✨Hành chính Việt Nam thời Nguyễn

Hành chính Việt Nam thời Nguyễn

Hành chính Việt Nam thời Nguyễn phản ánh bộ máy cai trị từ trung ương tới địa phương của chính quyền nhà Nguyễn trong thời kỳ độc lập (1802-1884).

Bộ máy cai trị của nhà Nguyễn kể từ thời Minh Mạng được đánh giá là khá hoàn chỉnh, đánh dấu thời kỳ hưng thịnh.

Chính quyền trung ương

trái|nhỏ|Tổ chức hành chính trung ương thời Minh Mạng phải|Phẩm phục của một viên quan nhỏ triều Nguyễn-Hình vẽ của [[họa sĩ Pháp E. Ronjat tại Huế (1874)]]

Thời Gia Long, nhà Nguyễn về cơ bản vẫn giữ nguyên hệ thống quan chế và cơ cấu chính quyền trung ương giống như các triều đại trước đó. Đứng đầu nhà nước là vua, nắm mọi quyền hành trong tay. Chức Tể Tướng được bãi bỏ, dùng Lục Bộ, là 6 tổ chức hành pháp cao nhất, để điều hành việc hành chính trong nước như đã được áp dụng ở các triều đại trước. Tại triều đình, trên là bốn vị đại thần, còn được biết đến là "Tứ trụ triều đình", chuyên tư vấn vua trong việc điều hành đất nước. Dưới là các cơ quan Tam Nội viện (Thị thư viện, Thị hàn viện, Nội hàn viện) và Thượng bảo ty giúp vua chuyên trách các công việc về văn thư, giấy tờ, quản lý ấn tín.

Thời Minh Mạng, bộ máy hành chính trung ương nhà Nguyễn được cải tổ mạnh mẽ. Các cơ quan hành chính từ trung ương đến địa phương được sắp xếp và cải tiến song song với việc định lại các giai chế phẩm trật. Thời kỳ này, vua nắm mọi quyền hành trong tay, dưới vua là viện Cơ mật tư vấn vua về các vấn đề quốc sự, Lục bộ tức sáu cơ quan Hành pháp điều hành việc hành chính trên toàn quốc, cùng Đô sát viện là cơ quan Tư pháp giám sát hoạt động của Lục bộ từ địa phương đến trung ương, Nội các giúp vua coi giữ giấy tờ, ấn tín, và những cơ quan chuyên môn khác như Lục tự, Tôn nhân phủ, Khâm thiên giám, Quốc sử quán, Vũ khố, v.v. Thời Minh Mạng, tổ chức hành chính trung ương đã được cải tiến khá hoàn chỉnh như sau:

  • Nội các tiền thân dưới thời vua Gia Long là Thị thư viện, Thị hàn viện, Nội hàn viện và Thượng bảo ty. Năm Minh Mạng 1 (1820), vua cho lấy 4 cơ quan trên, hợp thành Văn thư phòng. Năm Minh Mạng 10 (1829) lại bỏ Văn thư phòng thành lập Nội các.  Nội các là cơ quan phụ tá giúp việc cho vua, chuyên trách giải quyết các công việc về công văn, giấy tờ như xét duyệt các văn bản trước khi trình lên vua, làm phiếu nghĩ, thư bài, soạn các bản phúc đáp, kính sao bản vua phê, phụng sao lời chỉ dụ, sao lục phát giao công văn, coi giữ ấn tín, kiềm ký, long bài, lưu giữ châu bản, và các ngự chế thi văn, v.v.    
  • Cơ mật viện thành lập năm Minh Mạng 15 (1834) là cơ quan chuyên tư vấn cho vua các vấn đề về chính trị, ngoại giao và những vấn đề mang tính cơ mật quốc gia.
  • Lục Bộ là tổ chức hành pháp cao nhất của triều đình gồm 6 bộ: Binh, Công, Hình, Hộ, Lại, Lễ. Trong đó chức năng cụ thể của các Bộ như sau: Bộ Lễ chuyên trách việc lễ nghi, tế tự, khánh tiết, yến tiệc, trường học, thi cử, áo mũ, ấn tín, phù hiệu, chương tấu, biểu văn, sứ thần cống nạp, các quan chầu mừng, tư thiên giám, thuốc thang, bói toán, tăng lục, đạo lục, giáo phường, đồng văn nhã nhạc Bộ Lại chuyên trách việc quan tước, thăng giáng, thuyên chuyển, lựa chọn, xét công, bãi truất và thăng thưởng, bổ sung quan lại, cung cấp người cho các nha môn, chỉnh đốn phép làm quan để giúp việc chính sự trong nước Bộ Công chuyên trách việc xây dựng, tu sửa cung điện, lăng tẩm, thành hào, đồn luỹ, đê điều, cầu cống, đường sá, lo việc thợ thuyền, sản xuất vật dụng phục vụ trong hoàng cung và quản lý việc sản xuất hàng hoá ngoài xã hội, thi hành lệnh cấm về núi rừng, vườn tược và sông ngòi. Bộ Hộ chuyên trách việc ruộng đất, nhân khẩu, kho tàng, thuế khoá, định giá lương thực trong nước, bình chuẩn việc phát ra thu vào để điều hoà nguồn của cải nhà nước Bộ Hình chuyên trách việc luật lệnh, xét xử, hình phạt, án tù, ngục tụng, giúp nhà vua chế định, chấn chỉnh các vấn đề về hình luật Bộ Binh chuyên trách việc binh nhung, khí giới, bảo vệ kinh thành, biên giới, các nơi hiểm yếu, chăm lo việc bổ nhiệm, tuyển dụng các chức võ quan trong ngạch, khảo duyệt vũ khí, quân lương
  • Lục Tự là sáu tổ chức giúp vua, thừa hành các trách nhiệm do Lục bộ trao cho, các vấn đề về văn hoá, giáo dục, thi cử, luật pháp, tế tự gồm: Đại lý tự, Thái thường tự, Quang lộc tự, Thái bộc tự, Hồng lô tự, Thượng bảo tự. Thời Nguyễn, riêng Hồng lô tự (lo việc tiếp đón sứ đoàn các nước) và Thượng bảo tự (lo việc văn phòng, ấn tín giúp vua) có chức trách thường trực, các chức điều hành trong những tự khác như chức Tự khanh, Tự thiếu khanh, Tự thừa thường trao cho các quan trong Lục bộ điều hành tạm thời, không có chức vụ nhất định..

phải|Bản đồ hành chính Đại Nam khoảng năm 1838 dưới triều vua Minh Mạng

Cả nước được chia thành 31 đơn vị hành chính: Phủ Thừa Thiên (còn gọi là Quảng Đức) là trung tâm, các trấn (tên đơn vị hành chính thời Hậu Lê và Tây Sơn) được đổi thành 30 tỉnh. Việc lập các tỉnh được thực hiện trong 2 đợt. Đợt đầu tiên vào năm 1831, Minh Mạng thực hiện chia các trấn phía bắc làm 18 tỉnh, 9 châu này nay là đất thuộc tỉnh Savannakhet).

Hà Tĩnh (gồm cả đất Trấn Tĩnh (Đông Khammuane), Lạc Biên (Nam Nakhon Phanom) nay thuộc Lào và Thái Lan)

Nghệ An (gồm cả đất Trấn Ninh (Xiengkhuang), Trấn Biên (Nam Huaphanh), Trấn Định (Borikhamxay, Bắc Khammuane) nay thuộc Lào)

Thanh Hóa (gồm cả đất Trấn Man (Bắc Huaphanh) nay thuộc Lào)

*13 tỉnh Bắc Kỳ:

Ninh Bình (nay là đất Ninh Bình và một phần Hòa Bình)

Nam Định (gồm cả đất Thái Bình và Nam Định ngày nay)

Hà Nội (nay là đất các tỉnh thành Hà Nội, Hà Nam)

Hưng Yên

Hải Dương (gồm cả đất Hải Phòng, Hải Dương và Đông Triều (Quảng Ninh) ngày nay)

Quảng Yên (Quảng Ninh, một phần Lạng Sơn ngày nay)

Sơn Tây (nay là đất thuộc các tỉnh thành Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hòa Bình, Phú Thọ và Sơn Dương (Tuyên Quang))

Bắc Ninh (nay là Bắc Ninh và Bắc Giang, Hữu Lũng (Lạng Sơn), một phần đất Hà Nội, Hưng Yên và Vĩnh Phúc này nay)

Tuyên Quang (nay là đất các tỉnh Tuyên Quang, Hà Giang, Bảo Lâm, Bảo Lạc (Cao Bằng)

Hưng Hóa (nay là đất các tỉnh Phú Thọ, Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái)

Thái Nguyên (nay là đất các tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn, một phần Vĩnh Phúc)

Lạng Sơn

Cao Bằng

Sang năm 1832 Minh Mạng lại sắp xếp các trấn phía nam thành 12 tỉnh:

Lãnh thổ Cao Miên giai đoạn 1836-1840

Trong giai đoạn 1836-1840, Cao Miên (Campuchia) không có vua chính thức, nhà Nguyễn bảo hộ Cao Miên, đã sáp nhập vùng lãnh thổ Cao Miên do nhà Nguyễn bảo hộ (các tỉnh phía Đông Nam Biển Hồ bao gồm cả Oudong và Phnom Penh) vào lãnh thổ Đại Nam gọi là Trấn Tây và chia và đặt tên thành 33 phủ và 2 man để quản lý:

phải|Cao Miên và [[Nam Kỳ Lục tỉnh năm 1860 (tên các địa danh phủ huyện của Cao Miên do nhà Nguyễn đặt được phiên âm qua tiếng Pháp): Nam Thái (An-tai F), Phù Nam (Phou-Nam), Nam Ninh (Nam-nigne), Lư An (Lou-an), La Kết (La-Kiet), Tầm Vu (Tam-vou), Nam Vang (Nora-Vang), Kỳ Tô (Ki-to), Long Tôn (Long-ton), Ngọc Bi (Ngoc-bai), Ý Dĩ (Yao-dzi), Hải Tây (Hai-tai), Hải Đông (Hai-dong), Bình Xiêm (Bigne-Xien), Phúc Lai (Pheuoc-laḯ), Chấn Tài (Kieng-tai), Biển Hồ (Ho-hai-nhi), Bát tầm bang (Bato-an boun).]] Tháng 5 âm năm Minh Mạng 21, Canh Tý (1840), trừ 2 phủ với 5 huyện đã trích ra để nhập vào An Giang, các phủ huyện còn lại của Trấn Tây được Minh Mạng tổ chức lại thành 10 phủ là: Trấn Tây (phủ), đổi từ phủ Nam Vang, gồm 2 huyện: Thái An (đất bờ phía Tây phủ Nam Vang hợp với đất La Kết (Kien Svay, Leuk Daek)), Lư An (Lvea Aem, đất bờ sông phía Đông phủ Nam Vang hợp với đất Tầm Vu). Nghi Hòa, gồm 2 huyện: Thượng Phong (đổi tên từ huyện Hóa Di), Phong Nhương (đổi tên từ huyện Ca Bát). Nam Ninh, gồm 3 huyện: Nam Thịnh (khoảng Peam Ro, Prey Veaeng, nguyên là huyện Ba Nam đổi tên, có đặt phủ lỵ), Nam Thái (Peam Chor), và Phù Nam (Ba Phnum là huyện mới gộp lại từ 2 huyện là Tầm Đôn (khoảng Rom Doul), cùng (Tuy Lạp, Svay Chrom). Vũ Công, gồm 3 huyện: Kỳ Tô (Srey Santhor, Sithor Kandal), Bình Tiêm, Trưng Thụy (Trưng Lệ). Các phủ Trấn Tây, Nghi Hòa, Nam Ninh, Vũ Công đều ở xung quanh gần với thành Trấn Tây (Nam Vang), trực tiếp do Trương Minh Giảng cùng các tham tán đại thần Trấn Tây quản lý. Hải Tây, gồm 2 huyện: Hải Bình (hợp lại từ phủ lỵ Hải Tây và huyện Ca Âu), Thâu Trung (hợp lại từ 3 huyện Ý Dĩ, Vọng Vân, Thâu Trung). Hải Đông, gồm 2 huyện: Hải Ninh (hợp lại từ phủ lỵ Hải Đông và huyện Ca Nhi), Tập Ninh (hợp lại từ 2 bảo Sa Tôn, và Chi Trinh). Ninh Thái, gồm 3 huyện: Ngọc Bi (phủ lỵ), Giang Hữu (trước là đất Lô Việt (Lò Việt, (Lovek)) hợp với một phần (1 thôn) của huyện Trung Hà), Thái Thịnh (đổi tên từ Long Tôn). Các phủ Hải Tây, Ninh Thái nằm phía Tây Biển Hồ, và đều do Tuyên phủ sứ phủ Hải Tây quản lý. Hà Bình, gồm 2 huyện Trung Hà (hợp lại từ huyện Chấn Tài và 5 thôn còn lại của huyện Trung Hà (cũ)), và Phúc Lai. Các phủ Hà Bình, Hải Đông đều nằm ở phía Đông Biển Hồ, và đều do Tuyên phủ sứ phủ Hải Đông quản lý. Sơn Tĩnh, gồm 2 huyện: Quế Lâm (hợp lại từ phủ lỵ Sơn Tĩnh và huyện Quế Lâm), Sơn Đông (đổi từ huyện Sơn Phú (Sơn Phủ)). Mỹ Lâm, gồm 2 huyện: Mỹ Tài (huyện lỵ), Hoa Lâm (Ca Lâm, nguyên là huyện Sơn Trung và Hoa Lâm hợp lại). Các phủ Hà Bình, Hải Đông đều nằm ở phía Đông Biển Hồ, và đều do Tuyên phủ sứ phủ Sơn Tĩnh quản lý.

Bộ máy địa phương

Đứng đầu tỉnh là Tổng đốc (mỗi người phụ trách 2-3 tỉnh và chuyên trách 1 tỉnh) và Tuần phủ (dưới Tổng đốc, phụ trách chỉ 1 tỉnh). Giúp việc có Bố chánh sứ ti lo về thuế khóa, hộ khẩu, hành chính; Án sát sứ ti lo về an ninh, luật pháp. Phụ trách về quân sự có chức lãnh binh. Tất cả các quan chức đứng đầu tỉnh đều do chính quyền trung ương trực tiếp bổ nhiệm, và thường là võ quan cao cấp (về sau nhà Nguyễn mới bổ dụng thêm các quan văn).

Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu, tổng và xã. Quan chức của triều đình chỉ phân ra tới phủ huyện, từ tổng trở xuống thuộc về quyền tự trị của dân. Người dân tự lựa chọn lấy người của mình mà cử ra quản trị mọi việc tại địa phương. Tổng gồm có vài làng lớn hay xã nhỏ hợp lại thành, có một Cai tổng còn gọi là quan Chính Tổng và một Phó tổng do Hội đồng Kỳ dịch của các làng cử ra quản lý thuế khóa, đê điều và trị an trong tổng. Nhưng nhìn chung là cơ cấu hành chính của các tổng, xã được tổ chức khá chặt chẽ để triều đình có thể dễ dàng quản lý và phản ứng mau lẹ khi có sự biến xảy ra.

Vùng Cao nguyên Nam Trung Bộ (Tây Nguyên) hiện nay, vào thời nhà Nguyễn độc lập (1802-1883), tuy được gọi là châu Thượng Nguyên, nhưng còn đang là các vùng tự trị (bao gồm cả một phần Nam Lào và Đông Bắc Campuchia lẫn Tây Nguyên này nay) thuộc các tiểu quốc thần phục và triều cống cho Đại Nam (là Thủy Xá, Hỏa Xá), chưa chính thức thuộc lãnh thổ Việt Nam.

Đối với vùng thượng du và với các khu vực sinh sống của các dân tộc thiểu số, chủ yếu là 6 ngoại trấn của Bắc Thành cũ, vua Minh Mạng quyết định nhất thể hóa về mặt hành chính cùng với các vùng miền xuôi. Năm 1829 ông bãi bỏ chế độ thế tập của các Thổ ti (các tù trưởng của dân tộc thiểu số) mà cho quan lại lựa chọn những thổ hào ở địa phương "...thanh liêm, tài năng cần cán được dân tin phục" làm Thổ tri các châu huyện. Tiếp theo, các châu huyện miền núi cũng được phân chia lại để phù hợp với diện tích và dân số mỗi vùng. Sau đó, vua Minh Mạng còn đặt thêm một chức lưu quan do người Kinh nắm giữ để khống chế các vùng này tốt hơn và tiến hành thu thuế các loại như ở miền xuôi. Chế độ này đã từng làm thí điểm ở các vùng cao thuộc Nghệ An, nay áp dụng ở Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng. Tuy nhiên, do phản ứng của người dân địa phương, vua Tự Đức sau đó đã bãi bỏ chế độ lưu quan

Vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa

thumb|Quần đảo Hoàng Sa trên bản đồ của Đức năm 1876 vẽ vùng Viễn Ấn Hinter-Indien với lời ghi rõ quần đảo thuộc xứ "Annam" Đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vua Gia Long từ năm 1816 đã chính thức ra lệnh tiếp thu Hoàng Sa, cắm cờ trên đảo và đo thủy trình. Sang triều Minh Mạng, nhà Nguyễn cho xây đền, đặt bia đá, đóng cọc, và trồng cây. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải được trao nhiều nhiệm vụ hơn: khai thác, tuần tiễu, thu thuế dân trên đảo và nhiệm vụ biên phòng bảo vệ hai quần đảo. Hai đội này tiếp tục hoạt động cho đến khi người Pháp vào Đông Dương.

Nhận định

Những thành quả của vương triều Nguyễn trong việc xây dựng nhà nước quân chủ phong kiến tập quyền thống nhất trên toàn lãnh thổ cũng được ghi nhận từ việc quản lý đất nước. Đặc biệt là những thành tựu trong cải cách hành chính dưới triều Minh Mạng còn có nhiều giá trị. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cho rằng: "Nhà Nguyễn có nhiều chính sách hay. Chính sách Đình Nghị: Đã đi họp là phải phát biểu. Ý kiến trong Đình Nghị phải được ghi chép. Nếu không phát biểu trong kỳ họp trước, kỳ sau sẽ không được đi họp nữa. Hay chủ trương Hầu trị: Người của địa phương không được đứng đầu trong địa phương. Phải đi nơi khác làm quan, khi đến địa phương khác, không được lấy vợ, mua đất ở đó. Giám khảo chấm thi không được tham gia khi có người nhà đi thi, hoặc phải trình báo…Đây là những chính sách mà ngày nay chúng ta cần học tập."

Nhưng nhiều nhà sử học về sau cho rằng bộ máy quan lại triều Nguyễn không thực sự hủ bại, thối nát, rằng từ thời vua Gia Long (1802-1820) đến Minh Mạng (1820-1840), nhà Nguyễn đã "thực hiện công cuộc cải cách hành chính theo xu hướng đơn giản, hợp lý, hiệu quả, chú trọng xây dựng đội ngũ quan lại có năng lực, đáp ứng yêu cầu của đất nước". Sự thay đổi về quan điểm này được cho là do hiện nay các nhà sử học đã có được "nguồn sử liệu toàn diện, phong phú và phương pháp tiếp cận khách quan, khoa học, cộng với độ lùi thời gian cần thiết". nhỏ|phải|Nước [[Đại Nam của nhà Nguyễn vào thời điểm kết thúc độc lập năm 1883-1884, lãnh thổ chính bị chia thành 3 xứ Nam Kỳ thuộc địa (Cochinchina), Trung Kỳ (Annam), Bắc Kỳ (Tonkin) thuộc Pháp. Lãnh thổ cực đại của nhà Nguyễn thời độc lập tương đương với 3 xứ này và những vùng hay vương quốc mà nhà Nguyễn từng sáp nhập ở xung quanh: Trấn Ninh, Tây Nguyên (Pays de Mois), và Trấn Tây (Cambodge 1834-1840).]]

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hành chính Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh bộ máy cai trị từ trung ương tới địa phương của chính quyền nhà Nguyễn trong thời kỳ độc lập (1802-1884). Bộ máy cai trị của nhà
**Hành chính Việt Nam thời Tiền Lê** phản ánh bộ máy chính quyền từ trung ương tới địa phương của Việt Nam từ năm 980 đến năm 1009 trong lịch sử Việt Nam. ## Chính
**Hành chính Việt Nam thời Pháp thuộc** là hệ thống hành chính từ trung ương tới địa phương của người Pháp tại Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ từ năm 1884 đến năm 1945.
**Hành chính Việt Nam thời Nam Bắc triều** phản ánh bộ máy chính quyền trung ương tới địa phương của hai triều đình Lê-Mạc từ năm 1527-1592 trong lịch sử Việt Nam. Bộ máy hai
**Hành chính Việt Nam thời Tây Sơn** ánh bộ máy cai trị từ trung ương tới địa phương của nhà Tây Sơn từ năm 1778 đến năm 1802, không chỉ giới hạn trong phạm vi
**Hành chính Việt Nam thời Bắc thuộc lần 3** phản ánh bộ máy cai trị tại Việt Nam của hai triều đại phương Bắc là nhà Tùy và nhà Đường từ năm 602 đến năm
**Hành chính Việt Nam thời Đinh** phản ánh bộ máy chính quyền từ trung ương tới địa phương của nước Đại Cồ Việt từ năm 968 đến năm 979 trong lịch sử Việt Nam. ##
**Hành chính Việt Nam thời Bắc thuộc lần 2** phản ánh những biến động về địa giới hành chính của Việt Nam từ năm 43 đến năm 541, qua tay 7 triều đại phong kiến
Tùy theo quan điểm của các sử gia, thời kỳ Bắc thuộc lần 1 của Việt Nam kéo dài ít nhất là 150 năm và lâu nhất là 246 năm (xem bài _Bắc thuộc lần
**Hành chính Việt Nam thời Hồ** trong lịch sử Việt Nam phản ánh hệ thống chính quyền từ trung ương đến địa phương nước Đại Ngu từ năm 1400 đến năm 1407. Từ khi thái
**Hành chính Việt Nam thời Tiền Lý và Triệu Việt Vương** phản ánh bộ máy chính quyền trung ương và địa phương thời kỳ này trong lịch sử Việt Nam, kéo dài từ năm 541
**Hành chính Việt Nam thời Ngô** phản ánh bộ máy chính quyền từ trung ương tới địa phương của Việt Nam dưới thời nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam. ## Chính quyền trung ương
**Hành chính Việt Nam thời An Dương Vương** phản ánh bộ máy chính quyền từ trung ương tới địa phương của Việt Nam thời An Dương Vương trong lịch sử Việt Nam. ## Chính quyền
**Hành chính Việt Nam thời Tự chủ** phản ánh bộ máy chính quyền từ trung ương tới địa phương của Việt Nam dưới thời Tự chủ trong lịch sử Việt Nam. ## Chính quyền trung
**Hành chính Việt Nam thời Hồng Bàng** phản ánh bộ máy chính quyền từ trung ương tới địa phương của Việt Nam thời Hồng Bàng trong lịch sử Việt Nam. ## Chính quyền trung ương
**Phân cấp hành chính thời quân chủ Việt Nam** được tính từ khi Việt Nam giành được độc lập sau thời kỳ bắc thuộc đến khi người Pháp xâm lược và chiếm đóng hoàn toàn
Trong chính sách cải cách thể chế 2024–2025, chính quyền Việt Nam đã đặt mục tiêu sáp nhập, tái cơ cấu các đơn vị hành chính cấp tỉnh và xã nhằm tinh gọn bộ máy
**Nông nghiệp Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh chính sách ruộng đất và kết quả hoạt động nông nghiệp của Việt Nam dưới thời nhà Nguyễn khi còn độc lập, từ năm 1802 đến 1884.
thumb|Tiền tệ nhà Nguyễn. **Tiền tệ Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông thời nhà Nguyễn độc lập (1802-1884) và những đồng tiền do nhà Nguyễn
**Hành chính Việt Nam Dân chủ Cộng hòa** phản ánh bộ máy hành chính từ trung ương tới địa phương của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong thời kỳ 1945-1975. nhỏ|thế= bản
**Việt Nam** thống kê về **GRDP bình quân đầu người** dựa vào Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP). Bởi vì giữa Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) và Tổng sản phẩm nội địa
**Phân cấp hành chính Việt Nam** là sự phân chia các đơn vị hành chính của Việt Nam thành từng tầng, cấp theo chiều dọc. Theo đó cấp hành chính ở trên (cấp trên) sẽ
**Thời kỳ Bắc thuộc lần 4** của Việt Nam kéo dài 20 năm, bắt đầu từ năm 1407 khi nhà Minh đánh bại nhà Hồ và chấm dứt năm 1427 khi Lê Lợi đánh đuổi
Việt Nam có 63 đơn vị hành chính cấp một, bao gồm 58 tỉnh, 05 thành phố trực thuộc trung ương. Việt Nam chia thành 07 khu vực bao gồm Đồng bằng sông Hồng, Đồng
nhỏ|318x318px|Hành chính Việt Nam thời Lê Sơ **Hành chính Đại Việt thời Lê sơ**, đặc biệt là sau những cải cách của Lê Thánh Tông, hoàn chỉnh hơn so với thời Lý và thời Trần,
Tranh vẽ cảnh vua Lê thiết triều của Samuel Baron - thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVII. **Hành chính Đàng Ngoài thời Lê trung hưng**, hay còn gọi là **hành chính Đại Việt thời
**Hành chính Việt Nam thời Lý** phản ánh bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương của nước Đại Việt thời nhà Lý (1009-1225) trong lịch sử Việt Nam. Từ thời nhà Đinh,
**Hành chính Việt Nam thời Trần** hoàn thiện hơn so với thời Lý. Sau khi giành được chính quyền, nhà Trần đã phân chia lại Đại Việt thành 12 lộ thay vì 24 lộ như
**Hành chính Đàng Trong thời Lê trung hưng** phản ánh bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương ở Đàng Trong - miền Đại Việt từ sông Gianh trở vào, thuộc quyền cai
nhỏ|phải|Tổ tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế "_1 cửa_" tại Ủy ban nhân dân [[Phường 3, Đông Hà|Phường 3, thành phố Đông Hà]] **Cải cách hành chính Việt Nam 2016–2020** bao gồm
**Phân cấp hành chính thời Pháp thuộc** được tính từ khi Pháp chiếm được Nam Kỳ cho đến khi Việt Nam giành được độc lập (1863 - 1945) Sau khi chiếm toàn nước Việt Nam,
phải|Bản đồ ấn hành năm 1829 ở Pháp vẽ biên cương nước Việt Nam bao gồm cả Cao Miên và Lào **Ngoại giao Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh những hoạt động ngoại giao giữa
Bản đồ địa giới các tỉnh và thành phố Mã bưu chính Việt Nam kể từ năm 2018 **Mã bưu chính ở Việt Nam** (tên chính thức: **Mã bưu chính quốc gia**, tiếng Anh: _National
**Bộ Tài chính** là cơ quan của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài chính, ngân sách nhà nước, thuế, phí,
**Chính quyền địa phương ở Việt Nam** là một bộ phận hợp thành của chính quyền nhà nước, thực hiện các chức năng quản lý và quyết định các biện pháp thực hiện nhiệm vụ
Nước Đại Việt dưới **triều đại Tây Sơn**, có **quan hệ ngoại giao** với các nước Xiêm La và Trung Quốc ở triều Mãn Thanh. Nguyễn Huệ - tức Hoàng Đế Quang Trung - là
**Chiến tranh Việt – Xiêm (1841–1845)** là cuộc chiến giữa hai nước Xiêm La dưới thời Rama III và Đại Nam thời Thiệu Trị, diễn ra trên lãnh thổ Campuchia (vùng phía Đông Nam Biển
**Tỉnh** là đơn vị hành chính nông thôn cấp cao nhất ở Việt Nam.. Tính đến ngày 12 tháng 6 năm 2025, Việt Nam có 34 đơn vị hành chính cấp tỉnh, trong đó có
**Bắc thuộc** là danh từ chỉ thời kỳ Việt Nam bị đặt dưới quyền cai trị của các triều đại Trung Quốc, được coi như một đơn vị hành chính của Trung Quốc, tùy theo
Đây là **biên niên sử Việt Nam thời kỳ 1945–1975**, thời kì gắn liền với Chiến tranh Việt Nam. ## Thập niên 1940 ### 1945 *Năm 1945: Nạn đói gây ra cái chết của 2
**Văn học Việt Nam thời Tiền Lê** được nhiều nhà nghiên cứu xem là giai đoạn sơ khởi của nền văn học viết Việt Nam (để phân biệt với văn học dân gian, văn học
**Bắc Kỳ** (chữ Hán: 北圻) là địa danh do vua Minh Mạng ấn định vào năm 1834 trong cuộc cải cách hành chính để mô tả vùng đất từ tỉnh Ninh Bình trở ra Bắc
**Tiền tệ Việt Nam thời Hồ** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào thời nhà Hồ (1400-1407) trong lịch sử Việt Nam. ## Tiền trong đời sống kinh tế
**Thị trấn** là một đơn vị hành chính cấp xã từng tồn tại tại Việt Nam. Loại đơn vị hành chính này đã bị bãi bỏ vào ngày 17 tháng 6 năm 2025. Trước khi
**Tỉnh** của Việt Nam Cộng hòa là đơn vị hành chính lớn nhất dưới cấp Quốc gia đứng đầu là tỉnh trưởng. Dưới cấp tỉnh là quận, không phân biệt đô thị hay nông thôn
**Lịch sử hành chính Hà Nam** có thể xem mốc khởi đầu từ năm 1890 với sự kiệm phủ Lý Nhân được tách khỏi tỉnh Hà Nội để thành lập tỉnh Hà Nam. Vào thời
*Thị xã trực thuộc tỉnh tương đương với cấp quận, kiêm luôn quận lỵ và tỉnh lỵ, đứng đầu là tỉnh trưởng. *Thị xã trực thuộc trung ương là một đô thị tự quản tương
**Xã** là tên gọi đơn vị hành chính cấp hai tại khu vực nông thôn, ngoại thành, ngoại thị của Việt Nam hiện nay. Thuật ngữ _đơn vị hành chính cấp xã_ được dùng để
Giao thông và liên lạc tại Việt Nam thời Quân chủ Việt Nam không được quan tâm nhiều và phát triển chậm, chủ yếu do những hạn chế và yếu kém về kỹ thuật. Về
**Học viện Tài chính** (tiếng Anh: **Academy of Finance**, viết tắt **AOF**) trực thuộc Bộ Tài chính và chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo, là một trong những