✨Tiền tệ Đàng Ngoài thời Lê trung hưng

Tiền tệ Đàng Ngoài thời Lê trung hưng

nhỏ|320x320px|Tiền thông dụng thời Lê Trang Tông Tiền tệ Đàng Ngoài thời Lê trung hưng phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào thời nhà Lê trung hưng (1593-1789) trong lịch sử Việt Nam.

Tiền trong đời sống kinh tế - xã hội

Tiền đồng lớn và nhỏ

Tiền tệ nước Đại Việt tại Đàng Ngoài (và cả Đàng Trong) trải qua những biến động khá phức tạp. Do sự phát triển mạnh của ngoại thương, tiền đồng rồi tiền kẽm trong nước được dùng cùng lúc với những đồng bạc của phương Tây, thoi vàng và bạc đỉnh và tiền của Nhật Bản mang đến..

Những đồng tiền lưu hành ở cả hai miền Đại Việt khi đó được Lê Quý Đôn, Alexandre de Rhodes, William Dampier, Jérôme Richard, De Choisy, công ty Đông Ấn Hà Lan và công ty Đông Ấn Anh nhắc tới. Alexandre de Rhodes nói về tiền đồng: :Các tiền đồng lớn nhỏ đều được đánh bóng, có hình tròn và 4 chữ đúc ở 1 mặt, có lỗ ở giữa để có thể xỏ qua được. Tiền đồng thường xâu thành dây, mỗi dây có 600 đồng, giữa 60 đồng có đặt dấu chia ra… Dân chúng không dùng túi đựng tiền mà khoác xâu tiền lên vai. Giá trị các đồng tiền này thường thay đổi theo nhu cầu thị trường. Đôi lúc 1100 đồng tiền lớn ngang với 1 đồng ecu vàng (bằng khoảng 3,315 gram vàng), có lúc 3 đồng tiền lớn ngang 1 đồng tiền nhỏ, hoặc cao hơn nếu đồng tiền lớn khan hiếm.

"Tiền lớn" là tiền do khách thương Nhật, Hoa mang vào lưu hành tại cả Đàng Ngoài và Đàng Trong và tiền nhỏ là tiền chỉ lưu hành ở Đàng Ngoài. Tuy nhiên tại Đàng Ngoài, trong những vùng họ Mạc còn quản lý (như Cao Bằng, ngoài ra những năm đầu thế kỷ 17 còn có Thái Nguyên, Lạng Sơn…), tiền cũ của nhà Mạc vẫn còn được lưu hành.

Học theo người Nhật và người Hoa, từ năm 1671 người Anh cũng nắm bắt được hiện trạng thiếu tiền ở cả hai miền Đại Việt, do đó cũng mang tiền tới bán ở Đàng Ngoài tại Phố Hiến. Tác phẩm English East India Company documents relating Pho Hien and Tonkin của Farrigton Anthony cho biết chỉ trong vòng chưa đến 4 năm từ 1672 đến 1676 có các đợt mang tiền đồng từ nước ngoài tới Đàng Ngoài:

  • 22 tháng 8 năm 1672: 3 tàu Hà Lan từ Batavia mang 6 triệu tiền đồng
  • 07 tháng 4 năm 1675: 1 tàu Trung Quốc từ Nhật Bản mang đầy tiền đồng
  • 17 tháng 6 năm 1675: 1 tàu Hà Lan từ Batavia mang 80 rương chứa tiền đồng
  • 23 tháng 2 năm 1676: 2 tàu Trung Quốc từ Nhật Bản mang tiền đồng

Theo Lê Quý Đôn, lúc đó có hai loại tiền là cổ tiền và sử tiền.

  • Cổ tiền hay còn gọi là quý tiền, là đồng tiền lớn. Cứ 60 đồng gọi là 1 mạch hay 1 cổ tiền, nghĩa là 1 quan cổ tiền = 600 đồng
  • Sử tiền hay còn gọi là gián tiền, là đồng tiền nhỏ. Cứ 36 đồng gọi là 1 sử tiền, nghĩa là 1 quan sử tiền = 360 đồng

Quan hệ giữa sử tiền và cổ tiền: cứ 10 sử tiền bằng 6 cổ tiền, là một quan cổ tiền. Cứ 10 tiền cổ tiền là 1 quan 6 tiền 24 đồng sử tiền, cũng là 1 quan cổ tiền. Chênh lệch giữa 1 quan cổ tiền và 1 quan sử tiền là 240 đồng. Theo cung cầu thị trường, tỷ lệ giữa hai loại tiền này có thể có thay đổi một chút. Việc ban thưởng thì lấy sử tiền để tính, còn việc trưng thu nộp thuế thì lấy cổ tiền để tính. Nếu người dân không có cổ tiền đóng, có thể dùng sử tiền, nhưng phải đóng gấp đôi. Ngoài ra việc mua bán trong dân gian cũng dùng sử tiền.

Thương gia người Anh William Dampier đến Đàng Ngoài năm 1688 cũng nói về đồng tiền ở Đại Việt, theo đó đồng là đơn vị nhỏ nhất của tiền đồng, giá trị đồng tiền lên xuống tùy theo cung cầu và số lượng hiện có trên thị trường lúc đó, hoặc tùy vào những người hành nghề đổi chác tiền, mà số đông là phụ nữ. Theo William Dampier, 1000 đồng tiền trị giá tương đương một bảng Anh.

Ngoài ra, các thương nhân nước ngoài buôn bán tại Đại Việt còn gặp những trở ngại khác về hệ thống tiền tệ: 1 quan của Đại Việt bằng 600 đồng; 1 quan của Trung Quốc = lạng bạc = 1000 đồng; nhưng 1 quan tiền Đại Việt chưa bằng 1 lạng bạc; do đó người Việt chỉ dùng đơn vị "ngàn" để đếm tiền mà không dùng chỉ khối lượng bạc. Người Pháp gặp khó khăn trong sự khác biệt này, trong khi các thương nhân người Nhật Bản và Bồ Đào Nha thích nghi nhanh hơn.

Trong thời Vĩnh Thịnh của Lê Dụ Tông và Cảnh Hưng của Lê Hiển Tông, Đàng Ngoài có thứ tiền thông bảo to, bằng đồng tốt, đường kính từ 34–51 mm, chạm trổ hoa văn long phượng rất hoa mỹ, trọng lượng nặng từ 13 – 45,6 gram.

Tiền kẽm

Đến giữa thế kỷ 18, cả Đàng Ngoài và Đàng Trong đều gặp những khó khăn khác nhau, không thể tiếp tục duy trì dùng tiền đồng và bắt buộc phải đúc ra tiền kẽm kém giá trị hơn để phục vụ đời sống.

Nếu như ở Đàng Trong vì không có mỏ đồng và Nhật Bản chấm dứt việc xuất khẩu đồng cho Đàng Trong nên chúa Nguyễn Phúc Khoát phải xoay xở bằng cách tự đúc tiền kẽm thì ở Đàng Ngoài từ giữa thế kỷ 18 nổ ra rất nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân ác liệt nên triều đình phải lo dẹp loạn, thu gom đồng đúc vũ khí. Đàng Ngoài có nhiều mỏ đồng nhưng trong điều kiện chiến tranh loạn lạc không kịp khai thác và trở nên khan hiếm, sau những năm đầu niên hiệu Cảnh Hưng còn đúc tiền đồng, triều đình Đàng Ngoài cũng phải chuyển sang đúc nhiều tiền kẽm để dùng và đã xảy ra việc đúc trộm tiền ở nhiều nơi.

Ban đầu 1 đồng tiền kẽm được tính bằng 1 đồng tiền đồng. Nhưng sau đó tiền kẽm được đúc có trọng lượng thấp đi, chất lượng kém nên dần dần mất giá, 3 đồng kẽm mới bằng 1 đồng tiền đồng.

Năm 1775, khi chiếm được Thuận Hóa của Đàng Trong, Trịnh Sâm tiếp tục cho Bùi Thế Đạt đúc tiền kẽm để sử dụng, và quy định tỷ lệ giá trị giữa tiền hai miền là 3 tiền kẽm Đàng Trong = 1 tiền kẽm Đàng Ngoài.. Sở dĩ có nhiều loại như vậy là vì thời Cảnh Hưng (niên hiệu của Lê Hiển Tông), không chỉ chính quyền trung ương mà cả các chính quyền địa phương (ở các trấn) cũng tham gia đúc tiền, và có cả đúc trộm. Các tiền Cảnh Hưng không chỉ có kích thước khác nhau, chất lượng kim loại khác nhau mà cả các chữ ghi trên đó cũng khác nhau. Nguyên nhân khác nhau vừa là do những thay đổi trong thiết kế đồng tiền, vừa là đúc sai quy cách. Vì vậy chất lượng kim loại đúc tiền có khác nhau, có loại rất đẹp, nhưng cũng có loại rất xấu, có đồng được đúc dày dặn, đẹp, nhưng cũng có đồng quá mỏng, mềm, có thể bẻ gãy được.

Cảnh Hưng thông bảo là loại phổ biến nhất, nhưng loại này lại có nhiều loại phụ với thiết kế khác nhau và chữ ghi trên tiền ở mặt sau cũng khác nhau.

Ngoài tiền Cảnh Hưng thông bảo còn có các loại tiền Cảnh Hưng khác: Cảnh Hưng trung bảo, Cảnh Hưng chí bảo, Cảnh Hưng vĩnh bảo, Cảnh Hưng đại bảo, Cảnh Hưng thái bảo, Cảnh Hưng cự bảo, Cảnh Hưng trọng bảo, Cảnh Hưng tuyền bảo, Cảnh Hưng thuận bảo, Cảnh Hưng chính bảo, Cảnh Hưng nội bảo, Cảnh Hưng dụng bảo, Cảnh Hưng lai bảo, Cảnh Hưng thận bảo, Cảnh Hưng thọ trường, Cảnh Hưng Dụng bảo, Cảnh Hưng trọng bảo,... nhỏ|Cảnh Hưng thông bảo Ngoài ra còn các loại tiền ở sau lưng có đề các chữ: Kinh (Tiền được đúc ở Kinh đô), Công (Bộ Công chịu tránh nhiệm đúc), Trung (Trung tâm - xưởng đúc Kinh đô), Đại (Tiền đúc ở Tứ trấn sát Kinh đô: Kinh Bắc, Sơn Nam, Hải Dương và Sơn Tây), Tiểu (Các trấn xa hơn: Yên Quảng, Thái Nguyên, Thanh Hóa...), Thị (chợ), Thượng (Sơn Nam Thượng), Sơn Tây hoặc Tây, Sơn Nam, Xương (huyện Thọ Xương). Trên tiền còn có các chữ ghi năm đúc như: Canh Thân, Tân Dậu, Nhâm Tuất... Các loại tiền như trên được phát hiện ở hầu khắp cả nước, nhất là các tỉnh phía Bắc. Riêng ở Nghệ An, các nhà nghiên cứu còn sưu tầm được một đồng tiền Cảnh Hưng Anh bảo. Các nhà nghiên cứu cho rằng những đồng tiền Cảnh Hưng có chất lượng vừa có giá trị tiêu dùng, vừa mang ý nghĩa tự tôn dân tộc.

;Chiêu Thống thông bảo Chiêu Thống là niên hiệu duy nhất của Lê Mẫn Đế, vua cuối cùng nhà Lê trung hưng ở ngôi 3 năm. Khảo cổ học cho thấy tiền kim loại Chiêu Thống thông bảo có nhiều loạt khác nhau. Thêm vào đó, mỗi loạt đều được đúc nhiều lần, mỗi lần kích thước lại khác nhau một chút. Chiếu Thống thông bảo được phát hành dưới thời Lê Mẫn Đế, nhưng ai phát hành thì không rõ vì có quá nhiều loạt và nhiều kích cỡ. Thời Lê Mẫn Đế (Chiêu Thống), lúc đầu có thế lực của họ Trịnh (chúa Trịnh Bồng), lúc sau thì có thế lực của nhà Tây Sơn, trung ương cũng đã không kiểm soát được các địa phương.

Các loạt đều có bốn chữ Chiêu Thống thông bảo đúc nổi và được đọc chéo. Nhưng có một loạt thì chữ Thống viết là 綂, các loạt khác chữ Thống đều viết là 統. Không rõ loạt chữ Thống viết là 綂 có phải là tiền do chính quyền đúc hay không.

Loạt có chữ Thống viết là 綂 thì mặt sau để trơn, chỉ có viền gờ mép và lỗ. Các loạt khác, loạt thì mặt sau có chữ Nhất (-) phía trên lỗ vuông, loạt thì có một nét sổ dọc trên lỗ, loạt thì có một vành trăng khuyết bên phải và một chấm tròn bên trái lô, loạt thì có hình bốn vành trăng khuyết xếp vòng tròn quanh lỗ, loạt thì có chữ Chính (正) hoặc chữ Chính và cả một chấm tròn, lại có loạt thì có một chữ Sơn (山), loạt lại có hai chữ Sơn Nam, loạt thì có một chữ Trung (中), và có cả loạt có chữ Đại (大). Theo Đỗ Văn Ninh, thì chữ Chính chỉ kinh thành, chữ Sơn chỉ Sơn Tây, chữ Trung chỉ Trung đô phủ, chữ Đại chỉ Thanh Hóa.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|320x320px|Tiền thông dụng thời Lê Trang Tông **Tiền tệ Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào thời nhà Lê trung hưng (1593-1789) trong
**Tiền tệ Đàng Trong thời Lê trung hưng** trong lịch sử Việt Nam phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông thuộc vùng đất do chúa Nguyễn quản lý. Từ đầu
thumb|Sứ thần triều cống và chức sắc [[Chăm pa, Lan Xang, Ayutthaya, Taungoo, Demak, Khơme, Lan Na, Ba Tư, Lưu Cầu,... yết kiến triều đình nhà Lê ở Thanh Hóa (tranh thế kỷ 16)]] **Thương
**Thủ công nghiệp Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** có những biến đổi lớn so với thời Lê Sơ, do sự tác động từ sự du nhập của khoa học kỹ thuật phương Tây. Không
Tranh vẽ cảnh vua Lê thiết triều của Samuel Baron - thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVII. **Hành chính Đàng Ngoài thời Lê trung hưng**, hay còn gọi là **hành chính Đại Việt thời
**Kinh tế Đàng Trong thời Lê trung hưng** trong lịch sử Việt Nam phản ánh những vấn đề liên quan tới hoạt động kinh tế thuộc vùng đất do chúa Nguyễn quản lý. ## Nông
**Tôn giáo Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh những ảnh hưởng của các tôn giáo đối với lãnh thổ Đàng Ngoài nước Đại Việt thời Lê trung hưng do chính quyền vua Lê
**Văn học Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** là một bộ phận của văn học Việt Nam, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời nhà Lê trung hưng
**Khoa học kỹ thuật Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh các thành tựu về sử học, y học và khoa học quân sự miền Bắc nước Đại Việt dưới quyền cai quản của
Do nước Đại Việt bị chia cắt từ đầu thế kỷ 17, nông nghiệp Đại Việt thời Lê trung hưng bao gồm 2 nội dung _nông nghiệp Đàng Ngoài_ và nông nghiệp Đàng Trong. Nông
**Thương mại Đàng Trong thời Lê trung hưng** bao gồm các hoạt động thương mại trong và ngoài nước của miền nam Đại Việt thời Lê trung hưng dưới quyền cai quản của các chúa
nhỏ|phải|"Văn quan vinh quy đồ (文官榮歸圖)". quan văn diễu hành, Nghệ An thế kỷ 18 Do nước Đại Việt bị chia cắt thời Lê trung hưng, việc **giáo dục thi cử của Đàng Ngoài** và
Do nước Đại Việt bị chia cắt từ đầu thế kỷ 17, **nông nghiệp Đại Việt** thời Lê trung hưng bao gồm 2 bộ phận: nông nghiệp Đàng Ngoài và **nông nghiệp Đàng Trong**. Nông
**Hành chính Đàng Trong thời Lê trung hưng** phản ánh bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương ở Đàng Trong - miền Đại Việt từ sông Gianh trở vào, thuộc quyền cai
**Tôn giáo Đàng Trong thời Lê trung hưng** phản ánh những ảnh hưởng của các tôn giáo đối với lãnh thổ Đàng Trong nước Đại Việt thời Lê trung hưng do chúa Nguyễn cai quản.
Dù Đàng Trong tách thành chính quyền độc lập, **thủ công nghiệp Đàng Trong** về cơ bản cũng có những nét tương đồng so với Đàng Ngoài. Do sự tác động từ sự du nhập
nhỏ|Diễu binh ở phủ chúa Trịnh **Quân đội nhà Lê trung hưng** là tổng thể tổ chức quân sự của triều đình nhà Hậu Lê bắt đầu từ vua Lê Trang Tông đến hết triều
**Tiền tệ Đại Việt thời Lê sơ** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào thời nhà Lê sơ (1428-1527) trong lịch sử Việt Nam. ## Tiền trong đời sống
**Nhà Lê trung hưng** (chữ Nôm: 茹黎中興, chữ Hán: 黎中興朝, Hán Việt: _Lê trung hưng triều_, 1533–1789) là giai đoạn sau của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê (giai đoạn đầu là nhà Lê
nhỏ|Đàng Ngoài và [[Đàng Trong (1757)]] nhỏ|phải|Bản đồ lãnh thổ Đàng Ngoài (Tonkin), cùng [[Đàng Trong (Cochinchina) và Lào, năm 1771.]] phải|nhỏ|Bản đồ vẽ [[Vân Nam, Ai Lao (phía dưới) và Miền Bắc Việt Nam
Sách “binh chế chí” trong bộ “lịch triều hiến chương loại chí” của nhà bác học phan huy chú ghi lại câu tục ngữ truyền tụng trong dân gian cuối thời lê trung hưng “đánh
**Tiền tệ thời Nam Bắc triều** trong lịch sử Việt Nam phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông trong thời Nam Bắc triều (1527-1592) trên lãnh thổ nước Đại Việt
## LỊCH SỬ KINH TẾ VIỆT NAM ### Thời mở nước * Kinh tế Việt Nam thời Hồng Bàng và An Dương Vương ### Thời Bắc thuộc + Kinh tế Việt Nam thời Bắc thuộc
thumb|right|Tây Sơn Dynasty coinage in the National Museum of Vietnamese History, (2018)|Tiền tệ Tây Sơn. **Tiền tệ Đại Việt thời Tây Sơn** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào
**Khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài** là phong trào nổi dậy của nông dân miền Bắc nước Đại Việt giữa thế kỷ 18 thời vua Lê chúa Trịnh, hay thời Lê mạt, bắt đầu từ
**Lê Quý Đôn** (chữ Hán: 黎貴惇, 2 tháng 8 năm 1726 – 11 tháng 6 năm 1784), tên lúc nhỏ là **Lê Danh Phương**, tự **Doãn Hậu** (允厚), hiệu **Quế Đường** (桂堂), là vị quan
**Thủ công nghiệp Đại Việt thời Lê Sơ** chiếm vị trí khá quan trọng trong nền kinh tế Đại Việt thời Lê Sơ. Có hai loại hình là thủ công nghiệp trong nhân dân và
**Lê Anh Tuấn** (1671-1736), hiệu: **Địch Hiên**, là danh thần, và nhà thơ Việt Nam thời Lê trung hưng. ## Tiểu sử **Lê Anh Tuấn** là người xã Thanh Mai, huyện Tiên Phong, tỉnh Sơn
Đàng Trong và [[Đàng Ngoài (1757).]] **Đàng Trong** (chữ Nôm: 唐冲), hay **Nam Hà** (chữ Hán: 南河) là tên gọi vùng lãnh thổ Đại Việt do chúa Nguyễn kiểm soát, xác định từ sông Gianh
**Lê Hiển Tông** (chữ Hán: 黎顯宗 20 tháng 5 năm 1717 – 10 tháng 8 năm 1786), tên húy là **Lê Duy Diêu** (黎維祧), là vị hoàng đế áp chót của nhà Lê Trung hưng
**Nội chiến Lê – Mạc** (1533–1677) là cuộc nội chiến giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Phe chống nhà Mạc về sau khi chép sử có gọi đây là
**Nông nghiệp Đại Việt thời Tây Sơn** phản ánh chính sách và kết quả hoạt động nông nghiệp nước Đại Việt từ năm 1778 đến năm 1802, không giới hạn trong phạm vi lãnh thổ
** Lê Trọng Thứ** hay ** Lê Phú Thứ** (1693 – 1783), đôi khi còn gọi là ** Lê Trung Hiến**, là quan đại thần thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông
**Hành chính Việt Nam thời Nam Bắc triều** phản ánh bộ máy chính quyền trung ương tới địa phương của hai triều đình Lê-Mạc từ năm 1527-1592 trong lịch sử Việt Nam. Bộ máy hai
**Tiền Việt Nam** được phát hành lần đầu vào giữa thế kỷ 10, thời kỳ nhà nước Đại Cồ Việt dưới sự trị vì của Đinh Tiên Hoàng. Thời phong kiến, gần như mỗi đời
**Trịnh Doanh** (chữ Hán: 鄭楹, 4 tháng 12 năm 1720 – 12 tháng 5 năm 1767), thụy hiệu **Nghị Tổ Ân vương** (毅祖恩王), là vị chúa Trịnh thứ 7 thời Lê Trung hưng trong lịch
Trong lịch sử Việt Nam, giai đoạn **cuối triều Lê sơ** (1516 – 1526) tương ứng với các triều vua Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tông và Lê Cung Hoàng xảy ra khủng hoảng kinh
**Đặng Tiến Đông** (1738–1794 hay 1797) làm quan thời Lê – Trịnh, sau đầu quân Tây Sơn và trở thành danh tướng của lực lượng này. Thân thế và sự nghiệp của ông hiện vẫn
**Kinh tế Việt Nam thời Nam Bắc triều** phản ánh những vấn đề liên quan tới hoạt động kinh tế trong thời Nam Bắc triều (1527-1592) trên lãnh thổ nước Đại Việt đương thời. Thời
**Đoàn Thị Điểm** (段氏點, 1705-1749), hiệu: **Hồng Hà Nữ Sĩ** (紅霞女士), là nữ sĩ Việt Nam thời Lê trung hưng. Bà là tác giả tập _Truyền kỳ tân phả_ (chữ Hán), và tác giả của
**Nguyễn Quý Đức** (chữ Hán: 阮貴德, 1648 -1720), húy là **Tộ** (祚), tự **Bản Nhân** (体仁) hiệu **Đường Hiên** (堂軒), là nhà thơ, nhà giáo, nhà sử học, nhà chính trị Việt Nam thời Lê
**Nguyễn Công Cơ** (Chữ Hán: 阮公基; 1675 - 5/12/1733), tên huý **Tự Cẩm**, hiệu **Cảo Hiên**, tự **Nghĩa Trai**, là một nhà khoa bảng, nhà ngoại giao và danh thần dưới thời Lê Trung Hưng,
**Hồ Sĩ Đống** (1739-1785), tự **Long Phủ**, hiệu **Dao Đình**; sau đổi tên là **Hồ Sĩ Đồng**, tự **Thông Phủ**, hiệu **Trúc Hiên**. Ông là nhà thơ và là đại quan nhà Lê trung hưng
**Đặng Huấn** (?-1583) là đại thần có công giúp nhà Lê trung hưng thời chiến tranh Lê-Mạc trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp Đặng Huấn người làng Lương Xá, huyện Chương Đức, nay
**Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Mạc** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Mạc ở Việt Nam với nhà Minh của Trung Quốc xung quanh vấn đề biên giới
**Lê Kính Tông** (chữ Hán: 黎敬宗 1588 – 23 tháng 6 năm 1619) có tên là **Lê Duy Tân** (黎維新), là vị Hoàng đế thứ 5 của nhà Lê Trung hưng và thứ 16 của
**Lê Thuần Tông** (chữ Hán: 黎純宗 16 tháng 3 năm 1699 – 5 tháng 6 năm 1735) là vị Hoàng đế thứ 13 của triều Lê Trung hưng nước Đại Việt, đồng thời là Hoàng
**Lê Dụ Tông** (chữ Hán: 黎裕宗 1679 – 27 tháng 2 năm 1731) là vị Hoàng đế thứ 11 của Nhà Lê Trung hưng và thứ 22 của triều Hậu Lê trong lịch sử Việt
**Lê Công Hành** (chữ Hán: 黎公衡; 24 tháng 2 năm 1606-7 tháng 7 năm 1661) là một quan lại thời Hậu Lê (Lê Trung Hưng). Ông được tôn xưng là ông tổ nghề thêu cổ
**Lê Thánh Tông** (chữ Hán: 黎聖宗 25 tháng 8 năm 1442 – 3 tháng 3 năm 1497), huý **Lê Tư Thành** (黎思誠), là vị Hoàng đế thứ tư trên danh nghĩa và thứ năm trên