✨Lê Trang Tông

Lê Trang Tông

Lê Trang Tông (chữ Hán: 黎莊宗 1515 - 9 tháng 3 năm 1548), hay còn gọi là Trang Tông Dụ Hoàng đế (莊宗裕皇帝), tên thật là Lê Ninh (黎寧), là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Hậu Lê và là vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Lê Trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông còn được dân gian ưu ái đặt cho mỹ danh nghèo nàn là Chúa Chổm.

Trang Tông là con của Chiêu Tông. Lúc Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, ông được Lê Quán cõng chạy sang Ai Lao. Đến năm 1533, được Lại Thế Vinh, Nguyễn Kim đón về làm vua, tái lập triều đại. Đến khoảng đầu thập niên 1540, quân Lê chiếm lại hai vùng Thanh Hóa và Nghệ An làm căn cứ chống lại nhà Mạc, mở ra giai đoạn Nam - Bắc triều. Ông qua đời vào năm 1548, ngôi Hoàng đế được truyền cho Thái tử Lê Huyên, tức Lê Trung Tông.

Thân thế

Đầu thế kỷ 16, nhà Hậu Lê suy yếu. Sau khi các cuộc khởi nghĩa Trần Tuân, cha con Trần Cảo bị dẹp, quyền hành lọt vào tay các tướng lĩnh. Các tướng chia bè phái đánh lẫn nhau. Cuối cùng, Mạc Đăng Dung giành được thắng lợi, giết hai anh em vua Lê Chiêu Tông và Lê Cung Hoàng, lập ra nhà Mạc (1527).

Lê Ninh là con trai duy nhất của vua Lê Chiêu Tông, mẫu thân là bà Phạm Thị Ngọc Quỳnh người sách Cao Trĩ, huyện Thụy Nguyên, trấn Thanh Hóa. Sách "Tân Hưng phủ chí" ghi chép đại lược: "...Cuối đời Lê sơ, quốc gia ly loạn, Lê Chiêu Tông phải lánh về Ngự Thiên, cuộc sống ngày thường thiếu cơm, thiếu áo, bên vua chỉ có mình ngự nữ Ngọc Quỳnh..." Người làng Mỹ Xá (nay là thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) kể rằng Lê Chiêu Tông từng nương náu ở điện Thuần Mỹ tại làng này. Trước vận nước nguy nan, ngự giá xiêu dạt, vua cùng ngự nữ Ngọc Quỳnh khấn rằng: "Nếu lòng trời còn trông về họ Lê, xin cho được giọt máu truyền đời, trước lo phụng thờ tông miếu, cùng trăm quan lo việc trung hưng". Lòng thành cảm động đến Trời cao, ngự nữ Ngọc Quỳnh mang thai, sau sinh ra Lê Ninh, là người con trai duy nhất của Chiêu Tông.

Thần tích cũng kể rằng: Ngày 12 tháng 2 năm Bính Tuất (1526), khi vua em (Lê Cung Hoàng) về tế Tiên đế ở Lam Kinh, vua Lê Chiêu Tông xin đi theo. Khi về đến cửa Hải Thị (nay là xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà), vua xin ở lại để hương khói tổ tông ở Thuần Mỹ điện và Quang Hiếu điện. Lê Cung Hoàng chiều ý Hoàng huynh, Mạc Đăng Dung cho quân giám sát nghiêm ngặt. Mạc Đăng Dung chỉ cho một mình ngự nữ Ngọc Quỳnh ngày ngày được phép đem nước cho vua Chiêu Tông cầm hơi. Bà phải lấy hồ nếp bôi vào yếm (phơi khô), vào trong điện đem giặt yếm lấy hồ nấu cháo. Chiêu Tông cảm động dặn dò bà Ngọc Quỳnh: :"Ninh là giọt máu Hoàng gia, Tông miếu mai sau trông vào nó cả. Vận mệnh nhà ta dài ngắn khó biết, một ngày Trẫm có mệnh hệ nào, nàng nên biệt xứ giữ lấy con nối dõi, một lạy này tỏ lòng biết ơn trước, vậy gắng ghi lòng...".

Cuối năm 1526, Mạc Đăng Dung nghi ngờ Chiêu Tông, cho quân đến sát hại ông. Chiêu Tông biết việc dữ đã đến, gói ghém ít tư trang còn lại, rồi bảo Ngọc Quỳnh nhân đêm dẫn con trốn đi. Lính của Đăng Dung đi lùng bắt Ngọc Quỳnh. Bà bị đuổi gấp quá, liền ôm con nhảy vào bụi rậm. Quân Mạc thấy cành lá gẫy sinh nghi, lấy giáo đâm vào giữa bụi, Ngọc Quỳnh lấy thân che cho Ninh. Vừa may có con cáo lớn nhẩy ra, lính Mạc ngỡ mình đâm nhầm tổ cáo, bỏ đi. Ngọc Quỳnh lấy khăn băng bó vết thương, rồi cứ đêm chạy ngày trốn, lần về quê ngoại tại sách Cao Trĩ, châu Ngọc Lặc, trấn Thanh Hóa. Nhà Mạc tiếp tục truy tìm về tận quê ngoại, bà Ngọc Quỳnh phải dắt con ra phường Thọ Xuân để tránh truy lùng đó khiến các nhà nghiên cứu nghi ngờ vì khoảng cách tuổi tác giữa vua cha Chiêu Tông và vua con Trang Tông quá ngắn, chỉ có 9 năm. Nhà Mạc, trong biểu tâu nhà Minh, phân trần về việc cướp ngôi nhà Lê nói rằng: Nguyễn Kim dựng con mình lên ngôi, nói dối là con của Chiêu Tông.

Nối lại nhà Lê

Nguyễn Kim

Vừa lên ngôi, Trang Tông bàn luận về công tôn phò, lập Nguyễn Kim làm Thượng phụ, Thái sư Hưng quốc công, nắm giữ binh quyền; Đinh Công làm Thiếu úy Hùng quốc công, các tướng tá khác đều được phong thưởng theo thứ bậc. Nhà vua dựa vào vua Sạ Đẩu (Phothisarath) nước Ai Lao để mộ quân, trưng lương chống lại họ Mạc.

Đại Việt Sử ký Toàn thư đánh giá: :"Vua gặp vận gian truân, nhờ được bề tôi cũ tôn lập, bên ngoài kết giao nước láng giềng, bên trong dùng được tướng giỏi, cho nên người người đều vui lòng làm việc, nền móng trung hưng bắt đầu từ đấy." Trang Tông sai Trịnh Duy Liêu đi sứ nước Minh, vượt biển từ Chiêm Thành đi ghé thuyền buôn Quảng Đông. Theo Minh sử, đến năm 1537 mới đến Yên Kinh, tâu lên Gia Tĩnh Đế nhà Minh về việc thoán nghịch của họ Mạc và xin nhà Minh giúp quân. và Trương Tử Phòng ngày xưa.

Vì Trịnh Duy Liêu đi sứ đã lâu mà không thấy tăm hơi, nên đến năm 1536, Trang Tông lại sai Trịnh Viên sang nhà Minh, thỉnh cầu nhà Minh phát binh đánh họ Mạc. Các đại thần nhà Minh đều chủ trương thảo phạt họ Mạc. Tháng 2 âm lịch năm 1537, Gia Tĩnh Đế hạ lệnh cho Cừu Loan và Mao Bá Ôn cùng đánh Mạc Đăng Dung. Mùa đông năm 1540, quân Minh do Mao Bá Ôn chỉ huy kéo quân đến sát biên giới với nước ta. Mạc Đăng Dung dâng biểu xin hàng, tự cởi trần, trói mình cùng với hơn 40 quan lại đến ải Nam Quan thú tội, tình nguyện dâng nạp sáu động thuộc châu Vĩnh An quy về Khâm châu của nhà Minh. Dương Chấp Nhất mời Nguyễn Kim đến chỗ mình rồi bí mật đánh thuốc độc giết chết, quay lại với nhà Mạc. Nhà vua truy tặng Nguyễn Kim là Chiêu Huân Tĩnh công, thụy Trung Hiến, dùng con là Nguyễn Uông làm Lãng quận công, Nguyễn Hoàng làm Hạ Khê hầu, cầm quân đánh họ Mạc. là chỗ hiểm trở.

Ngày 9 tháng 3 năm 1548, Trang Tông qua đời, hưởng dương 34 tuổi. Trịnh Kiểm lập con ông là Thái tử Lê Huyên lên nối ngôi, tức là Lê Trung Tông, táng di thể của ông lại Cảnh lăng (景陵), phía nam Lam Sơn.: 1533 - 1548.

Giai thoại về Chúa Chổm và câu thành ngữ

Xung quanh cuộc đời vua Lê Trang Tông có nhiều giai thoại dân gian. Tương truyền rằng, khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi đã giam vua Lê Chiêu Tông ở phường Đông Hà, nhà vua giấu được ấn "Ngọc tỷ truyền quốc". Có cô bán rượu xinh đẹp, ăn nói có duyên, người làng Lủ (Kim Lũ) gần bên sông Tô Lịch thường mang rượu, bánh đến bán cho lính canh ngục, thấy vua bị giam cô rất thương tình. Cha cô trước là một viên quan nhỏ của nhà Lê, đau lòng trước cảnh nhà Lê gặp vận suy vong mà vua chưa có con trai nối nghiệp, nên đã bày cho con gái chuốc rượu cho quân canh, rồi lẻn vào với vua. Khi được tin cô có thai, Chiêu Tông lén giao cho cô chiếc ấn Ngọc tỷ truyền quốc và dặn trốn đi, sau này nếu sinh được con trai thì tức là Thiên mệnh của nhà Lê vẫn còn chưa dứt, ý Trời vẫn còn cho nhà Lê cơ hội trung hưng. Đứa con trai đó sẽ có ngày khôi phục giang sơn, báo thù cho nhà Lê.

Sau đó, Chiêu Tông bị Mạc Đăng Dung giết. Cô gái làng Lủ nhớ lời dặn của vua, trốn đi nơi khác, sinh ra một con trai đặt tên là Chổm. Nhà nghèo, Chổm phải đi làm thuê và kiếm củi nuôi mẹ. Những lần vào thành bán củi thường la cà vào ăn ở các quán cơm cửa ô, ăn chịu rất nhiều. Chổm lớn lên nhà nghèo, phải đi vay mọi người để sống qua ngày và hứa sẽ trả đủ nợ khi thành đạt.

Sau đó vài năm, có Nguyễn Kim là vị tướng trung thành với triều Lê, muốn phù Lê diệt Mạc. Ông muốn tìm dòng dõi vua Lê để tái lập triều đình nên đã cải trang ra Bắc thăm dò. Một đêm, có vị thần báo mộng "Đón ở sông Tô, thấy ai "cờ son, nón sắt" đấy chính là nhà vua đấy!". Hôm sau, Nguyễn Kim chờ đến trưa mới thấy một bè củi lờ đờ trôi đến. Trời mưa, anh chàng trên bè đội chảo gang nấu kẹo thay nón, tay cầm cây sào có quấn cái khố đỏ. Ông đoán ra "cờ son, nón sắt" chắc là đây, bèn gọi vào hỏi gia thế và nhờ đưa về gặp mẹ. Mẹ Chổm khi biết rõ đây là vị tướng trung thành có chí phò tá nhà Lê thì mới đưa Ngọc tỷ truyền quốc ra và kể đầu đuôi. Ngọc tỷ truyền quốc là vật tượng trưng cho Đế nghiệp nhà Lê, Nguyễn Kim khi đó mới chắc chắn Chổm là hậu duệ Chiêu Tông. Hai mẹ con Chổm được ông bí mật đưa về Ái châu (Thanh Hóa), Chổm được tôn lên làm vua.

Công cuộc diệt Mạc thắng lợi, Chổm trở lại kinh thành Thăng Long. Khi đi qua làng cũ chỗ mẹ con Lê Ninh lánh nạn, một số người bán chịu cho Ninh ngày xưa đổ lại đòi tiền. Họ không biết Lê Ninh làm chức gì nhưng thấy được đi xe giá, quân lính hộ vệ thì chắc là Ninh đã thành đạt, nên họ nhắc lại lời hứa của Ninh. Có nhiều người không phải là chủ nợ nhưng cũng đổ xô lại yêu cầu, đòi hỏi. Người người tấp nập đầy đường, chỉ tay vào nhà vua mà đòi nợ.

Nhà vua không biết mình nợ ai và cũng không biết làm sao mà trả cho hết nên truyền miễn thuế một năm cho dân cả làng để trừ. Mặt khác, triều đình ra lệnh cấm những người đòi nợ không được khi quân chỉ tay xúc phạm nhà vua. Do đó con đường nhỏ có tên là Cấm Chỉ - ngõ có tên tồn tại đến ngày nay ở Hà Nội.

"Nợ như chúa Chổm" trở thành một thành ngữ chỉ những người thiếu nợ quá nhiều. Người đời có câu ca dao: :Vua Ngô ba sáu tấn vàng, :Thác xuống âm phủ chẳng mang được gì. :Chúa Chổm mắc nợ tì tì, :Thác xuống âm phủ kém gì vua Ngô?

Giai thoại này có một số tình tiết dựa trên lịch sử, một số tình tiết lại là hư cấu. Lịch sử ghi lại mẹ của Lê Ninh là ngự nữ Phạm Thị Ngọc Quỳnh, bà đã gắn bó với Chiêu Tông được vài năm chứ không phải là người con gái bán rượu chỉ gặp vua 1 lần. Khi Chiêu Tông bị sát hại thì Lê Ninh đã 11 tuổi chứ không phải mới sinh (nhưng đúng là bà Ngọc Quỳnh đã nhận ủy thác của Chiêu Tông, đưa con trai chạy trốn sự truy đuổi của quân Mạc, rồi mẹ con được vị trung thần là Nguyễn Kim đón về, đưa lên ngôi lập lại nhà Lê). Đoạn kết giai thoại chắc chắn là không có thật, vì Lê Ninh qua đời năm 1548, khi đó nhà Lê vẫn chưa khôi phục được kinh thành Thăng Long.

Gia quyến

  • Thân phụ: Lê Chiêu Tông
  • Thân mẫu: Gia Khánh Thần Hoàng hậu Phạm Thị Ngọc Quỳnh
  • Phối ngẫu: Trinh Thục Dụ Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Cửu
  • Con cái: Lê Huyên (Trung Tông Vũ Hoàng đế)

Nhận định

Sử gia Phan Huy Chú nhận xét về vua Lê Trang Tông:

"Vua lấy trại Sầm Hạ làm nơi hành tại, phong Chiêu Huân công (Nguyễn Kim) làm Thái sư Hưng quốc công, lưu lại Phụ chính; đi lại các động người Man, khoảng gần mười năm, dọn dẹp cỏ rậm lập nên triều đình, thế nước lại nổi lên... cơ nghiệp Trung hưng thực sự bắt đầu từ đây".

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lê Trang Tông** (chữ Hán: 黎莊宗 1515 - 9 tháng 3 năm 1548), hay còn gọi là **Trang Tông Dụ Hoàng đế** (莊宗裕皇帝), tên thật là **Lê Ninh** (黎寧), là vị Hoàng đế thứ 12
**Lê Chiêu Tông** (chữ Hán: 黎昭宗 18 tháng 11 năm 1506 – 19 tháng 1 năm 1527), tên thật là **Lê Y** (黎椅), là vị hoàng đế thứ 10 của Hoàng triều Lê nước Đại
**Lê Trung Tông** (chữ Hán: 黎中宗 1535 - 24 tháng 1 năm 1556) là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Lê trung hưng và là thứ 13 của nhà Hậu Lê, ở ngôi từ
**Lê Thánh Tông** (chữ Hán: 黎聖宗 25 tháng 8 năm 1442 – 3 tháng 3 năm 1497), huý **Lê Tư Thành** (黎思誠), là vị Hoàng đế thứ tư trên danh nghĩa và thứ năm trên
**Lê Thần Tông** (chữ Hán: 黎神宗) (1607 – 2 tháng 11 năm 1662) tên húy là **Lê Duy Kỳ** (黎維祺), là vị hoàng đế thứ sáu của nhà Lê Trung hưng và thứ 17 của
**Lê Chân Tông** (chữ Hán: 黎真宗 1630 – 2 tháng 10 năm 1649) tên húy là **Lê Duy Hựu** (黎維祐, 黎維禔), là vị Hoàng đế thứ 7 của nhà Lê Trung hưng và thứ 18
**Lê Hiến Tông** (chữ Hán: 黎憲宗 6 tháng 9 năm 1461 – 24 tháng 6 năm 1504) là vị hoàng đế thứ sáu của Hoàng triều Lê nước Đại Việt. Ông cai trị từ ngày
**Lê Anh Tông** (chữ Hán: 黎英宗 1532 - 22 tháng 1 năm 1573), tên húy là **Lê Duy Bang** (黎維邦), là hoàng đế thứ ba của Nhà Lê Trung hưng và là hoàng đế thứ
**Lê Dụ Tông** (chữ Hán: 黎裕宗 1679 – 27 tháng 2 năm 1731) là vị Hoàng đế thứ 11 của Nhà Lê Trung hưng và thứ 22 của triều Hậu Lê trong lịch sử Việt
**Lê Kính Tông** (chữ Hán: 黎敬宗 1588 – 23 tháng 6 năm 1619) có tên là **Lê Duy Tân** (黎維新), là vị Hoàng đế thứ 5 của nhà Lê Trung hưng và thứ 16 của
**Lê Thái Tông** (chữ Hán: 黎太宗 22 tháng 12 năm 1423 – 7 tháng 9 năm 1442), tên húy **Lê Nguyên Long** (黎元龍), là vị hoàng đế thứ hai của hoàng triều Lê nước Đại
**Lê Thế Tông** (chữ Hán: 黎世宗 1567 - 12 tháng 10 năm 1599), tên húy là **Lê Duy Đàm** (黎維潭), là vị hoàng đế thứ tư của Hoàng triều Lê - giai đoạn Trung hưng
**Lê Túc Tông** (chữ Hán: 黎肅宗 6 tháng 9 năm 1488 – 12 tháng 1 năm 1505) là vị hoàng đế thứ bảy của Hoàng triều Lê nước Đại Việt. Túc Tông chỉ giữ ngôi
**Lê Thuần Tông** (chữ Hán: 黎純宗 16 tháng 3 năm 1699 – 5 tháng 6 năm 1735) là vị Hoàng đế thứ 13 của triều Lê Trung hưng nước Đại Việt, đồng thời là Hoàng
**Nguyễn Kính phi** (chữ Hán: 阮敬妃; 1444 - 1485), không rõ tên thật, là một phi tần được sủng ái của hoàng đế Lê Thánh Tông, vị minh quân nổi tiếng của triều đại nhà
**Trang Tông** (chữ Hán: 莊宗) là miếu hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách * Hậu Đường Trang Tông Lý Tồn Úc, tại vị 923-926 * Lê Trang Tông Lê Ninh, tại
**Nội chiến Lê – Mạc** (1533–1677) là cuộc nội chiến giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Phe chống nhà Mạc về sau khi chép sử có gọi đây là
**Nhà Lê trung hưng** (chữ Nôm: 茹黎中興, chữ Hán: 黎中興朝, Hán Việt: _Lê trung hưng triều_, 1533–1789) là giai đoạn sau của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê (giai đoạn đầu là nhà Lê
**Lê Kiện** (chữ Hán: 黎鍵;1478–1529), tên thật là **Lê Duy Thành**, là hoàng tử út của vua Lê Thánh Tông, mẹ ông là Trịnh Thị Ngọc Luyện, bà chuyên về quản dạy bốn mỹ đức
Trong lịch sử Việt Nam, giai đoạn **cuối triều Lê sơ** (1516 – 1526) tương ứng với các triều vua Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tông và Lê Cung Hoàng xảy ra khủng hoảng kinh
Biến động biên giới Việt - Trung, 1428 - 1895. **Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Lê trung hưng** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Lê trung hưng ở
nhỏ|Diễu binh ở phủ chúa Trịnh **Quân đội nhà Lê trung hưng** là tổng thể tổ chức quân sự của triều đình nhà Hậu Lê bắt đầu từ vua Lê Trang Tông đến hết triều
**Lê Cung Hoàng** (chữ Hán: 黎恭皇 26 tháng 7 năm 1507 – 15 tháng 9 năm 1527) là vị hoàng đế thứ 11 của nhà Hậu Lê, ở ngôi từ năm 1522 đến 1527, tổng
nhỏ|320x320px|Tiền thông dụng thời Lê Trang Tông **Tiền tệ Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào thời nhà Lê trung hưng (1593-1789) trong
**Lê** () là một họ của người Việt Nam và Trung Quốc. Họ Lê phổ biến ở miền nam Trung Quốc (Quảng Đông, Hồng Kông). Họ "Lê" của người Trung Quốc (chữ Hán: 黎; bính
phải|Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Lê sơ ([[1428-1527).]] **Nhà Lê sơ** (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: _Lê sơ triều_) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê.
**Tađêô Lê Hữu Từ** (28 tháng 10 năm 1897 – 24 tháng 4 năm 1967) là một giám mục Công giáo người Việt Nam, với khẩu hiệu giám mục là "Tiếng kêu trong hoang địa" (_Vox
**Lê Thái Tổ** (chữ Hán: 黎太祖 10 tháng 9 năm 1385 – 5 tháng 10 năm 1433), tên thật là **Lê Lợi** (黎利) là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo quân sự, người đã
**Thanh vương** **Trịnh Tráng** (chữ Hán: 鄭梉, 6 tháng 8 năm 1577 – 28 tháng 5 năm 1657), thụy hiệu **Văn Tổ Nghị vương** (文祖誼王), là chúa Trịnh thứ 2 thời Lê Trung hưng chính
nhỏ|Phân bố quân lực thời Hồng Đức (1471) **Quân đội nhà Lê Sơ** là tổng thể tổ chức quân sự của triều đình nhà Hậu Lê bắt đầu từ vua Lê Thái Tổ đến hết
Vua [[Bảo Đại ngồi trong ngự liễn (kiệu) trên đường tới Đàn Nam Giao làm lễ tế năm 1942]] **Lễ tế giao** (chữ Hán: / ), thường gọi **lễ tế Nam Giao** (chữ Hán: ),
**Mạc Tuyên Tông** (chữ Hán: 莫宣宗 1540 - 1561) tên thật là **Mạc Phúc Nguyên** (莫福源), là hoàng đế thứ tư nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam, ở ngôi từ năm 1546 đến 1561,
**Lê Đại Hành** (chữ Hán: 黎大行; 10 tháng 8 năm 941 - 18 tháng 4 năm 1005), tên húy là **Lê Hoàn** (黎桓). Ông là vị Hoàng đế sáng lập nhà Tiền Lê, trị vì
Lễ đăng quang của Nữ vuơng Elizabeth II của Vuơng quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và các vuơng quốc khác thuộc khối Thịnh vượng chung được diễn ra ngày 02 tháng 6 năm
**Lê Long Đĩnh** (chữ Hán: 黎龍鋌 15 tháng 11 năm 986 – 19 tháng 11 năm 1009) là vị hoàng đế thứ 3 cũng là vị hoàng đế cuối cùng của nhà Tiền Lê trong
**Trần Chân** (chữ Hán: 陳真, 1470-1518) là tướng Đại Việt cuối thời Lê sơ, người xã La Khê, huyện Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam. Ông đã đóng vai trò quan trọng trong việc đánh
**Kinh tế Đại Việt thời Lê sơ** phản ánh những vấn đề liên quan tới hoạt động kinh tế nước Đại Việt vào thời Lê sơ (1428-1527) trong lịch sử Việt Nam. Sau cuộc chiến
**Huy Gia Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 徽嘉皇太后; 1441 - 8 tháng 4, 1505), hay **Trường Lạc Hoàng hậu** (長樂皇后), là phi tần của hoàng đế Lê Thánh Tông, sinh mẫu của hoàng đế Lê
**Lê Đại Cương** (chữ Hán: 黎大綱, 1771 - 1847) còn gọi là **Lê Đại Cang**, tự **Thống Thiện**, hiệu **Kỳ Phong**. Ông là một vị quan nổi tiếng tài năng, trung chính thời Nguyễn, trải
hay **Vĩnh Khánh Đế** hoặc **Hôn Đức công**, là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Lê Trung hưng và thứ 23 của triều Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Lê
Lễ hội làng Vân Côn - Hoài Đức - Hà Nội Lễ hội đua bò 7 núi An Giang **Lễ hội Việt Nam** là sự kiện văn hóa được tổ chức mang tính cộng đồng.
Tranh vẽ cảnh vua Lê thiết triều của Samuel Baron - thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVII. **Hành chính Đàng Ngoài thời Lê trung hưng**, hay còn gọi là **hành chính Đại Việt thời
**Trương Chiêu** (chữ Hán: 张昭, 894 – 972), tự **Tiềm Phu**, người huyện Phạm, Bộc Châu . Ông là sử quan đã hoạt động gần trọn đời Ngũ Đại cho đến đầu đời Tống, phục
**Lê Sùng** (1485 - 13 tháng 11 năm 1509) là một hoàng tôn, vương gia dưới triều đại nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông là con trưởng của hoàng tử Lê Tân,
**Lê Sát** (chữ Hán: 黎察, ? – 1437) là chính khách, nhà quân sự, thừa tướng Đại Việt thời Lê sơ. Ông là người làng Bỉ Ngũ, thuộc Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa,
**Vụ án Lệ Chi viên**, tức **Vụ án vườn vải**, là một vụ án oan nổi tiếng thời Lê sơ. Qua vụ án này, quan Đại thần Hành khiển Nguyễn Trãi và vợ là Lễ
**Tổng thống Philippines** (tiếng Filipino: , đôi khi được gọi là _Presidente ng Pilipinas_) là nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu chính phủ của Philippines. Tổng thống Philippines lãnh đạo chính phủ và thống
nhỏ|318x318px|Hành chính Việt Nam thời Lê Sơ **Hành chính Đại Việt thời Lê sơ**, đặc biệt là sau những cải cách của Lê Thánh Tông, hoàn chỉnh hơn so với thời Lý và thời Trần,
**Lê Lai** là một tướng lĩnh tham gia Khởi nghĩa Lam Sơn, ông được coi là một anh hùng, một tấm gương trung nghĩa với sự kiện nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam là
**Lê Quý Đôn** (chữ Hán: 黎貴惇, 2 tháng 8 năm 1726 – 11 tháng 6 năm 1784), tên lúc nhỏ là **Lê Danh Phương**, tự **Doãn Hậu** (允厚), hiệu **Quế Đường** (桂堂), là vị quan