✨Tađêô Lê Hữu Từ

Tađêô Lê Hữu Từ

Tađêô Lê Hữu Từ (28 tháng 10 năm 1897 – 24 tháng 4 năm 1967) là một giám mục Công giáo người Việt Nam, với khẩu hiệu giám mục là "Tiếng kêu trong hoang địa" (Vox Clamantis Mt 3:3). Ông từng là Giám mục Đại diện Tông Tòa Hạt Đại diện Tông Tòa Phát Diệm, được xem là người thành lập và lãnh đạo lực lượng Tự vệ Công giáo tại Bùi Chu–Phát Diệm.

Với buổi lễ tấn phong mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa dân tộc, Giám mục Lê Hữu Từ đã liên kết trên danh nghĩa với Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh và đã thành công trong việc giúp cộng đồng Công giáo (do ông quản lý) tránh được hậu quả chiến tranh khi Việt Nam và Pháp tái chiến kể từ cuối năm 1946 cho đến năm 1949.) trên phương diện thế tục trên một khu vực mang tên Bùi Chu–Phát Diệm (các Hạt Đại diện Tông Tòa (Địa phận)) một cách độc lập theo nền thần quyền Công giáo. Khu vực này trên thực tế không chịu sự kiểm soát của chính quyền Hồ Chủ tịch (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), chính phủ Quốc gia Việt Nam (Bảo Đại, cho đến 1949) và kể cả Pháp (cho đến năm 1951). Khu vực này rộng 1.070 dặm vuông, có số dân cư là 2,6 triệu người, trong đó khoảng 25% là người Công giáo. Nhiều làng và quận trong khu vực này có 100% giáo dân Công giáo. Tài liệu được giải mật của CIA cũng liệt kê giám mục Từ vào danh sách các giám mục nổi bật trong nhóm Công giáo theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan, cùng với Giám mục Chi và Giám mục Ngô Đình Thục. Ông được xem là lãnh đạo tinh thần của những người Công giáo di cư vào miền Nam trong suốt giai đoạn 1954–1967.

Thân thế

Giám mục Lê Hữu Từ sinh ngày 28 tháng 10 năm 1897 tại Di Loan, nay thuộc thị trấn Cửa Tùng, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, thuộc Tổng giáo phận Huế. Một số tài liệu khác cho rằng là ngày 29 tháng 10 hoặc ngày 27 tháng 10. Cậu Lê Hữu Từ là cháu tám đời của vua Lê Hy Tông.) và 2 nữ tu (Anna-Marie Lê Thị Ẩn, Isave Lê Thị Ứng) và một nữ tu sĩ sớm qua đời (Mađalêna Lê Thị Dũ). Ngày 8 tháng 9 năm 1936, ông chính thức nhận nhiệm vụ Bề trên Dòng Xitô Châu Sơn. Khi đặt chân đến vùng Châu Sơn còn hoang sơ, linh mục Từ chỉ mang theo hành lý là một cây thánh giá, một tràng hạt, 12 đồng bạc Việt Nam và đồng hành có 12 tu sĩ. Lê Hữu Từ và nhóm tu sĩ cùng cải tạo tự nhiên để tiến đến việc xây dựng một thánh đường. Nghi lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng thánh đường Xitô Nho Quan giữa tháng 2 năm 1937.

Đầu năm 1945, nghe tin chiến khu Quỳnh Lưu của Việt Nam thành lập với mục đích chống Nhật và kháng Pháp, linh mục Lê Hữu Từ cùng tu sĩ dòng Trần Quốc Ngoại bí mật đến thăm. Dù nhiều lần trò chuyện với lãnh đạo chiến khu Nguyễn Văn Mộc (sau là Chủ tịch tỉnh Ninh Bình), linh mục Từ vẫn không hay biết Việt Minh theo chủ nghĩa Cộng sản. Ông cho rằng họ là một tổ chức chính trị quy tụ cả những người theo Mác và rất cần sự hỗ trợ. Với tư cách là Viện trưởng, ông nhiều lần hỗ trợ các cán bộ Việt Minh để tránh mặt quân Nhật và Pháp bằng cách cho họ trốn trong tu viện. Vốn đang có dự án kiến thiết, xây dựng phát triển nhà dòng, nhận được tin tức này, nhà dòng sửng sốt và ngao ngán.

Giám mục tân cử có nhiều cuộc gặp mặt với các giám mục khác nhằm vận động tránh né trọng trách (làm giám mục): giám mục Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng (nguyên Giám mục Phát Diệm), giám mục Đa Minh Hồ Ngọc Cẩn (địa phận Bùi Chu), giám mục địa phận Thanh Hóa de Coomann Hành,... Tuy vậy, các vị này đều khuyên Lê Hữu Từ vâng phục Tòa Thánh. Ngày 6 tháng 8, giám mục tân cử Lê Hữu Từ đạp xe vào Huế để gặp Khâm sứ Tòa Thánh Drapier và sau hai giờ tranh luận, ông chịu khuất phục [theo ý Tòa Thánh làm giám mục]. Ông về Châu Sơn ngày 13 tháng 8 cùng năm. Lễ tấn phong được cử hành vào ngày 28 hoặc 29 tháng 10 cùng năm tại Nhà thờ chính tòa Phát Diệm, với phần nghi thức truyền chức do chủ phong là giám mục Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng và phụ phong là giám mục Đa Minh Maria Hồ Ngọc Cẩn, giám mục Địa phận Bùi Chu. Đây là lễ tấn phong giám mục đầu tiên sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố thành lập. Lê Hữu Từ là giám mục người Việt thứ năm và là một trong bốn giám mục Việt Nam còn sống ở thời điểm này. Cuộc biểu tình này đã được giám mục tân cử cổ động trong Thư Luân lưu số hai của mình, đề ngày 3 tháng 10 năm 1945.

Sau lễ tấn phong giám mục, ngày 6 tháng 11, phái đoàn ba người gồm giám mục Lê Hữu Từ, linh mục Nguyễn Gia Đệ và ông Nguyễn Đình Minh đến Bắc Bộ Phủ để gặp Hồ Chí Minh nhằm cảm ơn phái đoàn của chính phủ đã tham dự lễ tấn phong giám mục. Chủ tịch Hồ tiếp đón cách nồng hậu và ngỏ ý mời giám mục Từ vào Hội đồng Cố vấn Tối cao của chính phủ (sau khi đã mời cựu hoàng Bảo Đại). Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng hứa sẽ đáp lễ và thăm Phát Diệm. Giám mục Lê Hữu Từ chấp nhận đề nghị làm Cố vấn, song chỉ cho rằng đó là một cử chỉ xã giao; ông tiếp tục con đường đã chuẩn bị là hành động vì nền độc lập, chống chủ nghĩa Cộng sản. Trả lời phóng viên báo Times và thông tin được xuất bản vào tháng 1 năm 1951, Giám mục Lê Hữu Từ cho biết rằng từ đầu ông đã biết Hồ Chí Minh là một người Cộng sản.

Sau lễ tấn phong, ngày 1 tháng 11 năm 1945, Lê Hữu Từ chính thức nhận quyền Đại diện Tông Tòa Hạt Đại diện Tông Tòa Phát Diệm (Địa phận Phát Diệm). Liên đoàn Công giáo chính là một tổ chức thuộc giáo hội, song song với tổ chức Công giáo Cứu quốc thuộc Mặt trận Việt Minh.

Suốt trong gần một thập niên trực tiếp quản lý địa phận Phát Diệm, Giám mục Lê Hữu Từ không bao giờ cho đóng cửa các chủng viện và không hạn chế những người muốn đi theo con đường tu trì trong các hội dòng. Tính đến năm 1953, Giám mục Từ đã truyền chức 43 linh mục, đại chủng sinh tăng từ 40 lên 80. Trong thời kỳ này, có khi Đại chủng viện Phát Diệm trở thành nơi đào tạo các chủng sinh từ các địa phận (hạt Đại diện Tông Tòa) khác như Hưng Hóa, Thanh Hoá, Hà Nội và Kon Tum. Ông phát triển Dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm và thống nhất các chi nhánh Dòng Mến Thánh Giá trên lãnh thổ Việt Nam. và một tờ báo là tuần báo Tiếng Kêu, về sau đổi tên gọi trở thành nguyệt san Đời Sống.

Trong các việc mục vụ cho Địa phận, giám mục Lê Hữu Từ cử linh mục Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi làm Chánh án Tòa án Hôn phối Địa phận năm 1946, cố vấn giám mục về luật pháp và chính trị (1945–1950). Năm 1947, linh mục Chi được thăng chức Giám đốc Chủng viện, sau khi đã nắm chức Phó giám đốc kể từ năm 1944.

Các hoạt động trong Chiến tranh Đông Dương

Các vụ đụng độ giữa chính quyền Cộng sản và giáo quyền Công giáo đa phần giải quyết bằng thương lượng. Giám mục Lê Hữu Từ thừa nhận tính hợp pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nhiều lần gặp trực tiếp Giám mục Lê Hữu Từ trong giai đoạn năm 1945–1947.

Lập trường của Giám mục Lê Hữu Từ là chống cả thực dân Pháp lẫn Việt Minh cộng sản. Tuy vậy, do Mặt trận Việt Minh là tổ chức đang cầm quyền kháng chiến chống Pháp, người Công giáo "phải lựa chọn những gì mình không muốn lựa chọn", theo tác giả linh mục Trương Bá Cần, viết trên báo Công giáo và Dân tộc. Tuy người Công giáo mong muốn đi theo phong trào dân tộc, tuy vậy, Tòa Thánh Vatican thời điểm này không có thiện cảm với chủ nghĩa Cộng sản, lực lượng chính lãnh đạo phong trào kháng chiến, đã khiến cộng đồng Công giáo lâm vào cảnh khó xử. Về cơ bản, đối với Pháp, Giám mục Lê Hữu Từ được cho là "không có ác cảm riêng tư", nhưng muốn mọi dân tộc độc lập, tự quyết và chống lại kiểu chính trị gia thực dân.

Giai đoạn 1945–1946

Nội dung thư luân lưu số 5 của Lê Hữu Từ ngày 3 tháng 12 năm 1945 đề cập đến tầm quan trọng của việc bầu cử và hướng dẫn bầu cử, nhân dịp tổ chức bầu cử Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong thư, ông đánh giá Nghị viện Nhân dân có vai trò quan trọng đối với quốc gia và ảnh hưởng đến cả luân lý và tôn giáo, do đó người Công giáo và hàng giáo sĩ Công giáo không thể thiếu đại diện trong Quốc hội. Lê Hữu Từ nhận định người Công giáo là thiểu số, nên nếu tất cả tín đồ đi bỏ phiếu, chỉ đạt từ 25–30 nghị viên trong tổng số 300 nghị viên, nên đề nghị cổ động tín đồ Công giáo cũng như ngoài Công giáo bỏ phiếu cho người Công giáo, hoặc người Phật giáo lương thiện để tạo ích lợi chính đáng và bảo vệ quyền lợi chính đáng. Nhận thấy sự quan trọng của cuộc bầu cử, giám mục Từ và linh mục Hoàng Quỳnh liên lạc và đề ra kế hoạch Liên đoàn Công giáo và Công giáo Cứu quốc phải vận dụng mọi khả năng trong cuộc bầu cử. Cuộc tổng tuyển cử được tiến hành ngày 6 tháng 1 năm 1946. Phía Công giáo đề nghị bốn ứng viên và phía Tổng bộ Việt Minh cũng như vậy. Hai bên tuyên truyền và cạnh tranh gay gắt. Kết quả sơ bộ công bố cho thấy liên danh gồm bốn ứng viên Công giáo giành chiến thắng trên hầu hết các huyện trong tỉnh, nhưng kết quả của tỉnh công bố chính thức, chỉ có một ứng viên Công giáo giành phần thắng là ông Ngô Tử Hạ và ba ứng viên Việt Minh trúng cử. Cho rằng có sự gian lận trong bầu cử (một trong hai liên danh phải thắng trọn vẹn), Giám mục Từ đánh điện văn phản đối kết quả đến chính phủ và chuẩn bị biểu tình nhằm đả đảo bầu cử gian lận. Chính phủ gửi điện văn hồi đáp cho biết đã có sự nhầm lẫn trong kiểm phiếu và xác nhận linh mục Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi đã trúng cử. Giám mục Từ sau đó cho phép linh mục Chi khước từ sự trúng cử này.

Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh đến Phát Diệm gặp Giám mục Lê Hữu Từ vào giữa tháng 1 năm 1946 trong một chuyến thăm không báo trước Chủ tịch Hồ đã nhận xét giám mục Từ là bạn của tôilà vị lãnh đạo sáng suốt của đồng bào Công giáo. Trong chuyến thăm này, Hồ Chí Minh đề nghị giám mục Lê Hữu Từ đảm nhận chức Cố vấn Tối cao cho chính phủ.

Chính quyền thành lập các đoàn thể cứu quốc: Bô lão cứu quốc, phụ nữ cứu quốc và nhi đồng cứu quốc. Riêng thanh niên được huy động vào miền Nam đánh Pháp. Nhằm mục đích đối chọi với các đoàn thể này, Giám mục Lê Hữu Từ cho phép Tổng bộ Công giáo cứu quốc thành lập các chương trình: luyện võ để giữ lại thanh niên, các nhóm cứu thương dành cho phụ nữ và các nhóm Nhi Hồng hoạt động theo kiểu hướng đạo sinh cho thiếu nhi. Chính phủ tổ chức Nghiệp đoàn Lao công Quốc tế, lo sợ tổ chức này nắm trong tay nhiều thành phần là người Công giáo tại Kim Sơn, Lê Hữu Từ thông qua Hội đồng Địa phận quyết định thành lập các nghiệp đoàn Lao Công Công giáo. Nghiệp đoàn này được chính phủ hợp thức hóa ngày 22 tháng 10 năm 1946 và chính thức ra mắt ba ngày sau đó với sự tham gia của đại diện chính phủ. Do chiến tranh Việt – Pháp ngày 19 tháng 12 năm 1946 xảy ra, mọi kế hoạch về Hội nghị ngày 6 tháng 1 năm 1947 bị tan vỡ. Nhận định trong hoàn cảnh chiến sự nổ ra, Giám mục Lê Hữu Từ cho rằng: tình thế sẽ rất khó khăn trong những ngày sắp tới vì quân Pháp sẽ tiến tới, còn Việt Minh thì vừa lùi vừa đàn áp các người quốc gia; Các đảng phái quốc gia thì mỗi ngày mỗi yếu kém cho nên Phát Diệm chúng ta phải tự lo liệu lấy...

Từ cuối năm 1946, đã có khoảng 5000 người bị Việt Minh bắt giữ do cáo buộc hoạt động đảng phái và thiếu tinh thần kháng chiến. Riêng những người Công giáo bị bắt vì giữ cờ Pháp và cờ Long Tinh, một số vì theo đảng phái, và những người giữ các chức vụ trong đạo: trùm trưởng, thành viên hội đồng xứ, lãnh đạo Công giáo Cứu quốc và Liên đoàn Công giáo,... Trước tình hình này, Giám mục Lê Hữu Từ gửi thư đến Hồ Chí Minh yêu cầu trả tự do cho những người vô tội. Ông đánh giá các hành động bắt giữ người dân vô tội gây ảnh hưởng đến tình đoàn kết dân tộc, chia rẽ tôn giáo và khiêu khích Công giáo. Hồ Chí Minh đã gửi phái đoàn trung ương dẫn đầu bởi Bộ trưởng Bộ Lao Động Nguyễn Văn Tạo để dàn xếp và gửi bí thư riêng Vũ Đình Huỳnh đến thăm, xin lỗi và trả tự do cho những người mà giám mục Từ can thiệp, nhất là trong vụ việc tại Văn Hải. Trong vòng một tuần, Hồ Chí Minh gửi ba phái đoàn và hai bức thư đến giám mục Lê Hữu Từ. Nhận được thư ngày 10 tháng 2 năm 1947 của Hồ chủ tịch, Giám mục Lê gửi thông tư ngày 15 cùng tháng đến [các linh mục Phát Diệm], nội dung trích lại hai lá thư của chủ tịch nước và nhắc nhở người Công giáo cần có tinh thần ái quốc, tham gia kháng chiến; phải dè dặt với các tin đồn vì chính sách của chính phủ với tôn giáo, riêng với Công giáo là rõ ràng; cần tỏ tình đoàn kết với người không Công giáo.

Khu vực Phát Diệm trở thành nơi ẩn náu cho nhiều người tản cư sau khi chiến tranh Việt Pháp nổ ra tháng 12 năm 1946 và những người bị Việt Minh truy nã. Nhận được tin báo ông Ngô Đình Diệm bị Việt Minh đưa đi, Giám mục Lê Hữu Từ can thiệp bằng cách cùng linh mục Nguyễn Quang Hàm, Ngô Tử Hạ đến gặp Hồ Chí Minh thông tin và yêu cầu trả tự do. Yêu cầu này được Hồ Chủ tịch đáp ứng. Để tránh những sai lệch do truyền miệng sau khi nghe thông tin từ phòng thông tin, ngày 5 tháng 7 năm 1947, giám mục Từ ra thông báo thành lập tuần báo Tiếng Kêu. Sau khi Pháp nhảy dù xuống Phát Diệm tháng 10 năm 1949, tờ báo này đình bản, tiếp nối bởi tờ Lượm TinĐời Sống cho đến khi di cư. Nhằm thăm dò phản ứng từ chính quyền, Giám mục Từ ủy quyền linh mục Đinh Ngọc San nộp đơn xin phát hành tờ báo Tiếng Vang với danh nghĩa cơ quan ngôn luận của Ban Văn hóa Địa phận Phát Diệm nhưng không có phản hồi.

Ngày 5 tháng 9 năm 1947, Tống Viết Dung (tên thật là Lê Văn Cương), cán bộ Công giáo và ông Cai Chính, liên lạc của cố vấn Lê Hữu Từ trên đường về trụ sở Tổng bộ Công giáo Cứu quốc thì bị Công an Việt Minh đuổi và bắt được ông Dung. Nhận được tin báo, Lê Hữu Từ thảo văn thư can thiệp, yêu cầu trao trả tự do cho ông Dung và mời công an trưởng đến thảo luận. Công an cho biết ông Tống Viết Dung bị tạm giữ do có tin báo ông này là đảng viên đảng Duy Dân chống chính phủ. Sau khi ông Dung được đưa ra cano rạng sáng ngày hôm sau và tử vong, thi hài ông được trục vớt ngày 7 tháng 9 và được xác nhận có nhiều thương tích, nhất là vết thương ở vùng đỉnh đầu. ngày 8 tháng 9 với sự tham gia của một số quan chức chính quyền và rất đông giáo dân. Giám mục Từ yêu cầu không mang vũ khí để đảm bảo trang nghiêm và hòa khí cho tang lễ. Trong bối cảnh tang lễ, phát súng bí mật phát ra từ phòng thông tin của chính phủ Việt Minh ghim sát cạnh Giám mục Lê Hữu Từ và sau đó lại có nổ súng (do mâu thuẫn giữa đoàn diễu hành và công an). Phẫn nộ vì cho rằng giám mục bị ám sát, nhiều người ập vào căn nhà phát ra tiếng súng, dùng gậy, kiếm đánh trọng tương các cán bộ Việt Minh, xé các biểu ngữ, sách báo, bích chương và đập nát bàn ghế. Tiểu đội Thần Phong dìu giám mục Lê và linh mục Đoàn Độc Thư, và ba viên chức chính phủ vào điếm canh, sau đó đoàn Xung phong đưa về Tòa giám mục Phát Diệm. Hai phía công an và Công giáo đối kháng suốt đêm ngày 9 tháng 9, tuy vậy không có đụng độ xảy ra.

Sáng ngày 10 tháng 9, một bản bá cáo do Giám mục Lê Hữu Từ, Thứ trưởng Thương binh Ngô Tử Hạ, ông trung đội trưởng Hoàn đồng ký tên được công bố. Giám mục Lê Hữu Từ cũng cho công bố Thư Luân lưu số 21 với nội dung muốn gửi bá cáo chính thức về vụ việc xô xát trong ngày hôm trước. Một thư ngắn của Lê Hữu Từ cũng kêu gọi giáo dân mở tuần cửu nhật cầu nguyện bình an và giữ gìn địa phận được ban hành sau đó vào ngày 12 tháng 9.

Ngày 15 tháng 9 năm 1947, một phái đoàn chính phủ do linh mục Phạm Bá Trực dẫn đầu đã đến Phát Diệm, trình bày bức thư do Hồ Chủ tịch viết, trong đó khẳng định do cảm mến Cố vấn, Hồ Chủ tịch mong muốn nhượng lại quyền quản lý toàn quận Kim Sơn, gồm 15 tổng và 150.000 giáo dân lại cho Giám mục cố vấn Lê Hữu Từ toàn quyền quản lý. Cũng nêu trong giải pháp là chính phủ sẽ rút toàn bộ viên chức cả về hành chính và quân sự ra khỏi khu vực này. Lo sợ đây là một âm mưu, Giám mục Lê Hữu Từ từ chối đề nghị này, trong khi theo gương giáo hoàng, chỉ nhận một vùng đất nhỏ để tượng trưng cho sự cảm kích với đề nghị của chủ tịch, với yêu cầu là sự việc phải được công khai. Linh mục Trực, đại diện chính phủ, linh mục Đoàn Độc Thư, đại diện Giám mục và linh mục Phạm Ngọc Chi, đại diện giáo sỹ Phát Diệm tham gia một sự kiện tại Uỷ ban Hành chính Kháng chiến Kim Sơn để công bố việc này. Khu An toàn Phát Diệm chính là vùng đất nhỏ mà giám mục Lê Hữu Từ chính thức quản lý từ đây, và mọi nhân viên Chính phủ phải được phép của ông mới có thể đi vào. Trung tâm khu chính của An toàn khu là Tòa giám mục Phát Diệm, với khi diện tích khoảng 1x3km.

Trong một cuộc học tập và kiểm thảo tại Ninh Bình do Ủy ban Hành chính Kháng chiến Khu III chủ tọa, Phát Diệm bị phê bình là thiếu tinh thần kháng chiến. Do những lời phê bình này, Lê Hữu Từ và Phát Diệm tổ chức những việc để tham gia kháng chiến như: mở lớp và họp Thanh niên Công giáo Cứu quốc, làm lễ tuyên thệ cho cán bộ Công giáo Cứu quốc và xin mua súng, võ trang cho dân quân Công giáo Cứu quốc. Nhà hát Lớn Phát Diệm trở thành trung tâm huấn luyện quân sự cho tổ chức này. Trong hồi ký, Giám mục Từ nhận định phải tự vệ cứng cáp mới làm việc được với chính phủ Cộng sản. Giám mục Từ xin mua súng, Hồ Chủ tịch giới thiệu đến Bộ trưởng Quốc phòng Phan Anh và đã nhận được phép, tuy vậy không có giấy tờ được ký và cho phép bằng miệng. Về vấn đề mua súng, Giám mục Hải Phòng Gomez Lễ, sau khi bàn với Khâm sứ Tòa Thánh Drapier đã hỗ trợ và cho vay mượn 1.000.000 đồng để mua súng. Xe cá nhân của giám mục Từ nhiều lần dùng để vận chuyến vũ khí và không bị xét hỏi do có thư giới thiệu của Chủ tịch Ủy ban Hành chính Kháng chiến Ninh Bình. Cả một khu vực Bùi Chu–Phát Diệm trở thành khu tự trị Công giáo với 40 vạn giáo dân, dưới sự cai quản của ông, ngoài quyền kiểm soát của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Giai đoạn 1949–1951

Giám mục Lê Hữu Từ thường nhắc nhở mọi người: "Chúng tôi (hay chúng ta, tùy trường hợp) chỉ biết phụng sự Thiên Chúa và Tổ quốc..., chúng tôi trọng công bình, bác ái, mưu hạnh phúc, hòa bình. Nhưng cộng sản đến, chúng tôi đánh! Mà thực dân đến, chúng tôi cũng đánh!". Tới đầu năm 1949, Phát Diệm giữ được cảnh ổn định, dân chúng di cư đến nhiều, các hoạt động dân sự, tôn giáo, và kháng chiến diễn ra hòa hợp. Thư ngày 25 tháng 1 năm 1949, Giám mục Lê Hữu Từ lên án Pháp: "Quân lính Pháp, với một sự dã man tột độ, đã phá huỷ tất cả, không trừ một thứ gì, kể cả nhà thờ. Trong vòng một năm, gần 300 nhà thờ đã bị bom đánh phá". Ông đã bị Pháp xếp vào hàng ngũ là loại người "có đầu óc quốc gia hơn hết" và là "linh hồn của cuộc kháng chiến chống Pháp". Chính vì vậy, thực dân Pháp dùng cách chia rẽ giám mục Từ với khả năng kháng chiến.

Hồ Chí Minh nhiều lần gọi ông là "người bạn thân thiết", "người bạn quý mến"... Ông thường thư từ với Hồ chủ tịch và cộng tác với chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa khi cử linh mục đi uý lạo đồng bào miền Nam Trung Bộ đầu năm 1949. Ông cũng được ghi nhận đã cho huy động giáo dân phá cầu Trì Chính để cản đường quân Pháp hành quân năm 1949.

Sau cái chết của Giám mục Tiên khởi người Việt Nam Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng, cựu giám mục Phát Diệm, Giám mục Lê Hữu Từ, tuy là giám mục người Việt thứ năm, là một trong ba giám mục Việt Nam còn sống vào thời điểm tháng 8 năm 1949. Ông lúc này đã kiêm chức Giám quản Địa phận Bùi Chu, sau khi giám mục Giuse Đa Minh Hồ Ngọc Cẩn qua đời. Tờ Catholic New Service ngày 24 tháng 8 năm 1949 ghi nhận rằng cho đến thời điểm này, Giám mục Lê Hữu Từ đã bị ám sát hụt ba lần. Tờ báo cũng ghi nhận số giáo dân Phát Diệm vào thời điểm này là 120.000 người trên địa bàn có 420.000 cư dân.

Trái với những tuyên truyền chống đối, Lê Hữu Từ là người quyết liệt chống thực dân. Cho tới cuối thập niên 1940, ông đã thành công trong việc bảo vệ khu tự vệ Phát Diệm–Bùi Chu khỏi cả thực dân lẫn cộng sản. Tính đến năm 1949, 40.000 nông dân được huấn luyện bài bải và được trang bị vũ khí hạng nhẹ và nhờ đó 70% diện tích vùng đồng bằng sông Hồng được đảm bảo an ninh. Dù trên nguyên tắc đã thỏa thuận với chính phủ Bảo Đại và Pháp, chính quyền Pháp có rất ít ảnh hưởng lên Phát Diệm. Các giám mục vẫn là người quản lý Phát Diệm, có quyền trang bị và huấn luyện quân sự cho dân địa phương, để cử các quan chức tỉnh, thu thế và nhận trợ cấp từ Pháp. Về phía Việt Minh, khu vực [tự trị Phát Diệm] trở thành địa điểm buôn lậu hàng hóa như muối và thuốc cho các khu vực Việt Minh kiểm soát tại Thanh Hóa và Vinh. Cũng trong năm 1950, vào tháng 10, giám mục Từ đã cho 50 người gồm linh mục, tu sĩ và giáo dân đi du học Rôma.

Nhân dịp Năm Thánh Công giáo 1950, giám mục Lê Hữu Từ có chuyến viếng thăm Rôma. Trên chuyến đi, Giám mục Từ đã dừng chân tại Paris để gặp các quan chức cấp cao của Pháp, gồm Tổng thống Pháp Vincent Auriol, Thủ tướng Pháp René Pleven, Robert Schuman, Jean Letourneau, Georges Bidault. Ông yêu cầu nước Pháp chấp nhận và tuyên bố rõ ràng về Việt Nam là một quốc gia độc lập. Nhằm giải thích các hoạt động mang tính quyền bính thế tục, Giám mục Lê Hữu Từ cho gửi thư ký linh mục Phạm Quang Hàm đã có cuộc gặp để trình bày tình hình và hoàn cảnh của Giám mục Từ với Trưởng Bộ Thường vụ Phủ Quốc vụ khanh Tòa Thánh, Tổng giám mục Montini Sau khi xem xét tình hình, Tòa Thánh thông báo thông cảm cho hoàn cảnh của Giám mục Lê Hữu Từ, tuy nhiên khuyến cáo giám mục Từ chấm dứt tình trạng dính dáng tới thế quyền và trao quyền hành chính cho giáo dân để phòng tránh bất trắc. Giám mục Từ đã làm theo khuyến cáo này.

Giai đoạn 1951–1954

[[Chính phủ Quốc gia Việt Nam|Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu (trái) và Giám mục Lê Hữu Từ (phải)]]

Trong một bài báo nói về Phát Diệm được công bố trên Times vào tháng 1 năm 1951, khi nói về việc quản lý khu tự vệ Phát Diệm, Giám mục Lê Hữu Từ cho biết "Ở đây [Phát Diệm], chúng tôi rất nhân từ". Tại Phát Diệm, thuế và công lý là sự pha trộn giữa truyền thống và một số quyết định của giám mục Từ. Giám mục cũng là người bổ nhiệm các viên chức tòa án cũng như địa phương. Giám mục Từ cho biết tại Phát Diệm không có án tử hình, và hình phạt dành cho tội ăn trộm là giam giữ trong vài tháng cho đến khi tên trộm ăn năn hoặc theo đạo. Giám mục Từ cũng thừa nhận về việc cho đánh các gián điệp khi bắt được họ, để tra khảo thông tin. Tuy trên danh nghĩa, giám mục Lê Hữu Từ là tổng chỉ huy quân độ̣i tại Phát Diệm và Bùi Chu, quyền điều hành thực tế là ở Ngô Cao Tùng (đến Phát Diệm từ tháng 5 năm 1950). Ông Ngô tuyên bố từng là thiếu tá, cố vấn quân sự Quốc dân đảng phục vụ tại miền Nam Trung Quốc dưới trướng Tưởng Giới Thạch. Về chi tiết, 1.700 lính chính quy dưới quyền ông Ngô, gọi là Groupe Mobile Autonome (GMA). Đội quân này còn có "5 chiếc xe jeep, 7 xe tải 6 bánh GMC và hai cái radio." Dưới quyền giám mục Từ gồm 5.800 dân quân được trang bị thô sơ, trừ mũ với số vũ khí khoảng 30 súng trường cũ cho một đội quân gồm 120 người. Quân đội Việt Minh thỉnh thoảng vẫn đột kích vào khu tự trị, tuy vậy, cho đến lúc này [khoảng năm 1950], chưa có cuộc tấn công lớn vào khu vực. Nền thần quyền của Lê Hữu Từ được nhận định còn thể hiện qua các trường học đạo (chủng viện) và đời, trại trẻ mồ côi và các nhà thờ cỡ lớn. Ông được ghi nhận là đã thành công chống lại những người Cộng sản ở một khu vực rộng lớn từ năm 1945 cho đến khi quyết định hợp tác với Bảo Đại.

Bị kẹt ở giữa [các phe phái chính trị], cuối cùng Lê Hữu Từ cũng đồng ý hợp tác với Quốc gia Việt Nam do cựu hoàng Bảo Đại đứng đầu.

Khoảng tháng 4 năm 1953, Giám mục Lê Hữu Từ có cuộc gặp với ứng viên Đảng Dân chủ trong cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ Adlai Stevenson II tại Phát Diệm. Cuộc gặp mặt này nằm trong khuôn khổ chuyến thăm Việt Nam của ông Stevenson. Giám mục Lê Hữu Từ từng khuyên cựu hoàng Bảo Đại đi tị nạn tại Mỹ thay vì cộng tác với thực dân Pháp vào năm 1953. Ông đã đến đàm pháp trực tiếp với lãnh sự quán Mỹ tại Hà Nội mà không thông qua Pháp.

Sau khi dự cuộc họp với chính quyền tại Hà Nội và nhận được tin chắc chắn về việc quân đội Việt–Pháp chắc chắn rút lui khỏi Phát Diệm, và Giám mục Lê Hữu Từ chỉ đạo giáo dân ngay lập tức rời Phát Diệm. Giáo dân và chủng sinh rời bến đò bằng canô, ra cửa biển để lên tàu lớn. Giám mục Lê Hữu Từ giơ tay về hướng di chuyển, đi cùng một quan chức Pháp di chuyển trên ca nô cuối cùng, do đi sát bờ, đã bị quân đội Việt Minh ném lựu đạn vào. Tuy không bị thương, máu của các người bị thương trên canô vấy trên áo giáo sĩ trắng của Giám mục Từ. Đoàn người sau đó [tiến ngược] ra Hải Phòng và các chủng sinh được cho tạm trú tại Đại chủng viện Hải Phòng. Theo số liệu từ sách Việt Nam Giáo sử, Giám mục Lê Hữu Từ di cư cùng 119 linh mục đang đảm trách 68 giáo xứ, 46 đại chủng sinh, 145 tiểu chủng sinh. Ở lại địa phận có linh mục Phaolô Bùi Chu Tạo, 29 linh mục (số linh mục quản xứ là 60), 1 dòng nam, 3 dòng nữ tu, 60 tiểu chủng sinh. Sau khi di cư, Giám mục Lê Hữu Từ được cho là đã cố gắng đứng ngoài chính trị. Tuy ý định ban đầu là rời Phát Diệm đến Sài Gòn, giám mục Lê Hữu Từ từng có ý sắp xếp cho chủng sinh Phát Diệm tu học tại Hà Nội, tuy vậy cuối cùng lại quyết di cư vào miền Nam. Cuối tháng 6 năm 1954, làn sóng di cư từ Phát Diệm khởi sự. Giám mục Lê Hữu Từ cho tập trung giáo dân địa phận thành từng khối nhằm hỗ trợ lẫn nhau và cho họ định cư tại các vùng Bình Xuyên, Gia Kiệm, Phương Lâm, Bảo Lộc, Cần Thơ.

Tại Việt Nam Cộng hòa, nhiều lần Giám mục Lê Hữu Từ can dự vào các phe phái nhằm đem lại sự thống nhất của chính phủ. Năm 1955, ông gặp ông Trình Minh Thế và thuyết phục thành công ông này đưa Quân đội Quốc gia Liên minh của ông hợp tác với chính phủ. Giám mục Từ cũng liên kết với Đại tá Thái Hoàng Minh (tham mưu của Bảy Viễn để đưa đội quân Bình Xuyên về với chính quyền Việt Nam Cộng hòa, tuy vậy sự việc không thành. Năm 1958, Mười Hương bị bắt giam giữ tại Tòa Khâm (Huế) và có gặp Vũ Ngọc Nhạ cũng bị bắt giam. Mười Hương sau đó đã truyền đạt ý nhắn Nhạ theo gót giám mục Từ và linh mục Hoàng Quỳnh, trở thành cầu nối giữa gia đình Ngô Tổng thống và khối công giáo di cư Phát Diệm–Bùi Chu. Nhờ mối liên hệ với linh mục Hoàng Quỳnh, sĩ quan tình báo Vũ Ngọc Nhạ trở thành người giúp việc cho Giám mục Lê Hữu Từ, trở thành người đóng vai trò cầu nối giữa Ngô Đình Diệm và giới Công giáo di cư.

Giám mục Lê Hữu Từ và Giám mục Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền là hai đồng Chủ tịch của Đại hội Thánh Mẫu Toàn quốc được diễn ra vào năm 1959.

;Giai đoạn 1960–1967 Tháng 4 năm 1960, sau khi các giám mục miền Nam Việt Nam họp cùng Khâm sứ Tòa Thánh Mario Brini, các giáo sĩ thống nhất quyết định đặt các chủng viện di cư dưới sự quản lý của "bản quyền địa phương" (quản lý địa phận tại nơi chủng viện hình thành). Đại chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn trở thành một trong hai Đại chủng viện Miền, phụ trách đào tạo linh mục các địa phận Sài Gòn, Vĩnh Long và Cần Thơ. Nhân dịp này, ngày 17 tháng 6 năm 1960, Giám mục Lê Hữu Từ cùng Giám mục Tông Tòa Hạt Đại diện Tông Tòa Cần Thơ Phaolô Nguyễn Văn Bình đã quyết định đặt tên cho chủng viện này là Đại chủng viện Lê Bảo Tịnh. Hai giám mục cũng chọn linh mục Giuse Phạm Văn Thiên làm Giám đốc. Một nguồn tin khác cho rằng Chủng viện Lê Bảo Tịnh là cơ sở II của Đại chủng viện Sài Gòn.

Trong thập niên 1960, Giám mục Từ cho xây nhà hưu dưỡng Phát Diệm tại Gò Vấp và xây dựng cơ sở tại Roma nhằm tạo phương tiện tài chính để giúp đỡ địa phận Phát Diệm.

Sau khi qua đời, thi hài cố giám mục được quàn tại đây trong hai ngày và ngày thứ ba được di chuyển đến Vương cung Thánh đường Đức Bà Sài Gòn. Lễ an táng được cử hành ngày 27 tháng 4 năm 1967, do Tổng giám mục Sài Gòn Phaolô Nguyễn Văn Bình làm chủ tế và Giám mục Phạm Ngọc Chi đọc điều văn.

Giám mục Tađêô Lê Hữu Từ đóng vai trò phụ phong trong nghi thức truyền chức cho các giám mục:

Tóm tắt chức vụ

Thứ tự bổ nhiệm – tấn phong giám mục

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tađêô Lê Hữu Từ** (28 tháng 10 năm 1897 – 24 tháng 4 năm 1967) là một giám mục Công giáo người Việt Nam, với khẩu hiệu giám mục là "Tiếng kêu trong hoang địa" (_Vox
**Lê** () là một họ của người Việt Nam và Trung Quốc. Họ Lê phổ biến ở miền nam Trung Quốc (Quảng Đông, Hồng Kông). Họ "Lê" của người Trung Quốc (chữ Hán: 黎; bính
**Giuse Maria Trịnh Như Khuê** (11 tháng 12 năm 1898 – 27 tháng 11 năm 1978) là một hồng y thuộc Giáo hội Công giáo Rôma và là hồng y tiên khởi của Việt Nam. Khẩu
**Hồ Chí Minh** (chữ Nho: ; 19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969), tên khai sinh là **Nguyễn Sinh Cung** (chữ Nho: ), còn được gọi phổ biến tại Việt Nam
**Đa Minh Maria Hồ Ngọc Cẩn** (1876–1948) là giám mục người Việt tiên khởi của Hạt Đại diện Tông Tòa Bùi Chu và cũng là giám mục người Việt thứ hai của Giáo hội Công
**Phaolô Nguyễn Văn Bình** (1 tháng 9 năm 1910 – 1 tháng 7 năm 1995) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Tổng giám mục Tiên khởi của Tổng
**Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng** (1868–1949) là Giám mục người Việt đầu tiên của Giáo hội Công giáo La Mã, được cử hành nghi thức tấn phong giám mục vào năm 1933. Ông đảm nhiệm
nhỏ|Ông Trần Văn Lý Ông **Trần Văn Lý** (陳文理, 1901 – 1970) là một nhân sĩ, chính khách Việt Nam, quan nhà Nguyễn thời kỳ cuối, cựu Tổng đốc bốn tỉnh Tây nguyên, Thủ hiến
**Anh Bằng** (5 tháng 5 năm 1926 – 12 tháng 11 năm 2015) là một nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc vàng lẫn nhạc hải ngoại. Ông là thành viên nhóm Lê Minh Bằng
**Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ** (12 tháng 5 năm 1918 – 15 tháng 7 năm 2002) là một linh mục người Việt thuộc Giáo hội Công giáo Rôma, là kinh sĩ viên Vương cung thánh
**Philipphê Nguyễn Kim Điền** (13 tháng 3 năm 1921 – 8 tháng 6 năm 1988) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục chính tòa Tiên khởi Giáo phận
Khoảng một triệu người dân miền Bắc (khoảng 800 ngàn trong đó là người Công giáo) di cư đến miền Nam Việt Nam trong những năm 1954–1955 theo những chuyến tàu do Pháp và Mỹ
**Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi** (14 tháng 5 năm 190921 tháng 1 năm 1988) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông là Giám mục tiên khởi của Giáo phận Qui Nhơn
Sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập năm 1930, xung đột đảng phái bắt đầu xuất hiện. Điển hình là tranh cãi và bút chiến giữa Đảng Cộng sản, Việt Nam Quốc
**Tađêô Nguyễn Văn Lý** (sinh ngày 15 tháng 5 năm 1946) là một linh mục Công giáo và một nhân vật bất đồng chính kiến ở Việt Nam, đã nhiều lần bị Chính phủ Việt
**Công giáo tại Việt Nam** là một bộ phận của Giáo hội Công giáo, dưới sự lãnh đạo tinh thần của các giám mục tại Việt Nam, hiệp thông với giáo hoàng. Với số tỉ
**Quảng Trị** là tỉnh ven biển gần cực nam của vùng Bắc Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Theo dữ liệu Sáp nhập tỉnh, thành Việt Nam 2025, tỉnh Quảng Trị mới là sáp
**Phaolô Bùi Chu Tạo** (1909 – 2001) là một Giám mục Công giáo người Việt Nam, từng đảm nhận vai trò Giám mục chính tòa tiên khởi của Giáo phận Phát Diệm trong suốt gần
**Tổng giáo phận Huế** (tiếng Latin: _Archidioecesis Hueensis_) là một tổng giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở miền trung Việt Nam. Tính đến năm 2019, Tổng Giáo phận Huế có diện tích
**Giuse Phạm Văn Thiên** (1907–1997) là một giám mục của Giáo hội Công giáo người Việt Nam. Ông là Giám mục tiên khởi của Giáo phận Phú Cường, đồng thời giữ chức vụ này từ
**Antôn Nguyễn Văn Thiện** (1906–2012) là một Giám mục Công giáo người Việt, từng đảm nhận vai trò Giám mục Tiên khởi Giáo phận Vĩnh Long trong thời gian từ năm 1960 đến năm 1968.
phải|nhỏ|Bản đồ các giáo phận Công giáo Việt Nam **Giáo hội Công giáo tại Việt Nam** hiện tại được tổ chức theo địa giới gồm có 3 giáo tỉnh là Hà Nội, Huế và Sài
**Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền** (1906–1973) là một giám mục của Giáo hội Công giáo Roma tại Việt Nam, ông là người Việt thứ 11 được tấn phong giám mục, giám mục người Việt đầu
**Giuse Trần Văn Thiện** (1 tháng 10 năm 1908 – 4 tháng 2 năm 1989) là một giám mục người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma. Ông nguyên là giám mục tiên khởi
**Giáo phận Phát Diệm** (tiếng Latin: _Dioecesis de Phatdiem_) là một giáo phận Công giáo tại Việt Nam. Đây là giáo phận đầu tiên ở Việt Nam được ủy thác cho hàng giáo sĩ Việt
**Micae Nguyễn Khắc Ngữ** (1909–2009) là một Giám mục người Việt của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm nhiệm vai trò Giám mục chính tòa tiên khởi của giáo phận Long Xuyên từ
**Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa** được thành lập vào ngày 28 tháng 8 năm 1945 sau cuộc Cách mạng tháng Tám (danh sách đăng trên các báo ngày
**Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục** (6 tháng 10 năm 1897 – 13 tháng 12 năm 1984) là một Giám mục Công giáo Việt Nam. Ông từng giữ chức Đại diện Tông Tòa Hạt Đại diện
**Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam** là một tổ chức xã hội tại Việt Nam, là một tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tuy thành viên của Ủy
**Tu viện Geghard** (, nghĩa là "ngọn giáo") là một tu viện thời trung cổ ở tỉnh Kotayk của Armenia, có một phần được trạm khắc trên vách đá với ngọn núi liền kề. Nó
**Lịch sử của Giáo hội Công giáo Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1990** có nhiều điểm đặc thù riêng. Đây là giai đoạn 15 năm thứ hai kể từ khi thiết lập hàng
**Matteo Maria Zuppi** (sinh 1955) là một Hồng y người Italia của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông hiện đảm nhận vai trò Tổng giám mục Tổng giáo phận Bologna. Trước đó, ông từng làm
**Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn** (sinh ngày 5 tháng 3 năm 1934) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma và hiện đảm nhận vai trò Hồng y đẳng Linh
**Giuse Hình Văn Chi** (, _Joseph Xing Wen-zhi_; sinh 1963) là một giám mục của Giáo hội Công giáo Rôma. Đối với Tòa Thánh Vatican, ông hiện vẫn là Giám mục phụ tá của Giáo
**Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận** (17 tháng 4 năm 1928 – 16 tháng 9 năm 2002) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách cương vị
**Phêrô Nguyễn Văn Nhơn** (sinh ngày 1 tháng 4 năm 1938) là một hồng y, giám mục Công giáo người Việt Nam. Ông hiện đảm nhận tước vị Hồng y Đẳng Linh mục Nhà thờ
**Đa Minh Mai Thanh Lương** (tiếng Anh: **Dominic Luong**, **Dominic Dinh Mai Luong**) (20 tháng 12 năm 1940 – 6 tháng 12 năm 2017) là một giám mục Công giáo Rôma người Mỹ gốc Việt.
**Maria Corazon "Cory" Cojuangco Aquino** (25 tháng 1 năm 1933 – 1 tháng 8 năm 2009) là Tổng thống thứ 11 của Philippines và là một nhà hoạt động dân chủ, hòa bình, nữ quyền,
**Tôma Nguyễn Văn Tân** (1940 – 2013) là một Giám mục người Việt Nam của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách vai trò Giám mục chính tòa Giáo phận Vĩnh Long từ
**Niên biểu hóa học** liệt kê những công trình, khám phá, ý tưởng, phát minh và thí nghiệm quan trọng đã thay đổi mạnh mẽ vốn hiểu biết của nhân loại về một môn khoa
Tại Việt Nam, **bất đồng chính kiến** từng xuất hiện trong nhiều giai đoạn lịch sử dưới nhiều loại hình khác nhau. ## Thời Pháp thuộc Trong thời Pháp thuộc, Nhiều người bất đồng chính
thumb|[[Bữa ăn tối cuối cùng (Leonardo da Vinci)|_Bữa ăn tối cuối cùng_, tranh vẽ cuối những năm 1490 của họa sĩ Leonardo da Vinci, miêu tả cảnh bữa tối Chúa Giê-su và 12 tông đồ]] **Mười
**Aloisiô Nguyễn Hùng Vị** (sinh ngày 15 tháng 8 năm 1952) là một giám mục của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông hiện là Giám mục chính tòa thứ bảy của Giáo phận Kon Tum
**Kinh Cầu Các Thánh** được là một trong những kinh cổ xưa nhất của Giáo hội Công giáo. Kinh này thường được dùng trong những dịp như : Lễ Truyền Chức Thánh, Lễ Cung Hiến
**Đảng Thăng Tiến Việt Nam** (tiếng Anh: **Vietnam Progression Party**), là một đảng chính trị ở hải ngoại và Việt Nam, được thành lập vào khoảng tháng 8 năm 2006. Là một thành viên của