Lê Uy Mục (chữ Hán: 黎威穆; 5 tháng 5 năm 1488 – 20 tháng 1 năm 1510), đôi khi còn gọi là Mẫn Lệ công (愍厲公), là vị hoàng đế thứ tám của nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Trong thời gian trị vì của mình, ông chỉ dùng một niên hiệu là Đoan Khánh. Ông được xem là một vị hoàng đế tàn bạo và hoang dâm, nổi tiếng là một bạo chúa, người đời gọi là Quỷ vương (鬼王). Ông bị các sử gia đánh giá là hôn quân trong lịch sử nhà Hậu Lê nói riêng và lịch sử Việt Nam nói chung. Thời đại của ông đánh dấu giai đoạn chuyển thịnh thành suy của vương triều nhà Hậu Lê.
Lê Uy Mục không chăm lo chính sự, hằng đêm đều cùng các cung nhân uống rượu, khi say thì giết chết tất cả bọn họ. Triều chính thời ông trị vì rơi vào tay ngoại thích và bọn hoạn quan, khiến cung đình bị nhơ nhuốc. Ông một tay dần giết hại các đại thần như Đàm Văn Lễ, Nguyễn Quang Bật, chèn ép Nguyễn Văn Lang khiến ông này phải chạy đi, vì tất cả đều không thuận lập Uy Mục sau khi Lê Hiến Tông qua đời. Đã vậy, ông còn nghi kị tông thất, giết cả anh em cha chú của mình, từ quần thần đến thân thuộc đều lo sợ, càng quyết tâm phản loạn.
Năm 1509, em họ Lê Uy Mục là Giản Tu công Lê Oanh liên kết với đại thần Nghĩa quận công Nguyễn Văn Lang phất cờ nổi dậy ở Tây Đô (Thanh Hóa), dẫn binh tới Đông Kinh, đánh bại tất cả các đạo quân do Lê Uy Mục gửi đến. Lê Oanh vào kinh thành, phế truất và bắt giam Uy Mục.
Dưới thời Uy Mục, quyền hành trong triều rơi vào tay họ ngoại của hoàng đế. Bấy giờ, họ ngoại của ông có đến ba phe cánh, cánh phía đông là làng Hoa Lăng (quê của mẹ nuôi ông là Kính phi), cánh phía tây là làng Nhân Mục (quê của vợ ông là Trần Hoàng hậu), và cánh phía bắc là làng Phù Chẩn (quê của mẹ đẻ ông là Chiêu Nhân Duệ Hoàng hậu). Được sự hậu thuẫn của hoàng đế, ba phe cánh này đều chuyên cậy quyền thế, vùi dập các quan, kẻ thì vì ý riêng mà giết hại sinh dân, kẻ thì dùng ngón kín mà yêu sách tiền của, mọi thứ súc vật, hoa màu của dân, chúng đều cướp đoạt cả, nhà nào có đồ lạ, vật quý, chúng đánh dấu chữ vào và đòi lấy. Muôn dân ta oán mà hoàng đế vẫn không chừa, lại mang lòng ngờ vực, đố kỵ.
Tháng 8 năm 1509, Uy Mục ra lệnh cho giết hết những người Chiêm bị bắt làm gia nô trong điền trang của các thế gia, công thần. Trước đây, ông nội của ông là vua Lê Thánh Tông khi thân chinh đánh Chiêm Thành đã bắt được em Trà Toàn là Trà Toại và vợ con ông ta đem về Đại Việt, cho an trí ở ngoài cửa Bảo Khánh gần 30 năm. Đến thời Cảnh Thống, Trà Toại đã chết, con ông là Trà Phúc mang trộm hài cốt của cha trốn về nước. Đến nay, những nô lệ người Chiêm ở điền trang của các thế gia, công thần thấy vậy cũng tìm cách đào thoát về nước. Nghi người Chiêm làm loạn, Uy Mục hạ lệnh giết các gia nô người Chiêm còn lại trong các điền trang đến gần hết, chỉ còn mỗi bọn người Chiêm do Chế Mạn cầm đầu bỏ trốn thành công, về sau bọn họ đã tham gia cuộc binh biến lật đổ ông.
Để gia cố và duy trì quyền lực, Uy Mục xua đuổi người tông thất và công thần về xứ Thanh Hoa và giết các nữ sử nội thần người Chiêm. Bấy giờ bọn ngoại thích của ông là Khương Chủng và Nguyễn Bá Thắng tự tiện làm oai làm phúc, quyền thế nghiêng lệch trong triều ngoài trấn, dân chúng không dám cất tay động chân. Nhà pháp thuật bị cấm làm phù chú, đạo sĩ thờ đạo phải cắt tóc không được để dài. Do vậy, các phố xá, hàng chợ nhà nào thờ tiên sư đều phải cất giấu đi. Sau này, đám ngoại thích khác của hoàng đế là Thừa Giáo, Thừa Nghiệp đi đường, quan viên và dân chúng trông thấy chúng từ xa đã phải chạy trốn đi, đợi chúng đi qua rồi mới dám ra. Người thân tín của Uy Mục là Nguyễn Đình Khoa ngầm sai người đến Thừa Hiến phủ huyện các xứ trong nước, tới cả dân gian, cưỡng bắt những con gái chưa chồng, làm khốn khổ nhân dân, khắp cả nước dần mất hết hy vọng.
Cũng thời điểm đó, Lê Uy Mục liên tục bắt giam, giết hại người tông thất. Trong số các thân vương họ Lê bị triều đình bắt giam, Giản Tu công Lê Oanh đã đút tiền cho người canh ngục mới được thả ra, trốn về Tây Đô (Thanh Hóa), được Nguyễn Văn Lang lập làm minh chủ để khởi binh nổi dậy chống lại Uy Mục đế. Lương Đắc Bằng được lệnh viết hịch kêu gọi bá quan hưởng ứng, cụ thể là: Từ Tây Đô, ông đưa quân cả thủy lẫn bộ tiến về Đông Kinh (Hà Nội). Thủy quân tiến đến núi Thiên Kiện. Uy Mục dùng hai chiếc thuyền nhẹ Hà Thanh và Hải Thanh đi đến chùa Bảo trên núi Thiên Kiện, bắt được một viên tướng thủy quân của Giản Tu công và giết được 20 binh sĩ đem xác về ngoài cửa Đông Hoa. Uy Mục cho tướng là Lê Vũ làm Tán lý cũng nhiều người khác đem cấm quân và quan quân thuộc các vệ Thần vũ, Hiệu lực, Điện tiền đi chống giữ nhưng đều bị phe Lê Oanh đánh bại.
Đến ngày 23 tháng 11, Uy Mục quyết định bắt giết anh em của Giản Tu công Lê Oanh bao gồm Lê Sùng và cả mẹ ông ta là Trịnh Thị Tuyên, sau đó lệnh cho Lê Vũ mang thủ cấp của Lê Sùng ra chiến trường, giơ cho quân Lê Oanh xem, hòng uy hiếp tinh thần họ. Lê Vũ nói:
:Đây là cái đầu của Cẩm Giang vương, chúng bay còn nói láo làm gì?
Tuy nhiên, quân của Giản Tu công không những không mất sĩ khí, lại tiến đánh hăng hơn. Lê Vũ bị quân Lê Oanh bao vây ở trận Đồng Lạc. Lê Oanh dụ hàng nhưng Lê Vũ vẫn một mực không chịu khuất phục nên bị giết. Trận này, quân của Uy Mục thua to, các tướng khác của ông như Dương Trực Nguyên, Phạm Thịnh, Trần Năng cũng tử trận ở Châu Cầu.
Ngày 26, các đạo quân của Lê Oanh đều tiến sát Đông Kinh. Uy Mục đế vì cần thêm quân để chống giữ mới lấy vàng bạc ban cho bọn tội nhân bị giam ở ty Ngũ hình mỗi người 3 quan, rồi sai đi đánh quân Lê Oanh. Những tù nhân vốn oán hận sự bạo ngược của hoàng đế nên khi nhận được tiền đều bỏ trốn về nhà. Uy Mục sợ hãi lại vội vã chọn người đi gọi quân các trấn Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Băng; bắt mỗi trấn lấy 5.000 thổ binh đến cứu viện. Nhưng khi họ còn chưa đem quân tới, thì đại quân của Lê Oanh đã áp sát vào thành, nhiều người bỏ chạy thoát thân.
Tướng trấn thủ kinh thành là Lê Quảng Độ (黎廣度) phản Uy Mục theo Giản Tu công, xin làm nội ứng cho quân nổi dậy. Ông ta cùng với Lê Oanh người trong kẻ ngoài thông tin với nhau, lại cho bắn súng làm hiệu, dựng gậy làm cờ, chặt cây làm binh khí giả đánh lẫn nhau làm cho các quân kinh hãi, buộc Uy Mục phải chạy lên phía Bắc. Cuối cùng kinh thành thất thủ, Uy Mục sợ hãi trốn vào phường Nhật Chiêu. Hoàng hậu Trần Thị Tùng của ông cũng trốn ra đến xã Hồng Mai, náu ở nhà dân rồi treo cổ tự sát ở miếu chùa. Giản Tu công tiến vào chiếm Đông Kinh, nghe tin mẹ và anh em mình đều đã bị Uy Mục xử tử, sai quan sửa việc tang và làm lễ chôn cất. chỉ lấy ít tro tàn về chôn tại An Lăng ở quê mẹ ruột ông tại làng Phù Chẩn (nay là phường Phù Chẩn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh)., đồ thần khí lung lay, tai dị sinh luôn, hạ dân ta oán, bị diệt vong là đáng lắm rồi."''
Sử thần triều Lê cũng đưa ra những lời bàn:
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lê Uy Mục** (chữ Hán: 黎威穆; 5 tháng 5 năm 1488 – 20 tháng 1 năm 1510), đôi khi còn gọi là **Mẫn Lệ công** (愍厲公), là vị hoàng đế thứ tám của nhà Lê
**Uy Mục Đế phi Lê thị** (chữ Hán: 威穆帝妃黎氏), cũng gọi **Mẫn Lệ phi** (愍厲妃), là một phi tần rất được sủng ái của Lê Uy Mục, vị quân chủ thứ 8 của nhà Lê
phải|Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Lê sơ ([[1428-1527).]] **Nhà Lê sơ** (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: _Lê sơ triều_) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê.
**Lê Tương Dực** (chữ Hán: 黎襄翼; 16 tháng 7 năm 1495 – 8 tháng 5 năm 1516) tên thật là **Lê Oanh** (黎瀠), là vị hoàng đế thứ chín của Hoàng triều Lê sơ nước
**Lê Chiêu Tông** (chữ Hán: 黎昭宗 18 tháng 11 năm 1506 – 19 tháng 1 năm 1527), tên thật là **Lê Y** (黎椅), là vị hoàng đế thứ 10 của Hoàng triều Lê nước Đại
**Huy Gia Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 徽嘉皇太后; 1441 - 8 tháng 4, 1505), hay **Trường Lạc Hoàng hậu** (長樂皇后), là phi tần của hoàng đế Lê Thánh Tông, sinh mẫu của hoàng đế Lê
**Nguyễn Kính phi** (chữ Hán: 阮敬妃; ? - ?) là một phi tần của hoàng đế Lê Hiến Tông, mẹ nuôi của Lê Uy Mục thuộc triều đại nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt
**Lê Kiện** (chữ Hán: 黎鍵;1478–1529), tên thật là **Lê Duy Thành**, là hoàng tử út của vua Lê Thánh Tông, mẹ ông là Trịnh Thị Ngọc Luyện, bà chuyên về quản dạy bốn mỹ đức
Trong lịch sử Việt Nam, giai đoạn **cuối triều Lê sơ** (1516 – 1526) tương ứng với các triều vua Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tông và Lê Cung Hoàng xảy ra khủng hoảng kinh
**Lê Túc Tông** (chữ Hán: 黎肅宗 6 tháng 9 năm 1488 – 12 tháng 1 năm 1505) là vị hoàng đế thứ bảy của Hoàng triều Lê nước Đại Việt. Túc Tông chỉ giữ ngôi
**Lê Sùng** (1485 - 13 tháng 11 năm 1509) là một hoàng tôn, vương gia dưới triều đại nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông là con trưởng của hoàng tử Lê Tân,
**Lê Tân** (chữ Hán: 黎鑌; 19 tháng 8, 1466 – 6 tháng 11, 1502), còn gọi là **Lê Đức Tông** (黎德宗) hay **Kiến Trinh Tĩnh vương** (建貞靚王), ## Gia đình Kiến vương Lê Tân có
**Đàm Văn Lễ** (chữ Hán: 覃文禮, 1452-1505) là quan nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp Đàm Văn Lễ tự là **Hoằng Kính**, người xã Lam Sơn, huyện Quế Dương, nay
**Lê Tuân** (chữ Hán: 黎洵; 21 tháng 5, 1482 - 20 tháng 9, 1512), còn gọi là **An Đại vương** (安大王) hay **Hậu Trạch đại vương** (厚澤大王), là một vị hoàng tử nhà Hậu Lê,
**Lê Quang Trị** (chữ Hán: 黎光治 1508 - 28 tháng 07, 1516) là một vị hoàng đế nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Do được lập lên ngôi và phế truất trong thời
**Nội chiến Lê – Mạc** (1533–1677) là cuộc nội chiến giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Phe chống nhà Mạc về sau khi chép sử có gọi đây là
**Lê Cung Hoàng** (chữ Hán: 黎恭皇 26 tháng 7 năm 1507 – 15 tháng 9 năm 1527) là vị hoàng đế thứ 11 của nhà Hậu Lê, ở ngôi từ năm 1522 đến 1527, tổng
**Tiền tệ Đại Việt thời Lê sơ** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào thời nhà Lê sơ (1428-1527) trong lịch sử Việt Nam. ## Tiền trong đời sống
**Nhà Lê trung hưng** (chữ Nôm: 茹黎中興, chữ Hán: 黎中興朝, Hán Việt: _Lê trung hưng triều_, 1533–1789) là giai đoạn sau của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê (giai đoạn đầu là nhà Lê
nhỏ|318x318px|Hành chính Việt Nam thời Lê Sơ **Hành chính Đại Việt thời Lê sơ**, đặc biệt là sau những cải cách của Lê Thánh Tông, hoàn chỉnh hơn so với thời Lý và thời Trần,
**Nguyễn Đức Trung** (阮德忠, 1404 - 1477) là một công thần nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam, người làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, Thanh Hóa, Việt Nam. Đồng thời ông là ngoại
**Lê Quang Bí** (1506 - ?) là quan nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam và là nhà thơ Việt Nam. Ông người làng Mộ Trạch, huyện Đường An, nay là thôn Mộ Trạch, xã
**Lê Đức Mao** (1462-1529) là danh sĩ thời Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Lê Đức Mao sinh năm Nhâm Ngọ (1462) tại phường Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà
**Lê Quảng Độ** (黎廣度, ? – 1517) là quan đại thần nhà Lê sơ, trải qua bốn triều các vua Lê Hiến Tông, Lê Túc Tông, Lê Uy Mục và Lê Tương Dực, làm đến
**Khoa học kỹ thuật Đại Việt thời Lê Sơ** phản ánh các thành tựu về khoa học tự nhiên như toán học, y học, thiên văn học và lịch pháp nước Đại Việt từ năm
**Lê Nại** (chữ Hán: 黎鼐, 1479 - ?), còn có tên khác là **Lê Đỉnh** hiệu **Nam Hiên**, người xã Mộ Trạch, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng (nay là huyện Bình Giang, tỉnh Hải
**Lê** () là một họ của người Việt Nam và Trung Quốc. Họ Lê phổ biến ở miền nam Trung Quốc (Quảng Đông, Hồng Kông). Họ "Lê" của người Trung Quốc (chữ Hán: 黎; bính
phải|nhỏ|Phụ kiện phòng tắm ở Wal * Mart
**Quản lý danh mục** là khái niệm bán lẻ và mua hàng, trong đó phạm vi sản phẩm được mua bởi một tổ chức kinh doanh
**Án lệ Việt Nam** là những lập luận hoặc phán quyết trong bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án Việt Nam về một vụ việc cụ thể được
**Lê Hiến Tông** (chữ Hán: 黎憲宗 6 tháng 9 năm 1461 – 24 tháng 6 năm 1504) là vị hoàng đế thứ sáu của Hoàng triều Lê nước Đại Việt. Ông cai trị từ ngày
**Mục Đế** (chữ Hán: 穆帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách * Đại Mục Đế (truy tôn, thực tế là Đại Mục Vương, trước kia từng làm Đại Mục
nhỏ|Lễ hội Gorolski 2019 **Lễ hội Gorolski** là một bữa tiệc văn hóa vùng cao được tổ chức hàng năm vào cuối tuần đầu tiên của tháng 8 bởi người thiểu số Ba Lan sống
**Trần Cung** (chữ Hán: 陳㫒, tên ghi trong Đại Việt sử ký toàn thư và Khâm định Việt sử thông giám cương mục), còn được gọi là **Trần Thăng** (陳昇, tên ghi trong "Đại Việt
**Lê Duẩn** (7 tháng 4 năm 1907 – 10 tháng 7 năm 1986) là một chính trị gia người Việt Nam, Bí thư Thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1960 đến năm
**Na Uy** (Bokmål: _Norge_; Nynorsk: _Noreg_), tên chính thức là **Vương quốc Na Uy**, là một quốc gia ở Bắc Âu nằm ở Tây Bắc Châu Âu có lãnh thổ bao gồm phần phía tây
**Mạc Thái Tổ** (chữ Hán: 莫太祖 22 tháng 12, 1483 – 11 tháng 9, 1541), tên thật là **Mạc Đăng Dung** (莫登庸), là một nhà chính trị, vị hoàng đế sáng lập ra vương triều
thumb|Tuyên úy Do Thái giáo Zalman Lipskier phục vụ trong quân đội Mỹ **Tuyên úy** là chức vụ của các giáo sĩ thuộc các tôn giáo như Phật giáo, Kitô giáo, Thiên Chúa giáo, Do
Hội đồng Giám mục Việt Nam tổ chức Đại Hội 3 năm một lần, để đánh giá các hoạt động của Giáo hội Công giáo Việt Nam trong thời gian qua và bàn những việc
**Tađêô Lê Hữu Từ** (28 tháng 10 năm 1897 – 24 tháng 4 năm 1967) là một giám mục Công giáo người Việt Nam, với khẩu hiệu giám mục là "Tiếng kêu trong hoang địa" (_Vox
**Trịnh Căn** (chữ Hán: 鄭根, 18 tháng 7 năm 1633 Lúc nhỏ, Trịnh Căn chưa được xem là một ứng cử viên cho việc kế thừa ngôi Chúa, bởi bác cả của ông là Sùng
**Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam** là một tổ chức xã hội tại Việt Nam, là một tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tuy thành viên của Ủy
**Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp** hay** Ủy ban Quản lý vốn nhà nước** là cơ quan thuộc Chính phủ Việt Nam; được Chính phủ giao thực hiện quyền, trách nhiệm
Lễ đăng quang của Nữ vuơng Elizabeth II của Vuơng quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và các vuơng quốc khác thuộc khối Thịnh vượng chung được diễn ra ngày 02 tháng 6 năm
**_Án lệ 33/2020/AL_** về trường hợp cá nhân được Nhà nước giao đất nhưng không sử dụng mà để người khác quản lý, sử dụng ổn định, lâu dài là án lệ công bố thứ
**Lê Thái Tổ** (chữ Hán: 黎太祖 10 tháng 9 năm 1385 – 5 tháng 10 năm 1433), tên thật là **Lê Lợi** (黎利) là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo quân sự, người đã
**Nguyễn Văn Lang** (chữ Hán: 阮文郎, 1435 - 1513) là tướng lĩnh, đại thần cuối thời Lê Sơ trong lịch sử Việt Nam. Ông tham gia cuộc đảo chính lật đổ vua Lê Uy Mục,
**Lê Quốc Minh** (sinh ngày 1 tháng 12 năm 1969) là một phóng viên, nhà báo, chính trị gia Việt Nam. Ông hiện là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
**_Án lệ 35/2020/AL_** về người Việt Nam trước khi đi định cư ở nước ngoài giao lại đất nông nghiệp cho người ở trong nước sử dụng là án lệ công bố thứ 35 thuộc
**_Án lệ 40/2021/AL_** về công nhận việc chuyển đổi quyền sử dụng đất trên thực tế là án lệ công bố thứ 40 thuộc lĩnh vực dân sự của Tòa án nhân dân tối cao
**_Án lệ 30/2020/AL_** về hành vi cố ý điều khiển phương tiện giao thông chèn lên bị hại sau khi xảy ra tai nạn giao thông là án lệ công bố thứ 30 thuộc lĩnh