✨Lê Dụ Tông

Lê Dụ Tông

Lê Dụ Tông (chữ Hán: 黎裕宗 1679 – 27 tháng 2 năm 1731) là vị Hoàng đế thứ 11 của Nhà Lê Trung hưng và thứ 22 của triều Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông có tên húy là Lê Duy Đường (黎維禟, 黎維禎) – là con trai trưởng của vua Lê Hy Tông.

Thân Thế

Lê Dụ Tông là con trưởng vua Lê Hy Tông, mẹ là Nguyễn Thị Ngọc Đệ, người xã Trùng (Xung) Quán, huyện Đông Ngàn.

Cai trị

Ông được vua cha truyền ngôi vào tháng 4 năm Ất Dậu (1705) dưới tác động của Chúa Trịnh và lấy niên hiệu là Vĩnh Thịnh. Đến năm 1720, nhà vua đổi niên hiệu thành Bảo Thái.

Sách Lịch triều tạp kỷ ghi nhận rất tốt đẹp về triều đại Lê Dụ Tông, mà thực chất là lời khen dành cho Trịnh Cương – người lãnh đạo thực tế của Đại Việt khi đó: Bấy giờ thừa hưởng cơ nghiệp thái bình, không xảy binh đao, trong nước vô sự, triều đình có làm được nhiều việc. Pháp độ được rất đầy đủ, kỷ cương thi hành được hết. Xứ xa lạ thì dâng lễ vật tỏ lòng thành, thượng quốc (Trung Quốc) thì trả lại đất. Có thể gọi là đường cực thịnh. Nhà vua rủ tay áo, ngồi ở trên, không phải khó nhọc mà mọi việc đâu ra đấy. Khi nói đến cuộc thịnh trị ở thời bấy giờ người ta tất phải kể đến đời vua này.

Năm 1718, sứ Nhà Thanh sang Đại Việt phong cho nhà vua làm An Nam Quốc vương. Do sự tranh nghị của triều đình, các quan Nhà Thanh cho phép nhà vua hành lễ tam khấu ngũ vái thay vì tam quỳ cửu khấu trước chiếu chỉ vua Thanh. Năm 1724, Dụ Tông bị bệnh đau chân, Chúa Trịnh Cương thay quyền ông làm lễ tế Nam giao.

Năm 1727, Trịnh Cương bức Lê Dụ Tông phế bỏ Hoàng trưởng tử Duy Tường, lập con trai của Chính cung Trịnh thị là Duy Phường làm Hoàng thái tử. Từ đó, Dụ Tông cảm thấy oán hận. Theo bản tấu của Bùi Sĩ Tiêm gửi lên Chúa Trịnh Giang thì: :Tôi thường thấy lúc Tiên đế trị vì, khí sắc bực tức bất bình thổ lộ ra trong câu văn hoặc lời nói. Ngày 20 tháng 4 nǎm Kỷ Dậu (1729), ông bị An Đô vương Trịnh Cương ép nhường ngôi cho Thái tử Lê Duy Phường (sau bị phế làm Hôn Đức công) rồi ra ở cung Kiền Thọ, xưng là Thuận Thiên thừa vận Hoàng thượng. Cương mục cho biết rằng, từ khi bị ra ở điện Kiền Thọ, Thượng hoàng u uất, không vui. Đến tháng Giêng nǎm Tân Hợi (1731) thì ông qua đời, hưởng dương 53 tuổi, truy tôn là Hòa Hoàng đế, miếu hiệu Dụ Tông. Người con thứ của ông là Lê Duy Mật sau này khởi nghĩa chống lại họ Trịnh hơn 30 năm.

Gia quyến

Thân phụ: Lê Hy Tông

Thân mẫu: Nguyễn Thị Ngọc Đệ, thụy ban đầu là Cung Nghi Chương Hoàng hậu,sau truy tôn làm Ôn Từ Hoàng thái hậu.

Hậu phi

Hậu duệ

Và 6 người con trai khác.

Di hài

Trong nhiều tài liệu lịch sử và cả "Lê triều ngọc phả" có ghi, sau khi qua đời, vua Lê Dụ Tông được chôn cất tại làng Cổ Đô, huyện Đông Sơn (nay là thị trấn Thiệu Hóa, huyện Thiệu Hóa) và sau đó mới di táng đến lăng Kim Thạch, trấn Lôi Dương. Còn theo Khâm định Việt sử Thông giám cương mục thì vua Lê Dụ Tông được táng ở lăng Cổ Đô, Đông Sơn, Thanh Hóa, sau dời đi táng ở lăng Kim Thạch, huyện Lôi Dương (nay thuộc Thọ Xuân và Thường Xuân).

Phát hiện

Tháng 2 năm 1958, một nông dân ở làng Bái Trạch (trang Bàn Thạch xưa) trong lúc đào vườn đã phát hiện một chiếc quách. Phá vỡ ra một mảng thì thấy bên trong có quan tài sơn son, thiếp vàng. Sau khi nhận được thông tin, các cơ quan chức năng đã về xử lý bằng cách dùng xi măng vá kín chỗ bị vỡ, sau đó giao cho chính quyền địa phương quản lý.

Khai quật

Từ khi phát hiện ngôi mộ, nhiều kẻ xấu thường xuyên dòm ngó, gây bất an cho chính quyền sở tại. Vì vậy, đầu năm 1964, được phép của Thủ tướng Phạm Văn Đồng (1906 - 2000) và Bộ Văn hóa, đội khảo cổ thuộc Vụ Bảo tồn - Bảo tàng, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và Ty Văn hóa - Thông tin Thanh Hóa đã tổ chức khai quật mộ và mang chiếc quan tài nguyên vẹn làm bằng gỗ Ngọc Am (Pơ mu) về Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.

Ngày 2 tháng 4 năm 1964, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam phối hợp với các giáo sư, bác sĩ của Trường Đại học Y Hà Nội và Viện Giải phẫu tổ chức mở nắp quan tài trước sự chứng kiến của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, lãnh đạo Bộ Văn hóa, Ủy ban Khoa học Nhà nước, Viện Sử học Việt Nam.

Cấu trúc

Quan tài có hai đáy, giữa có một lớp gạo rang dày 10 cm, đáy trên lớp gạo rang có một tấm ván mỏng trổ 7 lỗ tròn theo hình Thất tinh. Sau tấm chăn bông vỏ gấm, thi hài được liệm bởi nhiều lớp quần áo, vải liệm, gồm: 8 lớp đại liệm bằng gấm thêu hoa bạc kích thước 1,5m x 5m, buộc bằng 5 đai lụa; tấm tiểu liệm bằng gấm may kép 2 lần vải; áo Hoàng bào kim tuyến thêu một con rồng lớn phía trước, phía sau và tay áo thêu nhiều rồng nhỏ; 2 áo long bào thêu rồng kim tuyến; 3 bộ vóc vàng may kép đính vào nhau thành một bộ; 3 lớp lụa kép; 3 chiếc quần bằng lụa mỏng, khố bằng vải mỏng. Tay chân của thi hài được đi tất lụa, chân có giày gấm thêu, lót một lớp da thuộc mỏng, trên đầu thì gối một chiếc gối bông, hai tai được nút bằng 2 viên bông bọc lụa, mặt phủ một tấm khăn bằng vải gấm có thêu rồng cùng một chữ Thọ ở giữa và 4 chữ Vạn của nhà Phật ở 4 góc.

Ngoài ra trong quan tài còn có sách, bút lông, túi đựng móng tay, răng rụng, quạt giấy, túi đựng cau trầu, một hộp hình quả cau bên trong đựng thứ bột màu trắng... Khi giở tấm khăn phủ mặt, các nhà khảo cổ hết sức ngỡ ngàng khi thấy da mặt của thi hài còn màu xám nhạt, sau vài phút thì ngả màu xám đều như toàn thân. Thi hài có teo nhưng chưa khô, tay chân thân thể vẫn còn mềm mại, các khớp có thể cử động được. Môi của thi hài bị teo để lộ một hàm răng đen đã rụng một vài chiếc, cằm có chòm râu đen đã điểm bạc...

Ý nghĩa

Từ những cứ liệu sử học, cùng với việc xác định các đồ tùy táng, thi hài, các nhà sử học đã khẳng định đây chính là thi hài của vua Lê Dụ Tông. Đây cũng là ngôi "mộ hợp chất" được đánh giá là to nhất, có tư liệu tốt nhất trong số những ngôi "mộ hợp chất" đã được phát hiện ở Việt Nam.

Đây là lần đầu tiên Bảo tàng Lịch sử Việt Nam có được những y phục của một đế vương thời Lê

Với táng thức đặc biệt, ngôi mộ này cùng với đồ tùy táng được bảo quản rất tốt. Những di vật này và bản thân di hài vua Lê Dụ Tông là tư liệu rất quý đối với nhiều ngành nghiên cứu khoa học, đặc biệt là khảo cổ và nhân trắc học.

Hoàn táng

Từ năm 1964 đến nay, di hài vua Lê Dụ Tông được bảo quản trong kho có môi trường ổn định, phù hợp với điều kiện bảo quản hiện vật hữu cơ, nên vẫn được giữ ở tình trạng tốt.

Từ năm 1996, con cháu họ Lê đã có đề nghị Bộ Văn hóa - Thông tin cho phép đưa di hài nhà vua về hoàn táng tại Thanh Hóa. Nhưng vì nhiều lý do, tâm nguyện này chưa được thực hiện. Tháng 10 năm 2006, Hội đồng họ Lê tiếp tục có văn bản đề nghị với Bộ Văn hóa - Thông tin. Được sự nhất trí của Chủ tịch Nước, Thủ tướng Chính phủ, di hài của vua Lê Dụ Tông được đưa về hoàn táng tại Thanh Hóa.

Đúng 1 giờ sáng ngày 25 tháng 1 năm 2010 (tức 11 tháng 12 năm Kỷ Sửu), lễ nhập quan và tổ chức đưa di hài vua Lê Dụ Tông về hoàn táng tại làng Bái Trạch, xã Xuân Giang, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Ủy ban Nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Hội đồng họ Lê Việt Nam và các đơn vị liên quan thực hiện.

Qua nhiều trao đổi giữa Hội đồng họ Lê Việt Nam, Ủy ban Nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch và sự góp ý của nhiều nhà khoa học, địa điểm hoàn táng được thực hiện tại đúng huyệt đạo đã đặt mộ vua ngày trước tại làng Bái Trạch.

Riêng quan tài và các vật tùy táng đã được liệm theo vua ngày xưa, do khi khai quật lên ngày trước đã có phần hư hỏng, tiếp xúc với không khí trong vài chục năm không thể còn nguyên vẹn, nên dòng họ Lê thống nhất các hiện vật gốc sẽ được lưu giữ thành cổ vật tư liệu của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam về một vị hoàng đế.

Quan tài mới được làm bằng đúng gỗ Ngọc Am, theo đúng kích thước hoa văn cũ, nặng tới 700 kg, 32 bộ áo được may mới theo đúng màu sắc, hoa văn cũ, tuy nhiên không giống được y nguyên như long bào của Vua ngày xưa (vì rất tốn kém).

Ủy ban Nhân dân tỉnh Thanh Hóa cùng Hội đồng họ Lê Việt Nam đã hoàn thành việc xây dựng con đường rải nhựa dài khoảng 600m dẫn từ đường chính vào khu hoàn táng. Toàn bộ khu khuôn viên hoàn táng rộng hơn 5000m² và sẽ được quy hoạch thành khu lăng mộ Vua trong tương lai.

Hành trình đưa di hài vua Lê Dụ Tông về hoàn táng tại Thanh Hóa xuất phát từ Bảo tàng Lịch sử Việt Nam theo đường Đại lộ Thăng Long - đường Hồ Chí Minh vào Lam Kinh dừng lại mươi phút để làm lễ Yết cáo tổ tiên. Tại làng Bái Trạch, Ban Tổ chức làm lễ hạ huyệt và lấp mộ. Lễ hoàn táng kết thúc vào 11 giờ ngày 25 tháng 1 năm 2010.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lê Dụ Tông** (chữ Hán: 黎裕宗 1679 – 27 tháng 2 năm 1731) là vị Hoàng đế thứ 11 của Nhà Lê Trung hưng và thứ 22 của triều Hậu Lê trong lịch sử Việt
**Lê Hiển Tông** (chữ Hán: 黎顯宗 20 tháng 5 năm 1717 – 10 tháng 8 năm 1786), tên húy là **Lê Duy Diêu** (黎維祧), là vị hoàng đế áp chót của nhà Lê Trung hưng
**Lê Thuần Tông** (chữ Hán: 黎純宗 16 tháng 3 năm 1699 – 5 tháng 6 năm 1735) là vị Hoàng đế thứ 13 của triều Lê Trung hưng nước Đại Việt, đồng thời là Hoàng
**Lê Hy Tông** (chữ Hán: 黎熙宗 15 tháng 3 năm 1663 – 3 tháng 4 năm 1716) tên húy là **Lê Duy Cáp** (黎維祫) hay **Lê Duy Hiệp** là vị vua thứ 10 của nhà
**Lê Ý Tông** (chữ Hán: 黎懿宗 29 tháng 3 năm 1719 – 10 tháng 8 năm 1759), tên húy là **Lê Duy Thận** (黎維祳) (hay Lê Duy Chấn) là vị Hoàng đế thứ 14 của
**Lê Thánh Tông** (chữ Hán: 黎聖宗 25 tháng 8 năm 1442 – 3 tháng 3 năm 1497), huý **Lê Tư Thành** (黎思誠), là vị Hoàng đế thứ tư trên danh nghĩa và thứ năm trên
**Lê Chiêu Tông** (chữ Hán: 黎昭宗 18 tháng 11 năm 1506 – 19 tháng 1 năm 1527), tên thật là **Lê Y** (黎椅), là vị hoàng đế thứ 10 của Hoàng triều Lê nước Đại
**Lê Thế Tông** (chữ Hán: 黎世宗 1567 - 12 tháng 10 năm 1599), tên húy là **Lê Duy Đàm** (黎維潭), là vị hoàng đế thứ tư của Hoàng triều Lê - giai đoạn Trung hưng
**Lê Thái Tông** (chữ Hán: 黎太宗 22 tháng 12 năm 1423 – 7 tháng 9 năm 1442), tên húy **Lê Nguyên Long** (黎元龍), là vị hoàng đế thứ hai của hoàng triều Lê nước Đại
**Lê Túc Tông** (chữ Hán: 黎肅宗 6 tháng 9 năm 1488 – 12 tháng 1 năm 1505) là vị hoàng đế thứ bảy của Hoàng triều Lê nước Đại Việt. Túc Tông chỉ giữ ngôi
**Lê Trang Tông** (chữ Hán: 黎莊宗 1515 - 9 tháng 3 năm 1548), hay còn gọi là **Trang Tông Dụ Hoàng đế** (莊宗裕皇帝), tên thật là **Lê Ninh** (黎寧), là vị Hoàng đế thứ 12
**Lê Thần Tông** (chữ Hán: 黎神宗) (1607 – 2 tháng 11 năm 1662) tên húy là **Lê Duy Kỳ** (黎維祺), là vị hoàng đế thứ sáu của nhà Lê Trung hưng và thứ 17 của
**Lê Hiến Tông** (chữ Hán: 黎憲宗 6 tháng 9 năm 1461 – 24 tháng 6 năm 1504) là vị hoàng đế thứ sáu của Hoàng triều Lê nước Đại Việt. Ông cai trị từ ngày
**Lê Kính Tông** (chữ Hán: 黎敬宗 1588 – 23 tháng 6 năm 1619) có tên là **Lê Duy Tân** (黎維新), là vị Hoàng đế thứ 5 của nhà Lê Trung hưng và thứ 16 của
**Lê Huyền Tông** (chữ Hán: 黎玄宗 1654 – 16 tháng 11 năm 1671) tên thật là **Lê Duy Vũ** (黎維禑), tên khác là **Lê Duy Hi** (黎維禧), là vị Hoàng đế thứ tám của nhà
**Lê Chân Tông** (chữ Hán: 黎真宗 1630 – 2 tháng 10 năm 1649) tên húy là **Lê Duy Hựu** (黎維祐, 黎維禔), là vị Hoàng đế thứ 7 của nhà Lê Trung hưng và thứ 18
**Lê Anh Tông** (chữ Hán: 黎英宗 1532 - 22 tháng 1 năm 1573), tên húy là **Lê Duy Bang** (黎維邦), là hoàng đế thứ ba của Nhà Lê Trung hưng và là hoàng đế thứ
**Nguyễn Kính phi** (chữ Hán: 阮敬妃; 1444 - 1485), không rõ tên thật, là một phi tần được sủng ái của hoàng đế Lê Thánh Tông, vị minh quân nổi tiếng của triều đại nhà
**Lê Trung Tông** (chữ Hán: 黎中宗 1535 - 24 tháng 1 năm 1556) là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Lê trung hưng và là thứ 13 của nhà Hậu Lê, ở ngôi từ
**Nguyễn Kính phi** (chữ Hán: 阮敬妃; ? - ?) là một phi tần của hoàng đế Lê Hiến Tông, mẹ nuôi của Lê Uy Mục thuộc triều đại nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt
**Phạm Minh phi** (chữ Hán: ; 1448 – 1498), không rõ tên thật, là một phi tần của hoàng đế Lê Thánh Tông. ## Tiểu sử Minh phi sinh năm 1448, là người huyện Lương
nhỏ|Lê Dư **Lê Dư** (1884- 1967), tên thật là **Lê Đăng Dư**, hiệu _Sở Cuồng_; là nhà nghiên cứu lịch sử và văn học Việt Nam. ## Tiểu sử **Lê Dư** là người ở xã
**Dụ Tông** (chữ Hán: 裕宗) là miếu hiệu của một số vị vua trong lịch sử Trung Quốc và Việt Nam. ## Danh sách * Nguyên Dụ Tông Chân Kim (do Nguyên Thành Tông truy
**Lê Duy Mật** (黎維樒, ? – 1770) là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa lớn chống lại chúa Trịnh vào giữa thế kỷ 18. Cuộc khởi nghĩa được hình thành và phát triển cùng với
**Trần Dụ Tông** (chữ Hán: 陳裕宗) 22 tháng 11 năm 1336 – 25 tháng 5 năm 1369) là vị hoàng đế thứ 7 của triều đại nhà Trần nước Đại Việt, ở ngôi 28 năm
Bình Định là quê hương của các loại hình nghệ thuật như tuồng, bài chòi... với bờ biển dài, nhiều vũng vịnh với những bãi tắm đẹp và danh lam thắng cảnh như:Quy Nhơn, Tam
hay **Vĩnh Khánh Đế** hoặc **Hôn Đức công**, là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Lê Trung hưng và thứ 23 của triều Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Lê
** Lê Trọng Thứ** hay ** Lê Phú Thứ** (1693 – 1783), đôi khi còn gọi là ** Lê Trung Hiến**, là quan đại thần thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông
**Nguyễn Tông Quai** (阮宗乖; trước đây có sách viết là **Nguyễn Tông Khuê** 阮宗奎, 1692 – 2 tháng 4 năm 1767),, hiệu **Thư Hiên** (舒翰); là nhà giáo, nhà thơ và là đại quan nhà
**Lê Hữu Kiều** (黎有喬, 1691-1760) là đại thần nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Lê Hữu Kiều người làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, nay là xã Liêu Xá,
**Tổng Savines-le-Lac** là một tổng của Pháp nằm ở tỉnh Hautes-Alpes trong vùng Provence-Alpes-Côte d'Azur. ## Địa lý Tổng này được tổ chức xung quanh Savines-le-Lac thuộc quận Gap. Độ cao thay đổi từ 770
nhỏ|320x320px|Tiền thông dụng thời Lê Trang Tông **Tiền tệ Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào thời nhà Lê trung hưng (1593-1789) trong
**Hà Tông Huân** (何宗勳, 1697-1766) là đại thần nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp Hà Tông Huân người xã Kim Vực, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa, nay là
**Tổng Muy** là một tổng thuộc tỉnh Var trong vùng Provence-Alpes-Côte d'Azur. ## Địa lý Tổng này được tổ chức xung quanh Muy trong quận Draguignan. Cao độ vùng này từ 0 m (Puget-sur-Argens) đến
**Tổng Le Chesne** là một tổng ở tỉnh Ardennes trong vùng Grand Est. Tổng này được tổ chức xung quanh Chesne ở quận Vouziers. Độ cao trung bình là 189 m. ## Hành chính ##
**Tổng Fossat** là một tổng của Pháp nằm ở tỉnh Ariège trong vùng Occitanie. Tổng này được tổ chức xung quanh Fossat ở quận Pamiers. Độ cao biến thiên từ 197 m (Lézat-sur-Lèze) đến 532
phải|Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Lê sơ ([[1428-1527).]] **Nhà Lê sơ** (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: _Lê sơ triều_) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê.
**Lê** () là một họ của người Việt Nam và Trung Quốc. Họ Lê phổ biến ở miền nam Trung Quốc (Quảng Đông, Hồng Kông). Họ "Lê" của người Trung Quốc (chữ Hán: 黎; bính
**Tổng thống Hoa Kỳ** (, viết tắt là POTUS) là nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu chính phủ của Hoa Kỳ. Tổng thống lãnh đạo chính quyền liên bang Hoa Kỳ và thống
**Lê Thái Tổ** (chữ Hán: 黎太祖 10 tháng 9 năm 1385 – 5 tháng 10 năm 1433), tên thật là **Lê Lợi** (黎利) là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo quân sự, người đã
Trong lịch sử Việt Nam, giai đoạn **cuối triều Lê sơ** (1516 – 1526) tương ứng với các triều vua Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tông và Lê Cung Hoàng xảy ra khủng hoảng kinh
Cuộc **bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1860** là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần lần thứ 19, được tổ chức vào ngày 6 tháng 11 năm 1860. Trong một cuộc
**Tađêô Lê Hữu Từ** (28 tháng 10 năm 1897 – 24 tháng 4 năm 1967) là một giám mục Công giáo người Việt Nam, với khẩu hiệu giám mục là "Tiếng kêu trong hoang địa" (_Vox
**Nội chiến Lê – Mạc** (1533–1677) là cuộc nội chiến giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Phe chống nhà Mạc về sau khi chép sử có gọi đây là
**Trần Chân** (chữ Hán: 陳真, 1470-1518) là tướng Đại Việt cuối thời Lê sơ, người xã La Khê, huyện Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam. Ông đã đóng vai trò quan trọng trong việc đánh
**Nhà Lê trung hưng** (chữ Nôm: 茹黎中興, chữ Hán: 黎中興朝, Hán Việt: _Lê trung hưng triều_, 1533–1789) là giai đoạn sau của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê (giai đoạn đầu là nhà Lê
phải|Tòa nhà Marriner S. Eccles, trụ sở Cục Dự trữ Liên bang**Cục Dự trữ Liên bang** ( – **Fed**) hay **Ngân hàng Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ** là ngân hàng trung ương của Hoa
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Nguyễn Hoằng Dụ** (阮弘裕, ? - 1518) là tướng nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam, người làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn (nay là Hà Trung), Thanh Hóa, Việt Nam. ## Tiểu sử
**Vụ án Lệ Chi viên**, tức **Vụ án vườn vải**, là một vụ án oan nổi tiếng thời Lê sơ. Qua vụ án này, quan Đại thần Hành khiển Nguyễn Trãi và vợ là Lễ