✨Thủ công nghiệp Đàng Ngoài thời Lê trung hưng

Thủ công nghiệp Đàng Ngoài thời Lê trung hưng

Thủ công nghiệp Đàng Ngoài thời Lê trung hưng có những biến đổi lớn so với thời Lê Sơ, do sự tác động từ sự du nhập của khoa học kỹ thuật phương Tây. Không chỉ phát triển về quy mô, thủ công nghiệp Đàng Ngoài còn xuất hiện nhiều ngành nghề mới.

Thủ công nghiệp nhà nước

nhỏ|trái|Một chiếc đỉnh bằng gốm tráng men trang trí đắp nổi rồng và nghê do thợ làng Bát Tràng chế tạo vào năm 1736, thời Cảnh Hưng. Chính quyền Lê-Trịnh ở Đàng Ngoài duy trì các công xưởng và quan xưởng như từ thời nhà Lý. Đây là loại hình sản xuất các vật dụng phục vụ sinh hoạt của triều đình và các loại vũ khí phục vụ chiến tranh.

Các đơn vị thủ công nghiệp nhà nước gọi là Tượng cục, làm việc trong đó là những thợ có trình độ cao được trưng tập vào. Ngoài những nghề truyền thống nhằm phục vụ đời sống sinh hoạt như thợ đá, thợ sơn, thợ mộc, thợ rèn, thợ nề... như trước, còn có những ngành nghề phục vụ mục đích quân sự, chính trị mới như đóng tàu, đúc súng đạn.

Đóng tàu

Chúa Trịnh lập những xưởng đóng tàu, thuyền tại Bãi Cháy và bến Thủy. Sản phẩm là những loại thuyền nhỏ như thuyền Thi hậu, thuyền Hải đạo, thuyền Hải mã, thuyền mui và thuyền Quan hành. Loại lớn nhất có chiều dài 67 thước, rộng 10 thước 5 tấc, có 48 cột chèo. Thuyền mới hoặc thuyền mang sửa chữa phải có người của công phiên kiểm tra chất lượng.

Đúc tiền

Đàng Ngoài có 2 xưởng đúc tiền ở Nhật Chiêu và Cầu Giền trong kinh thành Thăng Long.

Từ năm 1760, do nhu cầu tiền tệ, triều đình mở thêm xưởng đúc tiền tại Sơn Tây. Sau đó các nơi khác cũng đua nhau mở xưởng đúc khiến tiền chất lượng kém, vì vậy triều đình phải đình chỉ việc đúc tiền tại các trấn, chỉ để lại 2 xưởng ở kinh thành.

Thời Lê trung hưng đúc rất nhiều loại tiền, chỉ riêng tiền Cảnh Hưng (niên hiệu của vua Lê Hiển Tông) đã có tới 80 loại.

Đúc súng

Do sự du nhập của khoa học kỹ thuật từ phương Tây, chúa Trịnh đã mở xưởng đúc súng nhờ sự hỗ trợ của người phương Tây. Đến khi các cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài bùng phát, nhu cầu vũ khí lớn, chúa Trịnh cho phá cả các chuông, khánh trong các chùa để làm súng đạn.

Từ khi chiến tranh với họ Nguyễn lắng xuống, tình hình tạm ổn định, triều đình khẳng định độc quyền khai thác mỏ. Chế độ quản giám được thực hiện từ năm 1760, với thành phần gồm: quý tộc, vương hầu, quan lại tự nguyện xin làm và các tù trưởng địa phương có mỏ.

Triều đình có biện pháp khuyến khích khai thác mỏ bằng chính sách miễn thuế 5 năm, sau đó mới chiếu theo số sản xuất để xác định thuế. Người muốn khai thác mỏ (thuộc các thành phần trên) phải có đơn, sau khi được chấp thuận thì tự bỏ tiền đầu tư chiêu công nhân và tổ chức khai thác. Người lao động có thể là người trong nước hoặc nước ngoài, số lượng người làm tại các mỏ được quy định: mỏ lớn 300 người, mỏ vừa 200 người và mỏ nhỏ 100 người. Do hiện tượng có những mỏ ở vùng biên mộ quá nhiều người Hoa sang khai thác làm mất ổn định trật tự địa phương khiến triều đình phải ra lệnh giải tán bớt công nhân ở mỏ Tống Tinh (Cao Bằng) năm 1767.

Năm 1728, nhờ đấu tranh ngoại giao, chúa Trịnh đòi lại được mỏ đồng Tụ Long ở Tuyên Quang bị nhà Thanh lấn chiếm trước đó.

Những mỏ gần vùng biên có công nhân người Thiều Châu, Triều Châu có kinh nghiệm và tay nghề cao nên có năng suất cao hơn. Sau khi đóng thuế, số không nhỏ sản phẩm được những người lao động này mang lén về nước, làm thất thoát tài nguyên khai thác được của Đại Việt mà chính quyền Lê-Trịnh không quản lý được.

Sang thế kỷ 18, triều đình kiểm soát chặt chẽ việc mua bán các loại khoáng sản, nhất là đồng, chì và thiếc, những kim loại cần cho việc chế tạo vũ khí. Đến năm 1759, triều đình cấm hẳn việc mua bán đồng.

Ngành khai thác mỏ trở thành ngành kinh tế quan trọng, góp phần tạo nguồn thu thuế lớn cho triều đình.

Thủ công nghiệp nhân dân

nhỏ|Tượng nghê bằng gốm do thợ gốm làng Bát Tràng làm thời Cảnh Hưng. nhỏ|Tượng hổ bằng gốm do thợ gốm làng Bát Tràng làm thời Cảnh Hưng. Thủ công nghiệp nhân dân chủ yếu phục vụ đời sống sinh hoạt của nhân dân. Một số mặt hàng có chất lượng cao như tơ lụa, gốm, đường có giá trị xuất khẩu.

Nghề làm gốm tiếp tục được phát huy từ nhiều đời tại các làng nghề nổi tiếng như Bát Tràng, Hương Canh, Thổ Hà...

Nghề dệt tạo ra các sản phẩm như lụa, gấm, sa... được thương nhân phương Tây ưa thích. Các làng làm nghề dệt nổi tiếng là Yên Thái, Trích Sài, Trúc Bạch, Mỗ, Ỷ La, Hạ Hồi (Hà Nội), Phùng Xá, Hữu Bằng (Sơn Tây).

Vùng Sơn Nam nổi tiếng có nhiều lò làm đường, phương thức sản xuất thủ công vẫn tồn tại đến nay là dùng trâu bò ép mía và nấu thành đường hoặc mật.

Nghề khắc ván in nổi tiếng nhất tại Liễu Tràng và Hồng Lục (Hải Dương). Thợ ở đây không chỉ hành nghề ở địa phương mà còn ra kinh thành và mở rộng các hoạt động tại các trung tâm văn hóa.

Nghề thêu và nghề làm lọng có ông tổ Lê Công Hành, được phổ biến ở Quất Động (Thường Tín, Hà Nội) từ thế kỷ 17.

Nghề thuộc da trâu, da bò có làng Đào Lâm, Trúc Lâm (Hải Dương), nghề làm nón ra đời ở Phương Trung (Hà Đông, Hà Nội).

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thủ công nghiệp Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** có những biến đổi lớn so với thời Lê Sơ, do sự tác động từ sự du nhập của khoa học kỹ thuật phương Tây. Không
Dù Đàng Trong tách thành chính quyền độc lập, **thủ công nghiệp Đàng Trong** về cơ bản cũng có những nét tương đồng so với Đàng Ngoài. Do sự tác động từ sự du nhập
Do nước Đại Việt bị chia cắt từ đầu thế kỷ 17, nông nghiệp Đại Việt thời Lê trung hưng bao gồm 2 nội dung _nông nghiệp Đàng Ngoài_ và nông nghiệp Đàng Trong. Nông
thumb|Sứ thần triều cống và chức sắc [[Chăm pa, Lan Xang, Ayutthaya, Taungoo, Demak, Khơme, Lan Na, Ba Tư, Lưu Cầu,... yết kiến triều đình nhà Lê ở Thanh Hóa (tranh thế kỷ 16)]] **Thương
**Khoa học kỹ thuật Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh các thành tựu về sử học, y học và khoa học quân sự miền Bắc nước Đại Việt dưới quyền cai quản của
**Văn học Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** là một bộ phận của văn học Việt Nam, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời nhà Lê trung hưng
nhỏ|600x400px|_Võ quan vinh quy đồ_ (**武官榮歸圖**) **Võ học Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh việc đào tạo và thi cử võ bị của chính quyền Lê-Trịnh trong lịch sử Việt Nam. ## Trước
Do nước Đại Việt bị chia cắt từ đầu thế kỷ 17, **nông nghiệp Đại Việt** thời Lê trung hưng bao gồm 2 bộ phận: nông nghiệp Đàng Ngoài và **nông nghiệp Đàng Trong**. Nông
**Kinh tế Đàng Trong thời Lê trung hưng** trong lịch sử Việt Nam phản ánh những vấn đề liên quan tới hoạt động kinh tế thuộc vùng đất do chúa Nguyễn quản lý. ## Nông
**Văn học Đàng Trong thời Lê trung hưng** là một giai đoạn của văn học Việt Nam, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời nhà Lê trung hưng
**Tôn giáo Đàng Trong thời Lê trung hưng** phản ánh những ảnh hưởng của các tôn giáo đối với lãnh thổ Đàng Trong nước Đại Việt thời Lê trung hưng do chúa Nguyễn cai quản.
**Thủ công nghiệp Đại Việt thời Lê Sơ** chiếm vị trí khá quan trọng trong nền kinh tế Đại Việt thời Lê Sơ. Có hai loại hình là thủ công nghiệp trong nhân dân và
nhỏ|Đàng Ngoài và [[Đàng Trong (1757)]] nhỏ|phải|Bản đồ lãnh thổ Đàng Ngoài (Tonkin), cùng [[Đàng Trong (Cochinchina) và Lào, năm 1771.]] phải|nhỏ|Bản đồ vẽ [[Vân Nam, Ai Lao (phía dưới) và Miền Bắc Việt Nam
**Nông nghiệp Đại Việt thời Tây Sơn** phản ánh chính sách và kết quả hoạt động nông nghiệp nước Đại Việt từ năm 1778 đến năm 1802, không giới hạn trong phạm vi lãnh thổ
Sách “binh chế chí” trong bộ “lịch triều hiến chương loại chí” của nhà bác học phan huy chú ghi lại câu tục ngữ truyền tụng trong dân gian cuối thời lê trung hưng “đánh
## LỊCH SỬ KINH TẾ VIỆT NAM ### Thời mở nước * Kinh tế Việt Nam thời Hồng Bàng và An Dương Vương ### Thời Bắc thuộc + Kinh tế Việt Nam thời Bắc thuộc
Đàng Trong và [[Đàng Ngoài (1757).]] **Đàng Trong** (chữ Nôm: 唐冲), hay **Nam Hà** (chữ Hán: 南河) là tên gọi vùng lãnh thổ Đại Việt do chúa Nguyễn kiểm soát, xác định từ sông Gianh
**Phạm Công Trứ** (chữ Hán: 范公著, 1600 - 28 tháng 10 năm 1675) là tể tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Phạm Công Trứ người làng Liêu Xuyên, tổng Liêu Xá,
**Lê Quý Đôn** (chữ Hán: 黎貴惇, 2 tháng 8 năm 1726 – 11 tháng 6 năm 1784), tên lúc nhỏ là **Lê Danh Phương**, tự **Doãn Hậu** (允厚), hiệu **Quế Đường** (桂堂), là vị quan
**Nguyễn Công Cơ** (Chữ Hán: 阮公基; 1675 - 5/12/1733), tên huý **Tự Cẩm**, hiệu **Cảo Hiên**, tự **Nghĩa Trai**, là một nhà khoa bảng, nhà ngoại giao và danh thần dưới thời Lê Trung Hưng,
**Xã trưởng thời Hậu Lê** trong lịch sử Việt Nam là chức quan được giao nhiệm vụ quản lý xã – đơn vị hành chính cấp trên thôn và dưới hương. Chức này không phải
**Nội chiến Lê – Mạc** (1533–1677) là cuộc nội chiến giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Phe chống nhà Mạc về sau khi chép sử có gọi đây là
**Lê Hiển Tông** (chữ Hán: 黎顯宗 20 tháng 5 năm 1717 – 10 tháng 8 năm 1786), tên húy là **Lê Duy Diêu** (黎維祧), là vị hoàng đế áp chót của nhà Lê Trung hưng
** Lê Trọng Thứ** hay ** Lê Phú Thứ** (1693 – 1783), đôi khi còn gọi là ** Lê Trung Hiến**, là quan đại thần thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông
**Đặng Đình Tướng** (鄧廷相, 1649-1735) là đại thần nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế **Đặng Đình Tướng** là người làng Lương Xá, huyện Chương Mỹ, Hà Nội. Ông là
**Lê Hữu Kiều** (黎有喬, 1691-1760) là đại thần nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Lê Hữu Kiều người làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, nay là xã Liêu Xá,
**Lê Thánh Tông** (chữ Hán: 黎聖宗 25 tháng 8 năm 1442 – 3 tháng 3 năm 1497), huý **Lê Tư Thành** (黎思誠), là vị Hoàng đế thứ tư trên danh nghĩa và thứ năm trên
**Trịnh Doanh** (chữ Hán: 鄭楹, 4 tháng 12 năm 1720 – 12 tháng 5 năm 1767), thụy hiệu **Nghị Tổ Ân vương** (毅祖恩王), là vị chúa Trịnh thứ 7 thời Lê Trung hưng trong lịch
**Đặng Tiến Đông** (1738–1794 hay 1797) làm quan thời Lê – Trịnh, sau đầu quân Tây Sơn và trở thành danh tướng của lực lượng này. Thân thế và sự nghiệp của ông hiện vẫn
**Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội**, thường dược biết đến dưới tên giao dịch **Viettel** hay **Tập đoàn Viettel**, là một tập đoàn viễn thông và công nghệ Việt Nam được thành
**Nạn kiêu binh** hay **loạn kiêu binh** (_Kiêu binh chi loạn_, 驕兵之亂) là tên dùng để chỉ sự việc loạn lạc thời Lê Trung Hưng trong lịch sử Việt Nam, do những quân lính gốc
Trong lịch sử Việt Nam, giai đoạn **cuối triều Lê sơ** (1516 – 1526) tương ứng với các triều vua Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tông và Lê Cung Hoàng xảy ra khủng hoảng kinh
**Đoàn Thị Điểm** (段氏點, 1705-1749), hiệu: **Hồng Hà Nữ Sĩ** (紅霞女士), là nữ sĩ Việt Nam thời Lê trung hưng. Bà là tác giả tập _Truyền kỳ tân phả_ (chữ Hán), và tác giả của
**Nguyễn Quý Đức** (chữ Hán: 阮貴德, 1648 -1720), húy là **Tộ** (祚), tự **Bản Nhân** (体仁) hiệu **Đường Hiên** (堂軒), là nhà thơ, nhà giáo, nhà sử học, nhà chính trị Việt Nam thời Lê
**Đặng Huấn** (?-1583) là đại thần có công giúp nhà Lê trung hưng thời chiến tranh Lê-Mạc trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp Đặng Huấn người làng Lương Xá, huyện Chương Đức, nay
**Lê Kính Tông** (chữ Hán: 黎敬宗 1588 – 23 tháng 6 năm 1619) có tên là **Lê Duy Tân** (黎維新), là vị Hoàng đế thứ 5 của nhà Lê Trung hưng và thứ 16 của
**Nông nghiệp Đại Việt thời Mạc** phản ánh tình hình ruộng đất và sản xuất nông nghiệp nước Đại Việt dưới quyền cai quản của nhà Mạc trong khoảng thời gian từ 1527 đến 1592.
**Đặng Thế Khoa** (1593-1656) là quan nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Đặng Thế Khoa người làng Lương Xá, huyện Chương Mỹ, Hà Nội. Ông là con Nghĩa quốc
**Lê Dụ Tông** (chữ Hán: 黎裕宗 1679 – 27 tháng 2 năm 1731) là vị Hoàng đế thứ 11 của Nhà Lê Trung hưng và thứ 22 của triều Hậu Lê trong lịch sử Việt
**Mậu dịch Nanban** (tiếng Nhật: 南蛮貿易, _nanban-bōeki_, "Nam Man mậu dịch") hay "thời kỳ thương mại Nanban" (tiếng Nhật: 南蛮貿易時代, _nanban-bōeki-jidai_, "Nam Man mậu dịch thời đại") là một giai đoạn trong lịch sử Nhật
**Đảng Cộng sản Trung Quốc** (; Hán-Việt: Trung Quốc Cộng sản Đảng), một số văn kiện tiếng Việt còn gọi là **Đảng Cộng sản Tàu**, là đảng chính trị thành lập và điều hành Cộng
**Lê Chiêu Tông** (chữ Hán: 黎昭宗 18 tháng 11 năm 1506 – 19 tháng 1 năm 1527), tên thật là **Lê Y** (黎椅), là vị hoàng đế thứ 10 của Hoàng triều Lê nước Đại
**Trịnh Cương** (chữ Hán: 鄭棡, 9 tháng 7 năm 1686 – 20 tháng 12 năm 1729), còn có tên khác là **Trịnh Chù**, thụy hiệu là **Hy Tổ Nhân vương** (禧祖仁王), là vị chúa Trịnh
**Lê Tương Dực** (chữ Hán: 黎襄翼; 16 tháng 7 năm 1495 – 8 tháng 5 năm 1516) tên thật là **Lê Oanh** (黎瀠), là vị hoàng đế thứ chín của Hoàng triều Lê sơ nước
**Âm nhạc thời Trung cổ** là những tác phẩm âm nhạc phương Tây được viết vào thời kỳ Trung cổ (khoảng 500–1400). Thời kỳ này bắt đầu với sự sụp đổ của Đế chế La
**_Đại Việt sử ký toàn thư_** (), đôi khi gọi tắt là **_Toàn thư_**, là bộ quốc sử viết bằng Hán văn của Việt Nam, viết theo thể biên niên, ghi chép lịch sử Việt
**Lê Thế Tông** (chữ Hán: 黎世宗 1567 - 12 tháng 10 năm 1599), tên húy là **Lê Duy Đàm** (黎維潭), là vị hoàng đế thứ tư của Hoàng triều Lê - giai đoạn Trung hưng
**Bùi Khắc Nhất** (chữ Hán: 裴克一; 1533 - 08/11/1609) quê ở Bột Thái, huyện Hoằng Hóa, ngày nay thuộc xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Ông đỗ Bảng Nhãn năm Ất Sửu
**_Phi công siêu đẳng Maverick_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Top Gun: Maverick_**) là một bộ phim chính kịch hành động của Hoa Kỳ được phát hành vào năm 2022. Bộ phim được đạo diễn bởi
**Đại hội đại biểu Đảng bộ trực thuộc Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam nhiệm kỳ 2020 -2025**, là các đại hội Đảng bộ các tỉnh thành trực thuộc Trung ương Việt Nam và