✨Văn học Đàng Ngoài thời Lê trung hưng

Văn học Đàng Ngoài thời Lê trung hưng

Văn học Đàng Ngoài thời Lê trung hưng là một bộ phận của văn học Việt Nam, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời nhà Lê trung hưng từ năm 1593 đến năm 1789 trong vùng lãnh thổ từ sông Gianh trở ra dưới quyền cai quản của vua Lê chúa Trịnh.

Đặc điểm

Thế kỷ 17 chứng kiến 2 cuộc nội chiến: giữa họ Trịnh và tàn dư họ Mạc, đồng thời giữa họ Trịnh và họ Nguyễn. Văn học chữ Hán vẫn mang dư âm của văn học thế kỷ 16: sự trăn trở của các sĩ phu giữa con đường theo phe nào trong cuộc nội chiến, hoặc ẩn dật an nhàn. Tác gia điển hình nhất trong thời kỳ đầu là Phùng Khắc Khoan với Mai lĩnh sứ hoa thi tậpPhùng công thi tập.

Từ cuối thế kỷ 17 sang thế kỷ 18, hòa bình lập lại đánh dấu sự phát triển thịnh vượng nhất của nền văn học cổ điển Việt Nam. Nhiều tác phẩm ra đời thời kỳ này đến nay vẫn còn là tác phẩm có giá trị. Văn học không hàm chứa ý thức hệ phong kiến mạnh như trước mà hàm chứa nhiều nội dung các giai đoạn lịch sử khác không có.

Nội dung chính của văn học thời kỳ này là những đề tài sau:

  • Tập trung vào việc chống lại của chế độ chính trị đương thời. Các tác phẩm văn học ít nhiều phản ánh sự áp bức bóc lột của giai cấp thống trị và sự phẫn nộ của nhân dân như Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, Trạng Quỳnh, Phạm Tải Ngọc Hoa...
  • Đề cao hạnh phúc và vai trò của con người, nhất là vai trò phụ nữ mà những thời kỳ trước chưa đề cập. Phụ nữ trong văn học thời kỳ này là những người tài sắc, có đức hạnh, không chịu sự ràng buộc theo lễ giáo phong kiến, không chấp nhận cảnh vợ chồng chia ly vì chinh chiến… Họ nói lên tiếng nói đấu tranh để được hưởng những quyền lợi tối thiểu là tự do yêu đương và hạnh phúc. Ngoài ra, những người nghèo trong văn học thời kỳ này đều là những người có đức, có tài, đại diện cho chính nghĩa thắng phi nghĩa trong các truyện thơ nôm như Thạch Sanh, Tống Trân, Phạm Tải, Phạm Công…
  • Phản ánh đúng hiện thức xã hội của tầng lớp phong kiến cai trị. Hầu hết các tác phẩm đề cập quyền sống của con người, nêu cao khát vọng của người lao động muốn có cuộc sống tốt đẹp như Thạch Sanh, Nhị độ mai, Quan Âm Thị Kính, Hoàng Trừu... đều có những nhân tố lãng mạn, nói lên ước vọng táo bạo của con người. Khi xã hội phong kiến bộc lộ mâu thuẫn là cơ sở cho văn học trào phúng phát triển mà điển hình là các truyện tiếu lâm như Trạng Lợn, Trạng Quỳnh.

Về hình thức, văn học chữ Nôm chiếm ưu thế hơn và ngày càng có vai trò quan trọng trong nền văn học. Thể thơ lục bát và song thất lục bát đã hoàn chỉnh; ngôn ngữ phong phú trong sáng, tế nhị. Văn học chữ Nôm thời kỳ này đạt tới đỉnh cao. Từ các truyện Nôm khuyết danh, ngôn ngữ tiếng Việt được kết tinh và đạt tới tầm cao chưa từng có.

Văn học phi chính thống

Văn học dân gian

Cùng với văn học viết, văn học dân gian thời kỳ này cũng có những bước phát triển mạnh mẽ. Phong trào đấu tranh của quần chúng đối với nền thống trị ngày càng tăng, ít nhiều đã dội vào văn học dân gian những nội dung sáng tạo đặc biệt. Những câu ca dao phản ánh sự phân biệt giai cấp và sự phản kháng của quần chúng bị áp bức: :Con vua thì lại làm vua :Con sãi ở chùa thì quét lá đa :Khi nào dân nổi can qua :Con vua thất thế lại ra quét chùa

Hoặc những câu phản ánh đời sống trong phủ chúa cùng sự tranh chấp quyền lực trong bộ máy chính quyền: :Trăm quan có mắt như mờ :Để cho Huy quận vào sờ chính cung :Đục cùn thì giữ lấy "tông" :Đục long "cán" gãy còn mong nỗi gì?

Ngoài ca dao, dân gian còn có những bài vè, điển hình nhất là truyện Quận He để tưởng nhớ thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Nguyễn Hữu Cầu.

Về văn xuôi, Trạng Quỳnh là truyện chống đối chế độ phong kiến một cách có hệ thống, có ý thức và triệt để nhất. Trạng Quỳnh chống cả vua Lê, chúa Trịnh và các quan lại hống hách, giễu cợt các nho sĩ bất tài,… Cùng với Trạng Quỳnh, Trạng Lợn cũng là tác phẩm có tính phê phán sâu sắc; nói về sự may mắn ngẫu nhiên của một chàng con nhà buôn thịt lợn, học dốt nhưng đã lần lượt được thăng quan tiến chức. Điều đó phản ánh đúng thực trạng của xã hội mua quan bán tước thời đó.

Truyện thơ Nôm

Đây là một hiện tượng nổi bật trong văn học thời kỳ này, với rất nhiều truyện Nôm khuyết danh - những tiểu thuyết kể bằng văn vần. Từ thế kỷ 17 đã ra đời những tác phẩm thể loại này như Trinh thử, Trê cóc, Vương Tường, Bạch viên Tôn các; sang thế kỷ 18 có thêm Thạch Sanh, Phạm Tải - Ngọc Hoa, Tống Trân – Cúc Hoa, Phạm Công – Cúc Hoa, Hoàng Trừu, Phương Hoa, Nhị độ mai, Lý Công, Phan Trần, Quan Âm Thị Kính... với quy mô dài hơn.

Sự phát triển nối tiếp của truyện thơ Nôm phản ánh sự đòi hỏi cấp thiết của xã hội về nội dung và hình thức văn học để diễn tả tâm tư, tình cảm con người. Xã hội miêu tả trong các truyện thơ Nôm là xã hội ngột ngạt, nhiều bất công. Ngôn ngữ thể hiện trong các tác phẩm khá mộc mạc và còn thiếu chọn lọc nhưng xét về giá trị nghệ thuật thì nhiều chất trữ tình, hiện thực và phản phong khá rõ nét. Trong nền văn học Việt Nam, truyện thơ Nôm có vị trí khá quan trọng, thể hiện quá trình trưởng thành của ý thức dân tộc và của nền văn học quốc âm Việt Nam.

Văn học chính thống

Các tác gia của mảng văn học này là những nhà Nho thuộc tầng lớp cai trị. Do hoàn cảnh lịch sử, dòng văn học này phát triển theo những hướng khác nhau, biểu hiện trên 2 mặt: tiêu cực và tích cực.

Khuynh hướng tích cực gồm tác phẩm của những tác giả trong chính quyền thống trị nhưng thể hiện sự cảm thông với cuộc sống xã hội khi đó khi chứng kiến cảnh người dân bị bóc lột và tang tóc vì chiến tranh. Họ đi vào phản ánh hiện thực xã hội. Khuynh hướng tiêu cực là biểu hiện của những nhà nho chán nản với thời cuộc khi chứng kiến sự khủng hoảng của chế độ thống trị đương thời trước sự đấu tranh của nông dân lúc đó cùng sự sa sút của ý thức hệ phong kiến.

Văn học chữ Nôm

Văn học chữ Nôm thuộc phần văn học phát triển phồn thịnh nhất của dòng văn học chính thống, đánh dấu sự phát triển đỉnh cao của nội dung tư tưởng và trình độ nghệ thuật. Sau Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều phản ánh nỗi cô đơn, phẫn uất của những người cung nữ, cũng được người đời truyền tụng.

Trong thời kỳ những cuộc nổi dậy chống triều đình giữa thế kỷ 18, có nhiều thủ lĩnh là các sĩ phu. Tác phẩm điển hình của thể loại này là Hịch Lê Duy Mật nhằm tập hợp nhân dân chống lại họ Trịnh, tạo dựng lại cơ nghiệp nhà Lê; bài thơ Chim trong lồng của Nguyễn Hữu Cầu chỉ có 13 câu nhưng rất hàm súc, nêu ý chí hiên ngang và lòng tin vào tự do.

Văn học chữ Hán

Thể loại văn học chữ Hán gồm có: tiểu thuyết, ký sự, tùy bút; thơ phú và tạp văn.

Tiểu thuyết, ký sự, tùy bút

Trong những thời kỳ trước, văn học đã có những tác phẩm văn mới, nhưng chưa có những truyện dài. Tiểu thuyết dài theo bố cục chương hồi kiểu Trung Quốc bắt đầu phát triển thời kỳ này, điển hình là Hoàng Lê nhất thống chí. Những tác phẩm như vậy chưa nhiều.

Trong thể loại ký sự bằng thơ, tác phẩm tiêu biểu là Chúc ông phụng sứ của Đặng Đình Tướng, Nguyễn Trạng nguyên phụng sứ tập của Nguyễn Đăng Đạo, Tinh sà thi tập của Nguyễn Công Hãng, Kính trai sứ tập của Phạm Khiêm Ích, Sứ hoa trùng vịnh của Nguyễn Tông Quai, Tập tuần ký trình của Trịnh Sâm,...

Thể loại ký sự bằng văn xuôi bắt đầu xuất hiện như Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác và Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Áng.

Tùy bút gần giống như thể ký sự và khác với thể loại tùy bút hiện nay. Tùy bút thời kỳ này có nghị luận nhưng trên cơ sở những sự kiện xảy ra như Vũ trung tùy bút ghi chép lại thực tế tập quán phong tục, thi cử và kinh tế của xã hội đương thời.

Văn học chữ Hán tuy có xuất hiện thể loại và đánh dấu bước tiến mới nhưng vẫn nặng về biên soạn, không có những khám phá và chưa mạnh dạn diễn tả hiện thực bằng văn nghệ.

Thơ phú và tạp văn

Thơ Đường luật vẫn là thể thơ chiếm đa số, rải rác có một số tác phẩm viết theo thể trường đoản cú hay cổ phong.

Về phú không có những bước phát triển mới; tản văn chỉ có văn bia và một số tác phẩm mang tính ngụ ngôn.

Thơ phú mang tính trữ tình thời kỳ này có cá-c tác gia lớn như:

  • Ngô Thì Ức với Tuyết Trai thi tậpNam trình liên vịnh
  • Đặng Trần Côn với Chinh phụ ngâm
  • Hồng Liệt Bá với Chinh phụ ngâm khúc
  • Ngô Thì Sĩ với Hải Dương chí lược, Ngọ phong văn tạp, Anh ngôn thi tập, Quan lan thập vịnh, Nhị Thanh động tập, Sách chế khải tập, Khoa sớ tập lục. Thơ văn của ông có bút pháp riêng với các nhà văn đương thời.
  • Phạm Nguyễn Du với Nam hành ký đắc tập, Thạch động thi văn sao, Dưỡng Hiên vịnh sử thi, Đoạn tràng lục.
  • Lê Quý Đôn với Quế Đường thi tập, Quế Đường văn tập, Bắc sứ thông lục, Kiến văn tiểu lục, Vân Đài loại ngữ, Toàn Việt thi lục, Hoàng Việt văn hải... Thơ Lê Quý Đôn thể hiện sự lạc quan yêu đời, yêu non sông đất nước với phong cảnh nhẹ nhàng, thanh thoát.
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Văn học Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** là một bộ phận của văn học Việt Nam, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời nhà Lê trung hưng
**Văn học Đàng Trong thời Lê trung hưng** là một giai đoạn của văn học Việt Nam, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời nhà Lê trung hưng
nhỏ|600x400px|_Võ quan vinh quy đồ_ (**武官榮歸圖**) **Võ học Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh việc đào tạo và thi cử võ bị của chính quyền Lê-Trịnh trong lịch sử Việt Nam. ## Trước
**Văn học Việt Nam thời Lê trung hưng** là sự phản ánh tiến trình văn học Việt Nam thời Lê trung hưng. ## Đặc trưng Do hoàn cảnh lịch sử, nước An Nam bị chia
Tranh vẽ cảnh vua Lê thiết triều của Samuel Baron - thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVII. **Hành chính Đàng Ngoài thời Lê trung hưng**, hay còn gọi là **hành chính Đại Việt thời
nhỏ|320x320px|Tiền thông dụng thời Lê Trang Tông **Tiền tệ Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào thời nhà Lê trung hưng (1593-1789) trong
**Tôn giáo Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh những ảnh hưởng của các tôn giáo đối với lãnh thổ Đàng Ngoài nước Đại Việt thời Lê trung hưng do chính quyền vua Lê
**Thủ công nghiệp Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** có những biến đổi lớn so với thời Lê Sơ, do sự tác động từ sự du nhập của khoa học kỹ thuật phương Tây. Không
**Khoa học kỹ thuật Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh các thành tựu về sử học, y học và khoa học quân sự miền Bắc nước Đại Việt dưới quyền cai quản của
nhỏ|phải|"Văn quan vinh quy đồ (文官榮歸圖)". quan văn diễu hành, Nghệ An thế kỷ 18 Do nước Đại Việt bị chia cắt thời Lê trung hưng, việc **giáo dục thi cử của Đàng Ngoài** và
**Tiền tệ Đàng Trong thời Lê trung hưng** trong lịch sử Việt Nam phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông thuộc vùng đất do chúa Nguyễn quản lý. Từ đầu
thumb|Võ sĩ Đàng Trong thế kỷ 17 trong tranh cuộn Trà ốc tân lục Giao Chỉ độ hàng đồ quyển 朱印船交趾渡航図巻 **Quân đội Đàng Trong thời Lê trung hưng** là tổng thể tổ chức quân
**Tôn giáo Đàng Trong thời Lê trung hưng** phản ánh những ảnh hưởng của các tôn giáo đối với lãnh thổ Đàng Trong nước Đại Việt thời Lê trung hưng do chúa Nguyễn cai quản.
Do nước Đại Việt bị chia cắt thời Lê trung hưng, việc **giáo dục khoa cử của Đàng Trong** và Đàng Ngoài hoàn toàn tách biệt dưới hai chế độ cai trị của chúa Nguyễn
Dù Đàng Trong tách thành chính quyền độc lập, **thủ công nghiệp Đàng Trong** về cơ bản cũng có những nét tương đồng so với Đàng Ngoài. Do sự tác động từ sự du nhập
nhỏ|Diễu binh ở phủ chúa Trịnh **Quân đội nhà Lê trung hưng** là tổng thể tổ chức quân sự của triều đình nhà Hậu Lê bắt đầu từ vua Lê Trang Tông đến hết triều
**Văn học đời Lê sơ** là một giai đoạn văn học Việt Nam dưới thời kỳ đầu nhà Hậu Lê nước Đại Việt từ năm 1428 đến năm 1527. ## Khái quát Các thể loại
**Nhà Lê trung hưng** (chữ Nôm: 茹黎中興, chữ Hán: 黎中興朝, Hán Việt: _Lê trung hưng triều_, 1533–1789) là giai đoạn sau của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê (giai đoạn đầu là nhà Lê
nhỏ|Đàng Ngoài và [[Đàng Trong (1757)]] nhỏ|phải|Bản đồ lãnh thổ Đàng Ngoài (Tonkin), cùng [[Đàng Trong (Cochinchina) và Lào, năm 1771.]] phải|nhỏ|Bản đồ vẽ [[Vân Nam, Ai Lao (phía dưới) và Miền Bắc Việt Nam
Sách “binh chế chí” trong bộ “lịch triều hiến chương loại chí” của nhà bác học phan huy chú ghi lại câu tục ngữ truyền tụng trong dân gian cuối thời lê trung hưng “đánh
**Văn học Việt Nam thời Tiền Lê** được nhiều nhà nghiên cứu xem là giai đoạn sơ khởi của nền văn học viết Việt Nam (để phân biệt với văn học dân gian, văn học
**Lê Quý Đôn** (chữ Hán: 黎貴惇, 2 tháng 8 năm 1726 – 11 tháng 6 năm 1784), tên lúc nhỏ là **Lê Danh Phương**, tự **Doãn Hậu** (允厚), hiệu **Quế Đường** (桂堂), là vị quan
**Khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài** là phong trào nổi dậy của nông dân miền Bắc nước Đại Việt giữa thế kỷ 18 thời vua Lê chúa Trịnh, hay thời Lê mạt, bắt đầu từ
**Tiền tệ Đại Việt thời Lê sơ** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào thời nhà Lê sơ (1428-1527) trong lịch sử Việt Nam. ## Tiền trong đời sống
phải|Ải Lê Hoa trong bản đồ châu Thủy Vĩ thời kỳ 1397 - 1688, trên vùng biên giới Đại Việt - Đại Minh 1428-1644, và biên giới Đại Việt - Đại Thanh 1644-1688. **Ải Lê
**Xã trưởng thời Hậu Lê** trong lịch sử Việt Nam là chức quan được giao nhiệm vụ quản lý xã – đơn vị hành chính cấp trên thôn và dưới hương. Chức này không phải
**Đặng Trần Côn** là tác giả của Chinh phụ ngâm, kiệt tác văn học viết bằng chữ Hán của Việt Nam. Tiểu sử của Đặng Trần Côn cho đến nay biết được còn rất ít.
**Văn học Nhật Bản** là một trong những nền văn học dân tộc lâu đời nhất và giàu có nhất thế giới nảy sinh trong môi trường nhân dân rộng lớn từ thuở bình minh
_[[Nhà thiên văn học (Vermeer)|Nhà thiên văn_, họa phẩm của Johannes Vermeer, hiện vật bảo tàng Louvre, Paris]] **Thiên văn học** là một trong những môn khoa học ra đời sớm nhất trong lịch sử
**Văn hóa Lê–Mạc** (hoặc được khái quát hóa lên là **Thời đại Lê–Mạc** hay cụ thể hơn nữa là **Thời kỳ chuyển giao Lê–Mạc**) là một khái niệm mang tính tổng hợp dùng để chỉ
Đàng Trong và [[Đàng Ngoài (1757).]] **Đàng Trong** (chữ Nôm: 唐冲), hay **Nam Hà** (chữ Hán: 南河) là tên gọi vùng lãnh thổ Đại Việt do chúa Nguyễn kiểm soát, xác định từ sông Gianh
** Lê Trọng Thứ** hay ** Lê Phú Thứ** (1693 – 1783), đôi khi còn gọi là ** Lê Trung Hiến**, là quan đại thần thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông
**Lê Hiển Tông** (chữ Hán: 黎顯宗 20 tháng 5 năm 1717 – 10 tháng 8 năm 1786), tên húy là **Lê Duy Diêu** (黎維祧), là vị hoàng đế áp chót của nhà Lê Trung hưng
**Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954** gắn liền với hai sự kiện có ảnh hưởng căn bản và sâu rộng đến mọi mặt của đời sống chính trị, xã hội Việt Nam:
nhỏ|Đá khắc chữ Rune **Văn học Thụy Điển** bắt đầu từ hòn đá khắc chữ Rune ở Rök và bao gồm nhiều nhà văn nổi tiếng như August Strindberg, Esaias Tegnér, Selma Lagerlöf và Astrid
thumb|[[Cỗ máy Antikythera|Máy Antikythera là một chiếc máy tính analog trong khoảng thời gian từ 150TCN đến 100TCN được thiết kế để tính toán vị trí của các vật thể thiên văn]] **Thiên văn học
Một cảnh trong Mahabharata tại công trình đá Angkor Vat đã phục chế:hai thần phi thiên (asura)- hai anh em Sunda và Upasunda, chiến đấu để giành lấy nàng tiên [[apsara Tilottama xinh đẹp. Một
**Trịnh Doanh** (chữ Hán: 鄭楹, 4 tháng 12 năm 1720 – 12 tháng 5 năm 1767), thụy hiệu **Nghị Tổ Ân vương** (毅祖恩王), là vị chúa Trịnh thứ 7 thời Lê Trung hưng trong lịch
**Đặng Tiến Đông** (1738–1794 hay 1797) làm quan thời Lê – Trịnh, sau đầu quân Tây Sơn và trở thành danh tướng của lực lượng này. Thân thế và sự nghiệp của ông hiện vẫn
**Văn học Nga** là thuật ngữ chỉ nền văn học của nước Nga và của người Nga di cư ra nước ngoài, đồng thời cũng chỉ nền văn học được viết bằng tiếng Nga. Gốc
**Đoàn Thị Điểm** (段氏點, 1705-1749), hiệu: **Hồng Hà Nữ Sĩ** (紅霞女士), là nữ sĩ Việt Nam thời Lê trung hưng. Bà là tác giả tập _Truyền kỳ tân phả_ (chữ Hán), và tác giả của
Trong lịch sử Việt Nam, giai đoạn **cuối triều Lê sơ** (1516 – 1526) tương ứng với các triều vua Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tông và Lê Cung Hoàng xảy ra khủng hoảng kinh
**Thuật ngữ văn học Nhật Bản** được trình bày theo thứ tự abc dưới đây là một số thuật ngữ, khái niệm, danh từ riêng thường gặp trong văn học Nhật Bản, bao gồm trong
**Hồ Sĩ Đống** (1739-1785), tự **Long Phủ**, hiệu **Dao Đình**; sau đổi tên là **Hồ Sĩ Đồng**, tự **Thông Phủ**, hiệu **Trúc Hiên**. Ông là nhà thơ và là đại quan nhà Lê trung hưng
**Nạn kiêu binh** hay **loạn kiêu binh** (_Kiêu binh chi loạn_, 驕兵之亂) là tên dùng để chỉ sự việc loạn lạc thời Lê Trung Hưng trong lịch sử Việt Nam, do những quân lính gốc
**Nguyễn Quý Đức** (chữ Hán: 阮貴德, 1648 -1720), húy là **Tộ** (祚), tự **Bản Nhân** (体仁) hiệu **Đường Hiên** (堂軒), là nhà thơ, nhà giáo, nhà sử học, nhà chính trị Việt Nam thời Lê
**Văn học Mỹ** trong bài viết này có ý nói đến những tác phẩm văn học được sáng tác trong lãnh thổ Hoa Kỳ và nước Mỹ thời thuộc địa. Để bàn luận chi tiết
**Nguyễn Tông Quai** (阮宗乖; trước đây có sách viết là **Nguyễn Tông Khuê** 阮宗奎, 1692 – 2 tháng 4 năm 1767),, hiệu **Thư Hiên** (舒翰); là nhà giáo, nhà thơ và là đại quan nhà
**Nguyễn Công Cơ** (Chữ Hán: 阮公基; 1675 - 5/12/1733), tên huý **Tự Cẩm**, hiệu **Cảo Hiên**, tự **Nghĩa Trai**, là một nhà khoa bảng, nhà ngoại giao và danh thần dưới thời Lê Trung Hưng,
Vua [[Bảo Đại ngồi trong ngự liễn (kiệu) trên đường tới Đàn Nam Giao làm lễ tế năm 1942]] **Lễ tế giao** (chữ Hán: / ), thường gọi **lễ tế Nam Giao** (chữ Hán: ),