Việt dưới quyền cai quản của
Do nước Đại Việt bị chia cắt thời Lê trung hưng, việc **giáo dục khoa cử của Đàng Trong** và Đàng Ngoài hoàn toàn tách biệt dưới hai chế độ cai trị của chúa Nguyễn
Thiếu tướng **Lê Trung Ngôn** (1926-1986) - Nguyên Phó Tư lệnh Binh chủng Công Binh, nguyên Tư lệnh Binh đoàn 11 (Bộ Quốc phòng) quê xã Phú Nhơn (nay là xã Tịnh Ấn), huyện Sơn
**Lê Duy Mật** (黎維樒, ? – 1770) là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa lớn chống lại chúa Trịnh vào giữa thế kỷ 18. Cuộc khởi nghĩa được hình thành và phát triển cùng với
phải|Ải Lê Hoa trong bản đồ châu Thủy Vĩ thời kỳ 1397 - 1688, trên vùng biên giới Đại Việt - Đại Minh 1428-1644, và biên giới Đại Việt - Đại Thanh 1644-1688. **Ải Lê
**Tết Trung thu** còn được gọi là **Tết trông Trăng** hay **Tết hoa đăng** theo Âm lịch là ngày Rằm tháng 8 hằng năm, là một lễ hội truyền thống được kỉ niệm ở văn
**Nội chiến Lê – Mạc** (1533–1677) là cuộc nội chiến giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Phe chống nhà Mạc về sau khi chép sử có gọi đây là
**Lê Trung Đình** (1863-1885), hiệu: **Long Cang**, là một chí sĩ yêu nước đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa kháng chiến chống Pháp ở Quảng Ngãi trong phong trào Cần Vương. ## Thân thế &
**Hoàng Nghĩa Giao** (1623-1662) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông tham gia vào cuộc chiến tranh giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong thời Lê trung hưng. ## Thân thế
Sách “binh chế chí” trong bộ “lịch triều hiến chương loại chí” của nhà bác học phan huy chú ghi lại câu tục ngữ truyền tụng trong dân gian cuối thời lê trung hưng “đánh
**Lê Hiển Tông** (chữ Hán: 黎顯宗 20 tháng 5 năm 1717 – 10 tháng 8 năm 1786), tên húy là **Lê Duy Diêu** (黎維祧), là vị hoàng đế áp chót của nhà Lê Trung hưng
**Lê Thì Hiến** (chữ Hán: 黎時憲, 1609-1674) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp ### Mặt trận phía nam Lê Thì Hiến người làng Phú Hào huyện Lôi
**Lê Đình Kiên** (1621 - 1704) là một viên quan dưới triều Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông là người có tài về chính trị, quân sự, ngoại giao, ngoại thương, nên
**Lê Trọng Nghĩa** (1922 – 22 tháng 2 năm 2015) là đại biểu Quốc hội khóa I, sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Đại tá, nguyên Chánh văn phòng Quân ủy Trung
**Lê Quý Đôn** (chữ Hán: 黎貴惇, 2 tháng 8 năm 1726 – 11 tháng 6 năm 1784), tên lúc nhỏ là **Lê Danh Phương**, tự **Doãn Hậu** (允厚), hiệu **Quế Đường** (桂堂), là vị quan
**Lê Trung** (黎忠, ?-1798) là một võ quan cao cấp của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp Thái sư Lê Trung, tên thật là **Lê Văn Trung.** Quê quán của
**Chùa Kỳ Viên Trung Nghĩa** hay thường gọi tắt là chùa Kỳ Viên tọa lạc ở số 132 Đường Sinh Trung, phường Vạn Thạnh thành phố Nha Trang tỉnh Khánh Hòa. Chùa nằm trên đỉnh
**Nhà Hậu Lê** (chữ Nôm: 茹後黎, chữ Hán: 後黎朝, Hán Việt: _Hậu Lê triều_; (1428-1789) là một triều đại phong kiến Việt Nam tồn tại sau thời Bắc thuộc lần 4 và đồng thời với
** Lê Trọng Thứ** hay ** Lê Phú Thứ** (1693 – 1783), đôi khi còn gọi là ** Lê Trung Hiến**, là quan đại thần thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông
**Lê Quýnh** (, Nôm: 黎侗; 1750 - 1805) hay **Lê Doãn Hữu** (黎允有), là một võ quan Đại Việt triều Lê trung hưng. Ông được xem là một trung thần của vua Lê Chiêu Thống.
**Lê Dụ Tông** (chữ Hán: 黎裕宗 1679 – 27 tháng 2 năm 1731) là vị Hoàng đế thứ 11 của Nhà Lê Trung hưng và thứ 22 của triều Hậu Lê trong lịch sử Việt
**Lê Kính Tông** (chữ Hán: 黎敬宗 1588 – 23 tháng 6 năm 1619) có tên là **Lê Duy Tân** (黎維新), là vị Hoàng đế thứ 5 của nhà Lê Trung hưng và thứ 16 của
**Lê Thần Tông** (chữ Hán: 黎神宗) (1607 – 2 tháng 11 năm 1662) tên húy là **Lê Duy Kỳ** (黎維祺), là vị hoàng đế thứ sáu của nhà Lê Trung hưng và thứ 17 của
**Quý Kiệt hoàn dân Thì Trung phát phối** (chính văn: 貴傑還民時中發配) là nhan đề học giới đặt cho một văn tự án chấn động Bắc Hà năm 1775. ## Lịch sử Theo _Tứ bình thực
**Lê Trang Tông** (chữ Hán: 黎莊宗 1515 - 9 tháng 3 năm 1548), hay còn gọi là **Trang Tông Dụ Hoàng đế** (莊宗裕皇帝), tên thật là **Lê Ninh** (黎寧), là vị Hoàng đế thứ 12
**Lê Bá Ly** (黎伯驪, 1476-1557) là tướng nhà Lê sơ và nhà Mạc và nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông tham gia cuộc chiến tranh Lê-Mạc lần lượt phục vụ cho
**Lê Trung Ngọc** (chữ Hán: 黎忠玉; 1867-1928) là một quan viên Nhà Nguyễn đầu thế kỷ XX. Ông là một trong những người sáng lập Hội Khai trí tiến đức và Hội Nam kỳ tương
**Xã trưởng thời Hậu Lê** trong lịch sử Việt Nam là chức quan được giao nhiệm vụ quản lý xã – đơn vị hành chính cấp trên thôn và dưới hương. Chức này không phải
**Lê Bật Tứ** (chữ Hán: 黎弼四; 1563-1627) là một nhà khoa bảng Việt Nam, đỗ Hoàng giáp khoa Mậu Tuất 1598. Ông từng làm quan dưới thời Lê trung hưng, đến chức Thượng thư Bộ
**Trịnh Lệ** (chữ Hán: 鄭棣, ? - ?), là Vương thân họ Trịnh dưới triều Lê Trung Hưng trong lịch sử Việt Nam. Trịnh Lệ là con trai thứ hai của đức Nghị Tổ Ân
**Lê Gia Tông** (chữ Hán: 黎嘉宗 1661 – 27 tháng 4 năm 1675), tên húy là **Lê Duy Cối** (黎維禬, 黎維𥘺) là vị Hoàng đế thứ 9 của nhà Lê Trung hưng và thứ 20
**Lê Thái Tổ** (chữ Hán: 黎太祖 10 tháng 9 năm 1385 – 5 tháng 10 năm 1433), tên thật là **Lê Lợi** (黎利) là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo quân sự, người đã
**Phong trào kết nghĩa Bắc – Nam** là một phong trào thi đua của một số tỉnh, thành phố Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Khởi động vào năm 1960, phong trào
**Lê Thánh Tông** (chữ Hán: 黎聖宗 25 tháng 8 năm 1442 – 3 tháng 3 năm 1497), huý **Lê Tư Thành** (黎思誠), là vị Hoàng đế thứ tư trên danh nghĩa và thứ năm trên
**_Tam quốc diễn nghĩa_** (giản thể: 三国演义; phồn thể: 三國演義, Pinyin: _sān guó yǎn yì_), nguyên tên là **_Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa_**, là một cuốn tiểu thuyết dã sử về lịch sử
phải|Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Lê sơ ([[1428-1527).]] **Nhà Lê sơ** (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: _Lê sơ triều_) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê.
**Lê** () là một họ của người Việt Nam và Trung Quốc. Họ Lê phổ biến ở miền nam Trung Quốc (Quảng Đông, Hồng Kông). Họ "Lê" của người Trung Quốc (chữ Hán: 黎; bính
nhỏ|318x318px|Hành chính Việt Nam thời Lê Sơ **Hành chính Đại Việt thời Lê sơ**, đặc biệt là sau những cải cách của Lê Thánh Tông, hoàn chỉnh hơn so với thời Lý và thời Trần,
**Lê Lai** là một tướng lĩnh tham gia Khởi nghĩa Lam Sơn, ông được coi là một anh hùng, một tấm gương trung nghĩa với sự kiện nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam là
**Lê Chiêu Tông** (chữ Hán: 黎昭宗 18 tháng 11 năm 1506 – 19 tháng 1 năm 1527), tên thật là **Lê Y** (黎椅), là vị hoàng đế thứ 10 của Hoàng triều Lê nước Đại