Xã trưởng thời Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam là chức quan được giao nhiệm vụ quản lý xã – đơn vị hành chính cấp trên thôn và dưới hương. Chức này không phải do triều đình nhà Hậu Lê cắt cử mà do nhân dân địa phương tự thống nhất đề cử lên, được các cấp trên của triều đình xét duyệt.
Quy mô và số lượng
Từ thời thuộc Đường, do dân cư Việt Nam còn ít, tiểu xã chỉ gồm 10-30 hộ, đại xã từ 40-60 hộ. Sang thời Hậu Lê, dân cư đông đúc lên nhiều, năm 1483 Lê Thánh Tông quy định đại xã từ 500 hộ trở lên, trung xã từ 300 hộ trở lên và tiểu xã 100 hộ.
Trong đại xã được cử 5 xã trưởng, trung xã được cử 4 xã trưởng, tiểu xã cử 2 xã trưởng. Với tiểu xã chỉ có không đầy 60 hộ được cử 1 xã trưởng.
Sử sách không chép rõ việc phân công trách nhiệm giữa các xã trưởng trong cùng xã ra sao, họ chia nhau quản lý theo mỗi người một số hộ hay theo từng lĩnh vực chuyên trách...
Tiêu chuẩn
Tiêu chuẩn với người được bầu làm xã trưởng là những người thuộc các thành phần:
Giám sinh, Sinh đồ tuổi cao nhưng sự nghiệp học tập không phát triển
Con em nhà lành, từ 30 tuổi trở lên, biết chữ, có hạnh kiểm và không vướng việc quân
Không cùng họ hàng thân tộc với quan trên phủ, huyện, châu bên trên để tránh bè cánh. Lê Thánh Tông quy định: các quan phủ, huyện, châu thì chỉ có một người trong các con em, anh em chú bác được làm xã trưởng; trong 1 họ đã có một người làm xã trưởng thì người thân thích không được làm xã trưởng cùng trong xã đó nữa.
Chức năng, nhiệm vụ
Thu thuế
:Xem thêm: Nông nghiệp Đại Việt thời Lê Sơ
Chế độ ruộng đất thời Hậu Lê phức tạp, có nhiều loại thuộc quyền sử dụng khác nhau. Hằng năm xã trưởng có nhiệm vụ thu đủ số thóc thuế ở ruộng công thuộc phạm vi xã quản lý nộp vào kho của triều đình. Nếu xã trưởng không thu đủ theo kỳ hạn hoặc biển thủ sẽ bị xử tội lưu đày.
Những năm hạn hán, mất mùa, xã trưởng phải trình báo lên trên huyện, phủ để xin miễn giảm thuế cho dân. Nếu xã trưởng để thiếu số thu trong xã thì theo quy định, cả xã trưởng và người dân thiếu thuế phải truy thu: cứ mỗi suất người dân thiếu phải nộp 7 phần, xã trưởng nộp 3 phần. Các xã trưởng cố ý thu cao hơn quy định để tư túi mà bị phát hiện sẽ bị phạt và phải trả lại cho dân.
Giữ an ninh trật tự
Xã trưởng có trách nhiệm về an ninh trong xã. Xung quanh làng cho trồng che gai để phòng trộm cướp. Các trai đinh trong làng được tổ chức thành từng đội với vũ trang thô sơ để thay nhau đi tuần phòng, dưới sự chỉ huy của Xã sử hoặc xã tư.
Dân làng xã hoặc xã bên cạnh nghe hiệu lệnh có trôm cướp phải đến hợp lực đánh cướp. Nếu dân làng hoặc xã bên cạnh trốn tránh không đến cứu thì phạt theo luật lệ. Với xã trưởng thiếu trách nhiệm cũng bị trị tội theo luật, chỉ trường hợp cướp quá mạnh thì không truy cứu.
Người có công đánh cướp được thưởng theo lệ làng, người bị thương được dân làng trích tiền chạy chữa; người bị chết được chôn cất chu đáo.
Tại các chùa, quán và nhà dân có sư, đạo sĩ hay người lạ đến trú ngụ trên 5 ngày phải khai báo với xã trưởng; nếu không khai báo sẽ bị biếm 1 tư; người trú ngụ quá 3 tháng mà xã trưởng che giấu thì bị tội biếm chức hoặc tội đồ. Đầy tớ nhà quyền thế cậy thế ăn hiếp dân lành mà xã trưởng bỏ qua không báo quan trên sẽ bị biếm 1 tư.
Tại đường làng ngõ xóm, đầu đường xó chợ có người đau ốm không ai thăm nuôi thì xã trưởng phải dựng lều cho họ ở và chăm sóc; chẳng may người óm bị chết thì phải chôn cất và trình báo lên trên. Nếu làm trái lệnh, xã trưởng sẽ bị bãi chức.
Chọn lính
Xã trưởng phải chọn người đủ tiêu chuẩn sức khoẻ đăng lính và không thuộc diện các gia đình quá nghèo khó. Nếu thiên vị bỏ người hạng nhất, hạng nhì mà đưa người kém vào quân đội thì bị xử tội: đưa sai 1 người vào lính bị tội đồ làm khao đinh; đưa sai từ 2-5 người bị tội lưu đày, đưa sai 6-9 người thì bị thắt cổ.
Với người đào ngũ về làng, xã trưởng có trách nhiệm bắt lại đưa trở lại quân ngũ phục vụ cho hết kỳ hạn hoặc bắt người khác thế chỗ. Nếu xã trưởng làm hết chức phận mà tráng đinh vẫn không tuân thủ thì báo quan trên lấy pháp luật trị tội. Xã trưởng thấy có lính trốn mà không bắt thì bị biếm hoặc đi đày.
Chọn thí sinh
Để đảm bảo đúng nhân tài có thực học tham gia kỳ thi Hương (kỳ đầu tiên trong 3 kỳ thi Hương, Hội và Đình), triều đình giao cho Xã trưởng có trách nhiệm làm giấy bảo lãnh cho số học trò trong xã đi thi. Sự bảo lãnh này gồm những mặt: đức hạnh, có học vấn. Những người bất hiếu, bất kính, cãi lộn với xóm làng, loạn luân, điêu toa... tuy có học vấn cũng không được đi thi. Ngoài ra còn có lệnh cấm nhà phường chèo, hát xướng, ngụy quan, phản nghịch thì bản thân và con cháu không được đi thi.
Triều đình quy định số thi sinh tối đa cho mỗi xã: đại xã cử 20 người, trung xã cử 15 người, tiểu xã cử 10 người. Nếu thí sinh khai man hoặc nhờ người thi hộ, Xã trưởng biết không khai báo thì cả hai cùng bị trị tội.
Thời Lê trung hưng
Sang thời Lê trung hưng, sau nhiều năm loạn lạc, các chúa Trịnh có quan tâm củng cố chút ít bộ máy cấp xã, nhưng thực chất vẫn lỏng lẻo không quản lý được sát sao như thời Lê Sơ.
Sang niên hiệu Cảnh Trị thời Lê Huyền Tông (1663-1672), chúa Trịnh Tạc đề ra quy định khảo xét Xã trưởng 3 năm 1 lần; những ai có thành tích được thăng làm quan huyện.
Theo sách Lịch triều Hiến chương loại chí, sau khi Trịnh Cương mất (1729), chính sự thời Trịnh Giang suy đồi, phép khảo xét định kỳ đối với Xã trưởng cũng không thực hiện. Bộ máy cấp xã dần dần thêm lỏng lẻo, chức Xã trưởng cũng không được coi trọng nữa. Sang thời Lê Thuần Tông (1732 – 1735), Trịnh Giang để cho nhân dân địa phương hoàn toàn tự quyết việc lập Xã trưởng. Chính quyền càng ngày càng không quản lý nổi địa bàn cấp xã, thôn. Không lâu sau đó (1739), các cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài bùng nổ và lan rộng
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Xã trưởng thời Hậu Lê** trong lịch sử Việt Nam là chức quan được giao nhiệm vụ quản lý xã – đơn vị hành chính cấp trên thôn và dưới hương. Chức này không phải
**Văn học Việt Nam thời Tiền Lê** được nhiều nhà nghiên cứu xem là giai đoạn sơ khởi của nền văn học viết Việt Nam (để phân biệt với văn học dân gian, văn học
**Chiến tranh kế vị thời Tiền Lê** là cuộc nội chiến giữa các hoàng tử con vua Lê Đại Hành diễn ra năm 1005 sau cái chết của vị vua này. Cuộc chiến kéo dài
**Lê Trung Tông** (chữ Hán: 黎中宗 1535 - 24 tháng 1 năm 1556) là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Lê trung hưng và là thứ 13 của nhà Hậu Lê, ở ngôi từ
**Lê Thánh Tông** (chữ Hán: 黎聖宗 25 tháng 8 năm 1442 – 3 tháng 3 năm 1497), huý **Lê Tư Thành** (黎思誠), là vị Hoàng đế thứ tư trên danh nghĩa và thứ năm trên
Di tích đài tưởng niệm kênh Nhà Lê ở Nghệ An năm 2009 Âu cầu Hội - [[cửa biển Thần Phù|cửa Thần Phù trên sông Nhà Lê ở Yên Mô, Ninh Bình]] **Kênh Nhà Lê**
**Trương Công Giai** (19 tháng 11 năm 1665 - 8 tháng 2 năm 1728) là vị quan thời Hậu Lê, được phong đến chức Thượng thư bộ hình. Ông được biết đến là một trong
**Hiếu Huệ Trương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠张皇后; 202 TCN - 163 TCN), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Huệ Đế Lưu Doanh, Hoàng đế thứ hai của nhà Hán và là cháu gọi
**Lê Thái Tổ** (chữ Hán: 黎太祖 10 tháng 9 năm 1385 – 5 tháng 10 năm 1433), tên thật là **Lê Lợi** (黎利) là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo quân sự, người đã
**Lê Chiêu Tông** (chữ Hán: 黎昭宗 18 tháng 11 năm 1506 – 19 tháng 1 năm 1527), tên thật là **Lê Y** (黎椅), là vị hoàng đế thứ 10 của Hoàng triều Lê nước Đại
**Lê Thế Tông** (chữ Hán: 黎世宗 1567 - 12 tháng 10 năm 1599), tên húy là **Lê Duy Đàm** (黎維潭), là vị hoàng đế thứ tư của Hoàng triều Lê - giai đoạn Trung hưng
**Lê Thái Tông** (chữ Hán: 黎太宗 22 tháng 12 năm 1423 – 7 tháng 9 năm 1442), tên húy **Lê Nguyên Long** (黎元龍), là vị hoàng đế thứ hai của hoàng triều Lê nước Đại
**Trương** (giản thể: 张 ; phồn thể: 張) là một họ của người Việt Nam. Họ Trương cũng có tại Trung Quốc (Zhang), Triều Tiên / Hàn Quốc (Jang), Đài Loan (Chang), và Singapore (Chong).
nhỏ|318x318px|Hành chính Việt Nam thời Lê Sơ **Hành chính Đại Việt thời Lê sơ**, đặc biệt là sau những cải cách của Lê Thánh Tông, hoàn chỉnh hơn so với thời Lý và thời Trần,
**Lê Quý Đôn** (chữ Hán: 黎貴惇, 2 tháng 8 năm 1726 – 11 tháng 6 năm 1784), tên lúc nhỏ là **Lê Danh Phương**, tự **Doãn Hậu** (允厚), hiệu **Quế Đường** (桂堂), là vị quan
**Lê Tương Dực** (chữ Hán: 黎襄翼; 16 tháng 7 năm 1495 – 8 tháng 5 năm 1516) tên thật là **Lê Oanh** (黎瀠), là vị hoàng đế thứ chín của Hoàng triều Lê sơ nước
Tranh vẽ cảnh vua Lê thiết triều của Samuel Baron - thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVII. **Hành chính Đàng Ngoài thời Lê trung hưng**, hay còn gọi là **hành chính Đại Việt thời
**Lê Hiến Tông** (chữ Hán: 黎憲宗 6 tháng 9 năm 1461 – 24 tháng 6 năm 1504) là vị hoàng đế thứ sáu của Hoàng triều Lê nước Đại Việt. Ông cai trị từ ngày
**Trương Thị Trong** hay **Trương Thị Ngọc Trong** , là Thị nội Cung tần, và là nhà thơ Việt Nam thời Lê trung hưng. ## Tiểu sử Cho đến nay giới nghiên cứu văn học
**Lê Hiển Tông** (chữ Hán: 黎顯宗 20 tháng 5 năm 1717 – 10 tháng 8 năm 1786), tên húy là **Lê Duy Diêu** (黎維祧), là vị hoàng đế áp chót của nhà Lê Trung hưng
**Huy Gia Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 徽嘉皇太后; 1441 - 8 tháng 4, 1505), hay **Trường Lạc Hoàng hậu** (長樂皇后), là phi tần của hoàng đế Lê Thánh Tông, sinh mẫu của hoàng đế Lê
**Lê Tuân** (chữ Hán: 黎洵; 21 tháng 5, 1482 - 20 tháng 9, 1512), còn gọi là **An Đại vương** (安大王) hay **Hậu Trạch đại vương** (厚澤大王), là một vị hoàng tử nhà Hậu Lê,
**Thủ công nghiệp Đại Việt thời Lê Sơ** chiếm vị trí khá quan trọng trong nền kinh tế Đại Việt thời Lê Sơ. Có hai loại hình là thủ công nghiệp trong nhân dân và
**Lê Thần Tông** (chữ Hán: 黎神宗) (1607 – 2 tháng 11 năm 1662) tên húy là **Lê Duy Kỳ** (黎維祺), là vị hoàng đế thứ sáu của nhà Lê Trung hưng và thứ 17 của
**Lê Long Đĩnh** (chữ Hán: 黎龍鋌 15 tháng 11 năm 986 – 19 tháng 11 năm 1009) là vị hoàng đế thứ 3 cũng là vị hoàng đế cuối cùng của nhà Tiền Lê trong
**Trương Quốc Dụng** (張國用, 1797–1864), khi trước tên là **Khánh**, tự: **Dĩ Hành**; là danh thần, là nhà văn, và là người có công chấn hưng lịch pháp Việt Nam thời Nguyễn. ## Thân thế
**Súng trường M14** có tên chính thức là **United States Rifle, 7.62 mm, M14**, là một khẩu súng trường bán tự động sử dụng loại đạn 7,62×51mm NATO (.308 Winchester) của Mỹ. Nó từng là súng
**Lê Duy Mật** (黎維樒, ? – 1770) là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa lớn chống lại chúa Trịnh vào giữa thế kỷ 18. Cuộc khởi nghĩa được hình thành và phát triển cùng với
**Giáo dục khoa cử Đại Việt thời Lý** trong lịch sử Việt Nam phản ánh chế độ giáo dục và khoa cử nước Đại Việt từ năm 1010 đến năm 1225. ## Giáo dục Nhà
**Lê Dụ Tông** (chữ Hán: 黎裕宗 1679 – 27 tháng 2 năm 1731) là vị Hoàng đế thứ 11 của Nhà Lê Trung hưng và thứ 22 của triều Hậu Lê trong lịch sử Việt
**Hành chính Việt Nam thời Tây Sơn** ánh bộ máy cai trị từ trung ương tới địa phương của nhà Tây Sơn từ năm 1778 đến năm 1802, không chỉ giới hạn trong phạm vi
**Văn học thời Tây Sơn** là một giai đoạn của văn học Việt Nam vào cuối thế kỷ 18, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời Tây Sơn
**Lê Văn Thịnh** (chữ Hán: 黎文盛; 1038–1096) là người đỗ đầu trong khoa thi đầu tiên của Nho học Việt Nam, được bổ làm quan, dần trải đến chức Thái sư triều Lý. Năm 1084,
**Lê Chân Tông** (chữ Hán: 黎真宗 1630 – 2 tháng 10 năm 1649) tên húy là **Lê Duy Hựu** (黎維祐, 黎維禔), là vị Hoàng đế thứ 7 của nhà Lê Trung hưng và thứ 18
**Lê Kiện** (chữ Hán: 黎鍵;1478–1529), tên thật là **Lê Duy Thành**, là hoàng tử út của vua Lê Thánh Tông, mẹ ông là Trịnh Thị Ngọc Luyện, bà chuyên về quản dạy bốn mỹ đức
**Lê Ý Tông** (chữ Hán: 黎懿宗 29 tháng 3 năm 1719 – 10 tháng 8 năm 1759), tên húy là **Lê Duy Thận** (黎維祳) (hay Lê Duy Chấn) là vị Hoàng đế thứ 14 của
**Lê Thuần Tông** (chữ Hán: 黎純宗 16 tháng 3 năm 1699 – 5 tháng 6 năm 1735) là vị Hoàng đế thứ 13 của triều Lê Trung hưng nước Đại Việt, đồng thời là Hoàng
**Lê Anh Tông** (chữ Hán: 黎英宗 1532 - 22 tháng 1 năm 1573), tên húy là **Lê Duy Bang** (黎維邦), là hoàng đế thứ ba của Nhà Lê Trung hưng và là hoàng đế thứ
**Lê Uy Mục** (chữ Hán: 黎威穆; 5 tháng 5 năm 1488 – 20 tháng 1 năm 1510), đôi khi còn gọi là **Mẫn Lệ công** (愍厲公), là vị hoàng đế thứ tám của nhà Lê
**Hành chính Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh bộ máy cai trị từ trung ương tới địa phương của chính quyền nhà Nguyễn trong thời kỳ độc lập (1802-1884). Bộ máy cai trị của nhà
**Lê Kính Tông** (chữ Hán: 黎敬宗 1588 – 23 tháng 6 năm 1619) có tên là **Lê Duy Tân** (黎維新), là vị Hoàng đế thứ 5 của nhà Lê Trung hưng và thứ 16 của
**Hành chính Việt Nam thời Hồng Bàng** phản ánh bộ máy chính quyền từ trung ương tới địa phương của Việt Nam thời Hồng Bàng trong lịch sử Việt Nam. ## Chính quyền trung ương
**Trường Trung học phổ thông Chuyên Chu Văn An** (còn được gọi là **Trường Chu Văn An**, **Trường Bưởi**, **Trường Chu** hay trước đây là **Trường Trung học phổ thông Quốc gia Chu Văn An,**
**Lê Lăng** (chữ Hán: 黎凌; ? - 1462) là tướng nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Ông là một trong những tướng lĩnh chủ chốt trong cuộc chính biến Thiên Hưng, phế Lê
hay **Vĩnh Khánh Đế** hoặc **Hôn Đức công**, là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Lê Trung hưng và thứ 23 của triều Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Lê
**Lê Huyền Tông** (chữ Hán: 黎玄宗 1654 – 16 tháng 11 năm 1671) tên thật là **Lê Duy Vũ** (黎維禑), tên khác là **Lê Duy Hi** (黎維禧), là vị Hoàng đế thứ tám của nhà
**Lê Thọ Vực** (chữ Hán: 黎壽域, 1426-1484 hoặc 1489) là một tướng lĩnh nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam, có công bình định Bồn Man, ổn định biên giới phía tây của Đại
**Trương Xán** (chữ Hán: 張燦, 1227 - ?) là Trạng nguyên thứ 3 trong lịch sử khoa cử của Việt Nam. Ông quê ở xã Hoành Bồ, huyện Quảng Trạch, châu Bố Chính, nay là
Hợp Tác Xã Dịch Vụ Nông Nghiệp Tịnh Thới là đơn vị duy nhất được thành lập từ hai hội quán Đồng Tâm và Thịnh Hưng.Chúng tôi có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực
**Hành cung Thiên Trường** là một vọng các của nhà Trần đặt tại phủ Thiên Trường, nay thuộc tỉnh Nam Định. ## Lịch sử Thiên Trường là vùng đất xưa, thời Lý có tên là