✨Ngoại giao Việt Nam thời Nguyễn

Ngoại giao Việt Nam thời Nguyễn

phải|Bản đồ ấn hành năm 1829 ở Pháp vẽ biên cương nước Việt Nam bao gồm cả Cao Miên và Lào

Ngoại giao Việt Nam thời Nguyễn phản ánh những hoạt động ngoại giao giữa triều đình nhà Nguyễn với các quốc gia láng giềng và phương Tây trong thời kỳ độc lập (1802-1884).

Trung Quốc

Sau khi lấy được Bắc Hà, năm Gia Long thứ nhất (1802) tháng 5, Nguyễn Phúc Ánh đã cử một sứ đoàn do Trịnh Hoài Đức làm chánh sứ sang Quảng Đông để cầu nhà Thanh giúp đỡ trong vấn đề Tây Sơn còn chưa giải quyết xong. Khi ấy, Trịnh Hoài Đức đã mang theo quốc thư của Nguyễn Phúc Ánh và vật phẩm, bao gồm cả sắc thư và kim ấn được nhận từ triều Thanh mà Nguyễn Quang Toản của triều Tây Sơn bỏ lại khi rút lui, đồng thời giải theo ba hải tặc của nhà Thanh bị bắt làm tù binh. Nội dung quốc thư gửi lúc bấy giờ được dịch ra tiếng Pháp. Theo nội dung này, Nguyễn Phúc Ánh tự xưng là “Nam Việt quốc vương” (roi du royaume de Nam-Viet). Họ đặt chân đến Quảng Đông vào tháng 7. Đây là lần tiếp xúc chính thức đầu tiên giữa triều Nguyễn và triều Thanh.

Thế nhưng, khi Trịnh Hoài Đức đến Quảng Đông, triều đình nhà Thanh không đề cập đến vấn đề quốc hiệu, chỉ cho biết rằng họ Nguyễn chưa thống nhất đất nước, cũng không thuộc nước phiên thuộc nên không thể nhận cống vật. Sứ đoàn này chưa hồi hương thì cuối năm đó vua Gia Long tiếp tục hạ lệnh cho Lê Quang Định đem quốc thư và phẩm vật (2 cân kỳ nam, 2 cặp ngà voi, 4 tòa sừng tê, 100 cân trầm hương, 200 cân tốc hương và trừu, the, vải đều 200 tấm) đi xin phong và xin đổi quốc hiệu làm Nam Việt. Trong biểu trần tình Vua Gia Long viết:

“Tiên tổ chúng tôi là Nguyễn Hoàng, có chiến công nhiều, năm Mậu Ngọ (1558) nhà Lê phong cho làm Trấn thủ Thuận Hóa. Mở mang bờ cõi, có chín mười đời. Đến đời Nguyễn Phúc Thuần, chú chúng tôi, bị Tây Sơn giết. Nguyễn Huệ tự xưng Hoàng đế, chiếm cứ cơ nghiệp nhà Lê, may nhờ lượng Cửu trùng, tạm dung cho làm thuộc quốc. Đến đời con là Nguyễn Quang Toàn, thì dân trong nước tự trở lòng, bắt nạp cho chúng tôi và yêu cầu chúng tôi lên thay thế nhà Lê, cho hòa bình như ngày trước.

Tuy dân tâm qui thuận, mà còn chưa biết thiên mạng thế nào. Chúng tôi kính cẩn ủy cho Lê Quang Định, Trịnh Hoài Đức, sang dâng phương vật, để tỏ lòng thành; trộm mong mưa móc thấm đến phương xa, chúng tôi được liệt vào hàng phiên phục. Trong khi chúng tôi gởi bản trần tình biểu, tâm hồn lo sợ, theo khói hương bay đến Thiên đình”

Vua Thanh cho rằng chữ Nam Việt giống chữ Đông Tây Việt nên không muốn cho. Vua Gia Long hai, ba lần phục thư để biện giải, lại nói nếu vua Thanh không cho thì không chịu phong. Sau những tranh luận về tên gọi vì nhà Thanh ngại nhầm lẫn với nước Nam Việt xưa nằm ở lưỡng Quảng và cùng đồng ý đảo ngược lại thành Việt Nam, vua Thanh cho Tề Bổ Sum, Quảng Tây Án sát sứ, đệ cái ấn bạc mạ vàng, có hình lạc đà, đến tại Thăng Long, phong cho Nguyễn Phúc Ánh làm Việt Nam Quốc vương, ấn định thể lệ tiến cống hai năm một lần và cứ bốn năm một lần Việt Nam sẽ phái sứ bộ sang làm lễ triều kính. Đồ cống phẩm gồm: vàng 200 lượng; bạc 1000 lượng; lụa và cấp mỗi thứ 100 cây; sừng tê giác 2 bộ; Ngà voi và quế mỗi thứ 100 cân. Năm sau (1803), Sứ thần nhà Thanh đến tại Thăng Long, Vua Gia Long đón tiếp vào điện Kính Thiên, cử hành lễ thọ phong chính thức.

Theo yêu cầu của nhà Thanh, năm 1803 và 1805, sứ tạ ân được Nhà Nguyễn thay thế bằng sứ triều cống năm 1804. Song có lúc sứ triều cống kiêm luôn sứ tạ ân, khi số lượng sứ giả lâm thời không nhiều do có khi nhà Thanh yêu cầu ngừng cử sứ chúc mừng và sứ điếu vấn. Tháng 8 năm 1809, sứ đoàn Việt Nam sang mừng thọ vua Gia Khánh 50 tuổi. Liên tục từ 1813, 1817 và 1819 việc giao thiệp giữa Gia Long và nhà Thanh được êm đẹp. Cho đến năm 1839, năm cuối đời Minh Mạng (1820-1840), do triều cống được quy định thành bốn năm một lần giống như đối với Lưu Cầu và Xiêm La nên con số này càng giảm. Mặt khác, đối với các vật phẩm triều cống, triều Thanh đã cắt giảm rất nhiều cho vương triều Tây Sơn và nhà Nguyễn so với nhà Lê, chỉ bằng nửa giá trị trước đây, nên giá trị vật chất của triều cống càng trở nên mờ nhạt.

Các vị vua trong đó có vua Gia Long và cả tầng lớp trí thức, đều thích Nho học, nghĩ rằng Trung Quốc là ngọn nguồn của tri thức. Nên một trong những nhiệm vụ quan trọng sứ thần khi đi sang nhà Thanh là mang về các thư tịch Trung Quốc, nhất là thư tịch mới phát hành. Điều này có thể thấy qua chỉ dụ của vua Minh Mạng đối với sứ giả đi sứ nhà Thanh năm 1829, yêu cầu tìm mua cổ thi, cổ họa và cổ nhân kỳ thư. Đồng thời, nếu có thể tìm được thực lục của nhà Thanh thì dù chỉ là bản thảo cũng bằng mọi giá phải mua về. Những thư tịch này còn là tài liệu tham khảo quan trọng của triều đình nhà Nguyễn để xây dựng các chế độ pháp luật hay chế độ chính trị,... .

Năm 1827, Quân Xiêm La đánh Vạn Tượng khiến quốc vương xứ này là A Nộ chống không nổi phải sang cầu cứu triều đình Việt Nam. Vua Minh Mạng cho Thống chế Phan Văn Thúy mang viện quân sang giúp nhưng bị quân Xiêm đánh bại. Năm 1828 Phan Văn Thúy và Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Khoa Hào tiếp tục đem 3.000 quân và 24 con voi đưa A Nộ về Trấn Ninh, rồi tiến vào Vạn Tượng (Vientiane) nhưng đạo quân của nhà Nguyễn và A Nộ lại bị thua phải xin viện binh Nghệ An. Vua Minh Mạng chán việc này hạ lệnh bãi bỏ và chỉ còn phòng vệ vùng biên giới. Sau A Nộ chạy về Trấn Ninh bị bắt nộp cho Xiêm La.

Quân Xiêm được đà đánh dấn vào các miền phụ cận Quảng Trị. Thống chế Phạm Văn Điển và Tham tán Quân vụ Lê Đăng Doanh cùng với các đạo quân nhà Nguyễn ở Lào phải đi ngăn quân Xiêm, đằng khác gửi thư cho họ để trách cứ. Xiêm La trả lời khiêm nhượng rồi rút quân về. Tuy vậy họ vẫn bí mật giúp người Chân Lạp nổi lên chống lại chính quyền Đại Nam hoặc lấn lướt Vạn Tượng và các xứ quy phụ triều đình.

Cuối năm 1833, nước Xiêm mang quân vào nội địa Nam Hà và Chân Lạp theo lời kêu gọi của Lê Văn Khôi. Theo sử gia Phạm Văn Sơn thì "Xiêm La từ khi mất quyền bảo hộ ở Chân Lạp vẫn hằn học với Việt Nam, lúc không sinh sự được với ta thì lại quay ra quấy rối Ai Lao và Chân Lạp, hoặc khi thấy có biến cố xảy ra trên đất Việt Nam liền nắm ngay cơ hội để xâm lấn".

Chân Lạp

Lãnh thổ bảo hộ Chân Lạp 1818-1863 Chiếu mời Quốc vương Cao Miên đến bàn chính sự, năm Gia Long thứ 16 (1817)

Khi Gia Định bị thất thủ, quyền bảo hộ nước Chân Lạp thuộc về nước Tiêm La. Đến năm đinh mão (1807), Nặc Ông Chân bỏ Xiêm La xin về thần phục vua Việt Nam, theo lệ cống tiến, cứ ba năm một lần. Đồ cống vật gồm: voi đực cao 5 thước hai con; sừng tê giác 2 chiếc; ngà voi hai cái; hột sa nhân 50 cân; đậu khấu 50 cân; hoàng lạp 50 cân; cánh kiến 50 cân; và sơn đen 20 lọ.

Thời Minh Mạng, sau khi phá được quân Xiêm, Tướng Trương Minh Giảng và tham tán Lê Đại Cương lập đồn đóng quân ở gần Nam Vang để bảo hộ Chân Lạp.

Anh

Năm 1803, Vua nước Anh sai sứ thần là Robert đem phẩm vật sang tặng hảo, và xin khai thương tại vịnh Trà Sơn (Cửa Hàn) thuộc Quảng Nam. Vì đã nhận thấy ở Tây Trúc, ở Xiêm La, hiện tượng thế nào, nên Vua Gia Long đã từ chối không nhận lễ của người Anh, cũng không cho ở Cửa Hàn buôn bán:

“Tiên vương kinh dinh việc nước không để người Hạ lẫn người Di, đó thực là cái ý đề phòng từ lúc việc còn nhỏ. Người Hồng Mao gian giảo, trí trá, không phải nòi giống ta, lòng họ khác hẳn, không cho ở lại, ban cho ưu hậu mà khiến về…”
Mấy năm sau, người Anh còn đưa thư sang hai ba lần nữa; Vua Gia Long vẫn lãnh đạm, chưa muốn rước khách phương xa. Huống về công thương, nước Việt Nam chưa có thể cạnh tranh; dầu có thâu được thuế hải quan, cũng không bù lại với tài nguyên xuất cảng. Tháng 7 năm 1822, thuyền Anh đến, song không được dễ dàng như Xiêm La, đã vận động mở cuộc thông thương, mà bị Hải Vân quan đóng cửa. Năm Ất Mão (1855), thuyền Anh đến xin giao hảo thông thương, song vua Tự Đức không cho.Thư của Quản tàu Xuy Lê Đê La Ca Đi Ô về việc Vua Pháp gửi tặng lễ vật cho Quốc vương Đại Nam để tỏ tình hữu hảo, năm Gia Long thứ 16 (1817)Năm Đinh Sửu (1817), có chiếc Hòa Bình (La Paix) chở hàng sang bán; song toàn là xa xỉ phẩm, dân bản xứ không tiêu thụ bao nhiêu; Gia Long cho miễn thuế hải quan, để bù phí tổn. Cũng năm ấy, chính phủ Pháp phái tới chiếc tàu Quỳnh Nga (Cybèle) chở vật phẩm sang tặng hảo. Ngày đến Đà Nẵng, chủ thuyền là De Kergarion xin phép đến Kinh đô; tấn tuồng ngoại giao toan diễn tại Phú Xuân, chỉ vì có phẩm vật mà không có quốc thư. Achille De Kergariou nói rằng vua Louis XVIII sai sang xin thi hành những điều ước do Bá Đa Lộc ký năm 1787 về việc nhường cửa Đà Nẵng và đảo Côn Lôn. Vua Gia Long không tiếp, sai quan ra trả lời rằng những điều ước ấy nước Pháp trước đã không thi hành thì nay bỏ, không nói đến nữa. Ngoài ra ông cũng không thích cả Công giáo của châu Âu. Trong thời kỳ Minh Mạng nắm quyền, tín đồ Công giáo bị đàn áp quyết liệt và các giáo sĩ nước ngoài đã so sánh ông với hoàng đế Nero của Đế quốc La Mã - một hoàng đế từng tàn sát hàng loạt giáo dân Công giáo.

Với những người Pháp đã từng giúp vua Gia Long, Minh Mạng tỏ thái độ lạnh nhạt nên khi Chaigneau trở lại Việt Nam không được trọng dụng nữa. Minh Mạng cho Chaigneau hay rằng không cần phải ký thương ước giữa hai chính phủ, người Việt Nam vẫn đối xử tốt đẹp với người Pháp là đủ, ông chỉ thỏa thuận mua bán với người Pháp nhưng không chấp nhận xây dựng đặt quan hệ ngoại giao chính thức với nước Pháp, quốc thư của Pháp xin cho ông Chaigneau làm Lãnh sự Pháp ở Việt Nam không được nhà vua đếm xỉa đến. Thấy rõ chính sách ngoại giao của Vua Minh Mạng, dầu ở lại cũng chẳng ích gì, Nguyễn Văn Thắng, Nguyễn Văn Chấn đều xin về ngày 15/11/1824.

“Có bốn người lạ mặt, tự xưng là quan của nước Đại Nam, da vàng, răng đen, áo rộng tay, dài tột gót, màu xanh, màu lục, thêu những hình hoa hình chim… Bốn người ấy kể chuyện rằng bên xứ họ, cả dân tộc ưa chiến đấu, trọng chiến công; trong nước binh nhiều, và có kỷ luật… Các hải cảng đều canh phòng nghiêm mật, mấy đội thủy quân thường xuyên đi tuần tiễu biên cương… Hàng của các nước chở đến nhiều, mà bán được rất ít vì dân không thích dùng ngoại hóa, còn nguyên liệu cũng ít bán ra ngoài, hay là bán với giá rất cao, cho nên các nước Âu châu không giao thông thương mại… Dân xứ họ giàu lòng tín ngưỡng, thờ Thần, thờ Phật, thờ Thiên Chúa, triều đình cho được tự do…”.
Nhiều báo lại đăng những bài công kích, có đoạn nói “Nước Đại Nam cũng như Trung Quốc, tàn sát giáo đồ theo đạo Gia Tô; dầu sao cũng có cuộc báo thù, muộn hay là sớm…” Vì chính phủ có can thiệp, hay là có mật lệnh thế nào, sợ nói thật mất lòng, nên mấy kỳ sau không thêm bài khác nữa. Sứ bộ toan sang Anh Cát Lợi, vừa được tin Vua Minh Mạng thăng hà, phải vội trở về.

Ngày 21 tháng Giêng năm Tân Sửu (1841), Vua Thiệu Trị lên ngôi. Cũng năm ấy, có thuyền Pháp đến vịnh Trà Sơn, hỏi dò lối chính trị của tân quân, rồi nhổ neo đi; vì chẳng thấy hành động theo lối nhà binh, nên không có ai để ý. Tháng 2 năm Quý Mão (1843), một chiếc thuyền Pháp lại đến Đà Nẵng, chủ thuyền là Favia Lêvique biết rõ trong nhà lao ở Huế hiện giam 5 giáo đồ người Pháp, gửi thư xin Chính phủ tha ra. Theo lá thư này, Lêvique muốn mở lối ngoại giao, để điều đình với nhà chức trách. Hai năm sau, Cécille, thiếu tướng hải quân, coi đạo binh tại Thái Bình Dương, cho một chiếc chiến thuyền đến Trà Sơn xin tha cho Giám mục Lefèbvre, vị này bị án tử hình và đã bị giam hơn 11 tháng. Cũng như lần trước, lời thỉnh cầu vẫn được Thiệu Trị chuẩn y; vì có ý sợ cường quyền, nên vua vui lòng nhượng bộ.

Giai đoạn chiến tranh

Năm Đinh Vị (1847), Lapierre cùng Thủy quân thiếu tướng sang thay Cécille: Giáo hội gửi đơn kêu, vì một phần đông còn bị giam trong ngục. Lapierre không tôn trọng đến quyền nội trị, cũng không theo lối ngoại giao, bèn phái một chiếc thuyền đến cửa Hàn, đưa 6 giáo sĩ lên bờ, và một phong thư, tỏ mặt nhà binh, muốn dùng võ lực. Thấy cách cử chỉ của mấy người khách lạ, quan tỉnh Quảng Nam phát mã thượng ra tâu. Vua sai Lý Văn Phúc (Tham tri bộ Lễ) lập tức vào Hàn, hội đồng với Nguyễn Đình Tân (Thủ hiến) và Nguyễn Đức Chung (Lãnh binh), mời đến điều đình. Theo ngày giờ của Hội đồng đã định, Trưởng phái đoàn đi với 4 thủy binh đến tại công đường, trao phong thư đã dịch sẵn ra tiếng Việt Nam cho thông ngôn đọc. Câu đầu là bắt triều đình cho tự do truyền giáo, câu sau là viện theo lệ bên Tàu, Vua Đạo Quang đã hạ chiếu cho dân gian được lập nhà thờ và được rước giáo đồ sang giảng Thiên Chúa giáo.Nghe những lời trái với thể lệ hiện hành, các quan Hội đồng không dám nhận thư, cũng không biết đáp lại thế nào, chỉ lắc đầu và lấy tay khoát. Trưởng phái đoàn tỏ ý giận, nói lớn tiếng, múa cả hai tay. Thông ngôn chưa kịp dịch hết lời thì khách đã ra đi, không chào địa chủ. Lý Văn Phúc nói: “Trên Vua muốn chúng ta điều đình cho ổn thỏa theo lối ngoại giao; mà chúng ta đã chẳng biết điều đình lại đem về một bức thư này thì nhuốc mạng lệnh nhà Vua, tránh thế nào cũng không khỏi tội. Song thà chịu tội, chẳng thà gian dối với Vua”. Cả Hội đồng mới dịch ra chữ nho, đem thư về phục mạng.

Sau khi ngự lãm, Vua nổi trận lôi đình, giao cho đình thần nghị tội. Muốn giải quyết vấn đề tôn giáo, Vua hỏi ý các quan; song có ai dám tâu cho truyền đạo Gia-tô, đều nhìn nhau rồi lựa lời thù phụng: “Hoàng đế đã thi ân nhượng bộ, mà người Pháp thị cường. Chúng thần nghĩ nên phòng bị cửa Hàn và kiềm chế giáo đồ, để cho dân an nước trị”. Thuyền Pháp đậu chờ hơn nửa tháng chẳng thấy trả lời; lại thấy ngoài vịnh Trà Sơn có 5 chiếc tàu đồng đương dàn trận. Theo lời thám báo, Vua đã hạ chiếu bắt hết giáo sĩ người Tây, để thi hành theo chính sách của Tiên đế. Lapierre cho người nói với quan tỉnh: “Nội 24 giờ, phải rút 5 chiếc thuyền vào; bằng để quá thời kỳ, thì thủy quân sẽ bắn!” Chưa được lệnh ở Huế, các quan không dám tự tiện rút thuyền vào; huống trên mặt biển vẫn phải cầm phòng; song không thương thuyết cho rõ ràng, Thiếu tướng không hiểu lý do, ngờ là triều đình khiêu chiến, bèn ra lệnh bắn, thì thấy các đồn lũy đều bắn trả lời. Sáng ngày hôm sau, là ngày 15 tháng 4 năm 1847, Thiếu tướng cho nhổ neo ra đi, như có mật lệnh của nước Pháp, không cho quân thủy lên bờ. Còn quân Việt người bị chết, người bị thương, các đồn lũy đều bị tan vỡ.

Năm 1856, nước Pháp ủy Leheur Bille sur Are đem quốc thư sang, chẳng những xin khai thương, lại xin giảng đạo Gia-tô nữa. Vì năm 1751 – 1752 đã chém 3 cố đạo người Tây (Bonnard, Charbonier, Matheron), và một Giám mục người I-pha-nho (Diaz), lại vì đã giáng Dụ nghiêm cấm truyền đạo Gia-tô, nên Vua Tự Đức không biết đáp thế nào vấn đề ngoại giao với người Tây, không thể đem văn chương Tàu ra mà giải quyết. Chưa giải quyết được, thì phải chịu làm thinh. Cách hơn một tháng chẳng thấy trả lời, Leheur mới cho người đến nói với các quan rằng: “Người Pháp đến với quốc thư mà triều đình Việt Nam không giao thiệp, không đàm phán, có ngày sẽ phải giao thiệp bằng súng, thì khỏi phải giao thiệp bằng thư”.

Tuy tuyên ngôn như vậy, nhưng nước Pháp còn cố gắng theo phương pháp ngoại giao để tránh cho khỏi chiến tranh. Ba tháng sau mới cho Montigny, sứ thần của Pháp ở Xiêm La, đem quốc thư sang, yêu cầu ba khoản: một là được tự do truyền giáo, hai là được giao thông thương mại, ba là được đặt lãnh sự tại Phú Xuân kinh. Thư này càng khó trả lời; chỉ có làm thinh là giải pháp hay hơn hết. Song tự nhận thấy có nguy cơ ẩn phục, Vua Tự Đức mới cho Đào Trì (Chưởng vệ đạo binh Võ lâm) làm Khâm sai, vào giữ Hải Vân quan; Trần Hoàng (Chưởng vệ đạo binh Long võ) làm Thống lãnh cả các đồn, để lâm thời đối phó. Đầu năm sau (1857), Trần Hoàng gửi sớ tâu rằng: “Có một chiếc thuyền Pháp vừa đến Trà Sơn, cho người lên nói với chúng thần: triều đình không trả lời, tức là thừa nhận bức quốc thư của Pháp. Nay Napoleon đệ tam cho sang một vị quan nhất phẩm, toan về Huế để ký một bản hiệp ước theo 3 khoản nước Pháp đã xin. Chúng thần chưa biết đáp thế nào, còn chờ huấn lệnh”. Vua trách cứ quan, mới phê vào lá sớ của Trần Hoàng: “Đã có Đào Trì làm Khâm sai ở Đà Nẵng, sao không tự thương thuyết cho êm, mà lại bắt triều đình phải trực tiếp người Tây, hay là các quan đều muốn thừa nhận 3 khoản ấy?” Cách 2 ngày Đào Trì tâu lại: “Chúng thần chưa hành động thì thuyền Pháp đã chạy khỏi Trà Sơn”. Vua Tự Đức mừng, cho giải pháp “làm thinh” là đắc sách.

Sở dĩ thuyền Pháp chạy là vì được lệnh phải sang hội chiến với Anh tại Quảng Đông; đến ngày ký hòa ước tại Thiên Tân thì Pháp hoàng cho Trung tướng hải quân Rigault de Genouilly đem 13 chiếc thuyền và 3.000 quân hiệp đồng với chiến thuyền của Tây Ban Nha, đầu tháng 7 năm 1858, vào cửa Hàn không theo lối ngoại giao, bắn phá cả các đồn, sau mấy giờ giao thiệp bằng súng. Được tin ấy, Vua Tự Đức liền cho Lê Đình Lý (Hữu quân Đô thống phủ) vào làm đại tướng, đem thêm 2 ngàn quân nữa để giữ Hải Vân quan. Tại làng Cẩm Lệ, giao chiến quyết liệt hơn nửa ngày thì Lê Đình Lý bị trọng thương. Vua cho Nguyễn Tri Phương (Thượng thư bộ Binh) vào thay thế.

Rigault định lấy Đà Nẵng trước, rồi ra lấy Phú Xuân, song gặp nhiều trở lực không ngờ, mới định đem quân vào nam lấy Sài Gòn trước. Nguyễn Tri Phương lập lại các đồn lũy, kiên cố nhất là đồn Liên Trì, song chưa dám tấn công, chỉ lo phòng thủ. Lại vừa lúc Rigault tự đình chiến, thành thử, Nguyễn Tri Phương chưa xuất trận mà đã có chiến công. Tháng Giêng năm 1859, Trung tướng Rigault ủy cho Đại tá Toyon ở lại cửa Hàn, còn tự mình đem binh thuyền vào cửa Cần Thơ, bắn phá các pháo đài hai bên bờ sông Đồng Nai, rồi giao chiến 4 ngày luôn, cả đường bộ lẫn đường thủy. Tuy đã phòng bị nhưng đến ngày thứ 5, Võ Duy Ninh, Tổng đốc Gia Định, phải gửi thư cầu viện với các tỉnh lân bang. Trương Văn Uyển, Tổng đốc Vĩnh Long và Định Tường, đem viện binh đi được nửa đường thì nghe Võ Duy Ninh đã tự sát tại đồn Tây Tân sau khi thành Gia Định bị hãm. Châu bản viết bằng chữ Nôm trên bản tư trình của tàu trưởng tàu Pháp về việc xin được đến cửa Hàn ở Đà Nẵng buôn bán năm Gia Long thứ 16 (1817) Rigault thừa thắng trở ra lấy Hải Vân quan, để cho đứt lối giao thông theo bản dự trù ngày trước. Đến Đà Nẵng khai chiến thì Nguyễn Tri Phương phải chạy về Liên Trì để viện thêm binh vì nhận thấy thua đối phương cả các phương diện. Trong lúc ấy, Pháp, Anh đang chiến tranh với Trung Quốc, mà tại Thiên Tân có nhiều lợi quyền hơn. Rigault không muốn kéo dài cuộc chiến tranh trên dải đất Việt Nam, mới đưa thư về Huế để điều đình, nếu Vua Tự Đức chịu cho khai thương và cho truyền giáo. Các quan ở Huế, cũng như Nguyễn Tri Phương ở Quảng Nam, ai cũng muốn hòa, mà đối với vua, đối với dân đều sợ phần trách nhiệm, mới tâu xin trưng cầu dân ý để cho cả Nam cả Bắc có thể gửi sớ điều trần. Những bản sớ dưới này đều của các nhà mưu quốc:

Những nhà ái quốc, mưu quốc, gửi dân mấy lá sớ đều bị gác bỏ ra ngoài. Vua Tự Đức truyền cho Nguyễn Tri Phương rằng: “không nên dung giặc, để đến nỗi vua lo”. Rồi gửi ban cho Nguyễn Tri Phương một cái áo thêu hình rồng và một bài thơ, có câu: “Giải cầu nhẫn dĩ công trĩ tích”: Sao nỡ thấy chậm thành công mà tiếc ái áo ta đương mặc hay sao?” Trong thời kỳ Rigault đình chiến để chờ cuộc nghị hòa, vừa thấy kém sức khỏe trong mình phải xin về Pháp nghỉ. Chính phủ Cộng hòa cử Thiếu tướng Page sang thế, tháng 10 năm 1859 đến cửa Hàn, cũng đồng ý với Rigault, cho người đem thư ra kinh nhắc lại mấy điều đã yêu cầu trong thư trước. Sự nhẫn nại của nhà binh có giới hạn, Page lại phải tấn công. Nguyễn Tri Phương chạy sớ về tâu: “Quân chỉ còn 3 ngàn, Hải Vân quan sợ không giữ nổi”. Trong khi đương thắng lợi thì Page được lệnh ở Pháp, bắt phải đem binh thuyền sang Thái Bình Dương để hội chiến với Charner; vì Pháp, Anh đang khai chiến tại Thiên Tân nên Thiếu tướng bỏ cửa Hàn sau khi đã đốt hết các đồn lũy.

Đầu năm Canh Thân (1860), thấy thuyền Pháp đã chạy xa hải cảng, Vua giáng dụ cho Nguyễn Tri Phương vào làm Đại sứ Nam kỳ, cho cả Phạm Thế Hiển đi theo, để khôi phục Sài Gòn, thừa cơ hội Pháp chưa có thì giờ trở lại. Nhưng sau ngày Vua Hàm Phong ký hòa ước thì Trung tướng Charner trở lại Đông Dương, đạn rưới như mưa, Nguyễn Tri Phương bị trọng thương, em là Nguyễn Duy tử trận, Phạm Thế Hiển cũng bỏ mạng trên chiến địa. Quốc dân đã phải để tang cho thành Gia Định, tuy tướng sĩ chưa chịu đầu hàng.

Trong thời kỳ băng bó, Nguyễn Tri Phương nằm tại Biên Hòa, thì Trung tướng Bourdair đi đường sông, Thiếu tướng Page đi đường núi, hai đạo binh đánh hai mặt, Mỹ Tho và Tây Ninh; lại còn đưa thư đến Cao Mên, điều đình với vua rằng: “Sở dĩ quân Pháp đánh lấy Gia Định và Định Tường là có ý muốn mở đường để cùng nhau thân thiện. Từ ngày nay Đại Pháp là nước bạn, sẽ bảo đảm hoàn toàn quyền lợi cho nước Cao Mên…”. Chỉ một lá thư không tốn một viên đạn đủ làm cho vua Cao Mên khuất phục nhờ toàn phương pháp ngoại giao. Cuối năm Tân Dậu (1861), Trung tướng Charner xin về nghỉ, Chính phủ Pháp cho Hải quân Thiếu tướng Bonnard sang thay; thừa thắng, đánh lấy luôn tỉnh Biên Hòa và tỉnh Vĩnh Long, làm cho cả triều đình khiếp sợ.

Vua Tự Đức nhận thấy Nguyễn Bá Nghi làm Khâm sai Đại thần điều đình không nổi, mới cho Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào nghị hòa với Pháp để chấm dứt chiến tranh. Khi bệ từ, Vua Tự Đức ban một chén ngự tửu để tiễn hành và dặn mấy lời tâm huyết: “Nước đương lâm vào hồi nguy cấp, phải nhờ những nhà lão luyện, đem hết tài năng giữ cho được biên cương, công ấy cao hơn Lãng Tương Như đã đem ngọc Biên Hòa về cho nước Triệu!” Thuyền Forbin vừa cập Bến Nghé, hai vị lão thần nhận thấy Đông tam tỉnh như vật đã ở tay người; nếu mình chẳng xin đình chiến ngay bây giờ thì chỉ làm cho nhân dân đổ máu nữa, bèn cùng nhau lau nước mắt, áp ký vào bản hòa ước. Thiếu tướng Bonnard đã dự thảo sẵn sàng; sau khi đã hết sức điều đình, mới còn lại 12 khoản (Hòa ước Nhâm Tuất 1862).

Hoa Kỳ

Sự bành trướng của Châu Âu ở Đông Nam Á khiến Gia Long e ngại, nhất là sau khi nước Anh chiếm được Singapore. Nhà vua thấy rằng cần phải giao hảo với người Tây phương nhưng không thể biệt đãi một quốc gia đặc biệt nào. Trong mấy mươi năm, Vua Gia Long vẫn có trực tiếp người Pháp, song chỉ theo phương diện xã giao; còn người Mỹ cũng như người Anh, thì Vua Gia Long mới giao thiệp gián tiếp. Tại Gia Định từ mấy đời trước, người ngoại quốc vẫn đã lai vãng thông thương; có chức Tổng trấn coi thuế hải quan, kiêm việc ngoại giao, Vua Gia Long có cho đặt ở ngoài thành Sài Gòn một sở Nghinh tân quán.

Năm 1819, hai chiếc thuyền FranklinMarmion đến Sài Gòn. Người chủ thuyền là John White, một thương gia Hoa Kỳ tới Gia Định, sau những ngày tiếp xúc với quan lại và nhân dân, có biên bản “Đông Hải hành trình”. Tuy ngòi bút của một nhà buôn, song tác giả có ý biên tất cả phong tục, tính tình ở Đông Dương, để cống hiến cho nước nhà những điều tự mình đã quan sát. Trong bản nhật ký ấy, có mấy đoạn này. John White đã đến dinh Tổng trấn, xin giảm thuế hải quân (theo số thước tấc đã đo thì chiếc Franklin phải nạp 2.929 quan, còn chiếc Marmion chở nặng hơn, chưa nói đến các thứ hàng đánh theo phẩm). Tổng trấn cho người về Kinh, đệ sớ tâu về quan thuế, John xin gửi phụ một lá thư riêng, và gửi dâng lên vua một thanh gươm, cán ngà khảm ngũ kim. Vua Gia Long truyền viết thư cảm tạ nhưng vì bệnh vua càng ngày càng trầm trọng, nên vấn đề quan thuế, chưa có thể giải quyết, cũng chưa có thể cải lương.

Năm Nhâm Thìn (1832), chiếc thuyền Mỹ vào vùng Lấm tỉnh Phú Yên, có sứ thần, có quốc thư, để xin thông thương giao hảo. Tin ấy đến Huế, triều đình chưa biết nên đối đãi thế nào, mới tâu lên Vua, xin cho Nguyễn Tri Phương và Lý Văn Phúc, hai thuộc viên bộ Hộ, đi vào hội đồng với các quan địa phương, dò xét tính tình người Hoa Kỳ. Sau cuộc điều tra cẩn thận, Hội đồng tư trình về Cơ mật rằng: “Trên thuyền Mỹ có người tên Nghĩa Đức Môn (Edmund Roberts) và tên Đức Giai (Georges Thompson), vâng mạng lệnh Quốc trưởng nước Hoa Kỳ đem thư sang, yêu cầu được lập thương ước. Hai người ấy cử chỉ nhã nhặn, có vẻ văn minh; duy bản quốc thư chúng tôi đã dịch ra chữ nho, đính theo đây, thì có nhiều câu không hiệp thể tấu đối”. Bức quốc thư của nước Mỹ (bản dịch chữ nho):

“An-đô Tổng thống nước Mỹ, kính gửi sang Bạn Chí quý Chí tôn.

Tôi giao bức thư này cho ông Nghĩa Đức Môn, là một công dân xứng đáng của Hiệp chúng quốc, và là Đặc sứ của Mỹ Lợi Kiên.

Tôi mong Bạn Chí quý Chí tôn, lấy lòng nhân đức, và đặt tín nhiệm vào người thay mặt cho tôi, khi người này cam đoan tấm lòng thành thực của tôi đối với Bạn Chí tôn Chí quý.

Vì muốn bảo đảm cả các phương diện, cho nên tôi có đóng ấn Hiệp chúng quốc vào bức thư này.

Viết tại thành Hoa Thịnh Đốn, ngày 21/1/1832, tức là năm thứ 56 kể từ ngày nước Mỹ ly Anh độc lập.

Thừa lệnh của vị Tổng thống, Quốc vụ khanh: Lê Vinh Tôn ký thế và áp quốc ấn”.

Viện Cơ mật tra cứu lại 13 năm trước, John White đã đến Sài Gòn, có gửi về dâng lên Tiên Hoàng một vật báu của Mỹ. Nay Nghĩa Đức Môn đến, bất ngoại là tìm lối giao thông, để lập thương ước riêng; bèn phúc lại cho Hội đồng biết rằng: “Hoàng đế chuẩn cho Nguyễn Tri Phương, Lý Văn Phúc quyền lãnh chức Thương bạc để giao thiệp với Đặc sứ Mỹ, thay mặt cho Chính phủ Đại Nam. Nếu nước Mỹ muốn thông thương thì cứ theo thể lệ hiện hành, và thuyền phải vào vịnh Trà Sơn (cửa Hàn) để cho tiện bề kiểm soát”. Sau khi được lệnh, thì thuyền Mỹ nhổ neo đi. Cách 3 năm, nhà cầm quyền Mỹ ký thương ước với Pháp, với Anh và Hà Lan; còn phái giao dịch hàng hóa với Á Đông, mới phái sang một sứ đoàn, cũng đặt Nghĩa Đức Môn làm Đoàn trưởng.

Năm Bính Thân (1836), thuyền Mỹ đến Xiêm, được trên vua hoan nghinh, ký liền một bản thương ước. Ngày 20 tháng 4 năm ấy, Nghĩa Đức Môn đến vịnh Trà Sơn, tuân theo huấn lệnh năm xưa, kỳ này, xứ đoàn mong cho được thành công hơn kỳ trước. Minh Mạng hỏi Thị lang Hoàng Quýnh: “Nên tiếp sứ đoàn Mỹ cách thế nào?”. Hoàng Quýnh mới tâu: “Theo với bức thư năm trước, thì người Mỹ quỷ quyệt lắm. Đời nhà Hán không muốn cho Hung Nô phía bắc vào, đã phải đóng chặt Ngọc Môn quan. Ngoài chính sách này, chúng thần trộm tưởng không có phương pháp gì hơn.” Vua đổi chính sách ban lại với Hoàng Quýnh rằng: “Kỳ này, nếu ta còn cự tuyệt, thì người Mỹ sẽ cho dân tộc ta hèn nhát, sợ bạn phương xa. Vậy ta cho Đào Trí Phú và Lê Bá Thận lãnh chức Ngoại giao, vào cửa Hàn rước sứ đoàn của Mỹ.” Các quan vâng lệnh vào Đà Nẵng, chẳng may Đoàn trưởng vi hòa. Đào Trí Phú cho người đến hỏi thăm, bệnh nhân cũng cho người đi đáp tạ; song vì mỗi ngày mỗi thêm trầm trọng, cho nên thuyền Mỹ vội trở về.

Năm Canh Tuất (1850), thuyền Hoa Kỳ đến Đà Nẵng; xin giao hảo thông thương; song vua Tự Đức không cho, vì bất đồng văn hóa.

Với phương Tây

Văn bản trình thư của Vua Anh gửi cho Hoàng đế Gia Long (1817)Cũng theo đường lối của hai triều Minh Mạng và Thiệu Trị, vua Tự Đức khước từ mọi việc giao thiệp với các nước ngoài, dầu việc giao thiệp chỉ nhằm phục vụ thương mại. Năm 1850 có tàu của nước Mỹ vào cửa Hàn có quốc thư xin thông thương nhưng không được tiếp nhận.

Từ năm 1855 các nước Anh, Pháp, Tây Ban Nha nhiều lần có tàu vào cửa Hàn, cửa Thị Nại và Quảng Yên xin thông thương cũng không được. Sau khi Gia Định bị người Pháp chiếm, việc ngoại giao giữa triều đình với các nước phương Tây khó khăn, Tự Đức mới thay đổi chính sách, đặt ra Bình Chuẩn Ty để lo buôn bán và Thượng Bạc Viện để giao dịch với người nước ngoài nhưng không có kết quả vì những người được ủy thác vào các việc này không được học gì về ngoại giao.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ngoại giao Việt Nam thời Trần** phản ánh quan hệ ngoại giao của Việt Nam dưới triều đại nhà Trần từ năm 1226 đến năm 1400 trong lịch sử Việt Nam. ## Bối cảnh Năm
phải|Bản đồ ấn hành năm 1829 ở Pháp vẽ biên cương nước Việt Nam bao gồm cả Cao Miên và Lào **Ngoại giao Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh những hoạt động ngoại giao giữa
**Ngoại giao Việt Nam thời Đinh** phản ánh các hoạt động ngoại giao của chính quyền nhà Đinh từ năm 968 đến năm 979 trong lịch sử Việt Nam. ## Hoàn cảnh Năm 968, Đinh
Phần lãnh thổ nhà Mạc và [[nhà Lê trung hưng quản lý vào năm 1590]] **Ngoại giao Việt Nam thời Mạc** phản ánh những hoạt động ngoại giao dưới triều đại nhà Mạc ở Đại
**Ngoại giao Việt Nam thời Lê sơ** phản ánh quan hệ ngoại giao của chính quyền nhà Lê sơ với các nước lân bang trong giai đoạn từ năm 1428 đến năm 1527 trong lịch
**Ngoại giao Việt Nam thời Tự chủ** phản ánh các hoạt động ngoại giao giữa các Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân thời kỳ tự chủ Việt Nam (đầu thế kỷ 10 sau hơn 1000
**Ngoại giao Việt Nam thời Ngô** phản ánh hoạt động ngoại giao giữa nhà Ngô với các vương triều phương Bắc. ## Hoàn cảnh Năm 937, nha tướng Kiều Công Tiễn giết chết Tiết độ
**Ngoại giao Việt Nam thời Hồng Bàng** phản ánh quan hệ đối ngoại của các vua trị vì Việt Nam thời Hồng Bàng với các vương triều Trung Quốc, chư hầu đương thời. Do thời
**Ngoại giao Việt Nam thời Tiền Lê** phản ánh các hoạt động ngoại giao của chính quyền nhà Tiền Lê từ năm 980 đến năm 1009 trong lịch sử Việt Nam. ## Hoàn cảnh Năm
Nước Đại Việt dưới **triều đại Tây Sơn**, có **quan hệ ngoại giao** với các nước Xiêm La và Trung Quốc ở triều Mãn Thanh. Nguyễn Huệ - tức Hoàng Đế Quang Trung - là
**Bộ Ngoại giao Việt Nam** là cơ quan của Chính phủ Việt Nam thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đối ngoại, gồm: Công tác ngoại giao, biên giới, lãnh thổ quốc gia,
**Hành chính Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh bộ máy cai trị từ trung ương tới địa phương của chính quyền nhà Nguyễn trong thời kỳ độc lập (1802-1884). Bộ máy cai trị của nhà
**Thương mại Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh hoạt động ngoại thương và nội thương của Việt Nam dưới triều nhà Nguyễn thời kỳ độc lập, từ năm 1802 đến 1884. ## Điều kiện phát
**Học viện Ngoại giao** (tiếng Anh là: Diplomatic Academy of Vietnam - DAV, tiền thân là: Trường Ngoại giao) là đơn vị sự nghiệp hệ công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân trực
**Tôn giáo Việt Nam thời Bắc thuộc** phản ánh sự du nhập, phát triền và hòa trộn giữa các tôn giáo và tín ngưỡng truyền thống với ngoại lai trên vùng lãnh thổ Việt Nam
**Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam,** thường được gọi tắt là** Bộ trưởng Bộ Ngoại giao** hoặc **Ngoại trưởng** là người đứng đầu Bộ Ngoại giao. Đồng
**Hành chính Việt Nam thời Pháp thuộc** là hệ thống hành chính từ trung ương tới địa phương của người Pháp tại Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ từ năm 1884 đến năm 1945.
**Đối tác chiến lược, đối tác toàn diện** là cụm từ chỉ quan hệ ngoại giao giữa hai nước với nhau. Quan hệ từ đối tác song phương, đối tác khu vực tới đối tác
**Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất** (viết tắt là **GHPGVNTN**), thành lập vào tháng 1 năm 1964, là một trong những tổ chức Phật giáo tại Việt Nam, từng được nhà nước Việt
**Lịch sử của Giáo hội Công giáo Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1990** có nhiều điểm đặc thù riêng. Đây là giai đoạn 15 năm thứ hai kể từ khi thiết lập hàng
thumb|Bộ Ngoại giao tại Hà Nội Việt Nam hiện nay, dưới chính thể **Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam** đến nay đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 trong 200 quốc
Hiện vẫn chưa định được chính xác thời điểm đạo Phật bắt đầu truyền vào Việt Nam và **Phật giáo Việt Nam** đã thành hình như thế nào. Một nghiên cứu cho rằng đạo Phật
**Lịch sử Công giáo Việt Nam (1990–2005)** là một giai đoạn lịch sử kéo dài 15 năm, tiếp sau giai đoạn 15 năm khó khăn trước đó của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam,
nhỏ|Trụ sở Giáo hội Phật giáo Việt Nam tại chùa Quán Sứ, Hà Nội **Giáo hội Phật giáo Việt Nam** là tổ chức Phật giáo toàn quốc của Việt Nam, là đại diện Tăng, Ni,
**Nguyễn Quốc Dũng** là một chính khách, nhà ngoại giao chuyên nghiệp Việt Nam. Ông nguyên là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Trưởng SOM ASEAN Việt Nam, Tổng Thư ký Ủy ban Quốc gia về
nhỏ|phải|Tượng Phật ở [[chùa Long Sơn (Nha Trang)|chùa Long Sơn Nha Trang, dựng năm 1963. Pho tượng này có đặc điểm là khuôn mặt của Đức Phật được tạc theo nét mặt người Việt]] **Phật
**Văn học Việt Nam thời Tiền Lê** được nhiều nhà nghiên cứu xem là giai đoạn sơ khởi của nền văn học viết Việt Nam (để phân biệt với văn học dân gian, văn học
**Hành chính Việt Nam thời Tây Sơn** ánh bộ máy cai trị từ trung ương tới địa phương của nhà Tây Sơn từ năm 1778 đến năm 1802, không chỉ giới hạn trong phạm vi
**Bắc thuộc** là danh từ chỉ thời kỳ Việt Nam bị đặt dưới quyền cai trị của các triều đại Trung Quốc, được coi như một đơn vị hành chính của Trung Quốc, tùy theo
nhỏ|341x341px|Huy hiệu phủ Thủ tướng Singapore **Thủ tướng Singapore thăm Việt Nam** là các chuyến thăm của các Thủ tướng Singapore đến Việt Nam vào những thời điểm khác nhau và những chuyến đi đó
**Đạo giáo Việt Nam** là Đạo Giáo đã được bản địa hóa khi du nhập từ Trung Quốc vào Việt Nam. Đạo giáo Việt Nam là một trong ba tôn giáo phổ biến nhất ở
**Nguyễn Văn Thành** (Sinh ngày 30 tháng 11 năm 1950 – Mất ngày 17 tháng 7 năm 2023) là một nhà ngoại giao Việt Nam. Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Ukraina
**Cục Lãnh sự** là cơ quan trực thuộc Bộ Ngoại giao, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Ngoại giao thực hiện chức năng quản lý nhà nước chuyên ngành về công
**Tôn giáo Việt Nam thế kỷ 10** phản ánh sự phát triển và ảnh hưởng của các tôn giáo tại Việt Nam trong khoảng 100 năm từ sau nghìn năm Bắc thuộc, tức là thời
**Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam** là một tổ chức xã hội tại Việt Nam, là một tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tuy thành viên của Ủy
Lá cờ của tổng thống Cộng hòa Séc **Tổng thống Cộng hòa Séc thăm Việt Nam** là các chuyến thăm của các Tổng thống Cộng hòa Séc đến Việt Nam vào những thời điểm khác
**Hành chính Việt Nam thời Hồ** trong lịch sử Việt Nam phản ánh hệ thống chính quyền từ trung ương đến địa phương nước Đại Ngu từ năm 1400 đến năm 1407. Từ khi thái
**Đệ Nhất Cộng hòa** (1955–1963), còn được gọi là **Chính quyền Ngô Đình Diệm**, là chính thể của Việt Nam Cộng hòa được thành lập sau cuộc Trưng cầu dân ý năm 1955 ở miền
**Nguyễn Cơ Thạch** (tên khai sinh là **Phạm Văn Cương**, 15 tháng 5 năm 1921 – 10 tháng 4 năm 1998) là một chính trị gia, nhà ngoại giao Việt Nam. Ông nguyên là Ủy
thế=Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng năm 2022.|nhỏ|[[Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam|Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng năm 2022.]] **Ngoại giao cây
**Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài** (tiếng Anh: _State Committee for Overseas Vietnamese_, viết tắt là **SCOV**) là cơ quan cấp tổng cục trực thuộc Bộ Ngoại giao, giúp Bộ
**Nguyễn Dy Niên** (sinh ngày 9 tháng 12 năm 1935) là một chính khách Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Ủy viên Hội đồng Quốc phòng và
**Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Mạc** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Mạc ở Việt Nam với nhà Minh của Trung Quốc xung quanh vấn đề biên giới
Một lớp học chữ Nho **Nho giáo** được xem là hệ tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài đến xã hội Việt Nam, là nền tảng đạo đức giáo dục con người,
**Nhà Quốc hội** hay **Tòa nhà Quốc hội Việt Nam**, còn có tên gọi khác là **Hội trường Ba Đình mới**, là trụ sở làm việc và nơi diễn ra các phiên họp toàn thể
**Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam** (tên giao dịch quốc tế: _Joint Stock Commercial Bank for Foreign Trade of Vietnam_) tên viết tắt: "**Vietcombank**", là ngân hàng lớn nhất trên thị trường chứng khoán
**Lịch sử Thánh nhạc Công giáo Việt Nam** nói về quá trình hình thành và phát triển của dòng nhạc Thánh ca Công giáo tại Việt Nam. ## Lịch sử Khi nói đến bài thánh
**Thời kỳ Bắc thuộc lần 4** của Việt Nam kéo dài 20 năm, bắt đầu từ năm 1407 khi nhà Minh đánh bại nhà Hồ và chấm dứt năm 1427 khi Lê Lợi đánh đuổi
**Kinh tế Việt Nam thời Nam Bắc triều** phản ánh những vấn đề liên quan tới hoạt động kinh tế trong thời Nam Bắc triều (1527-1592) trên lãnh thổ nước Đại Việt đương thời. Thời
**Văn học thời Tây Sơn** là một giai đoạn của văn học Việt Nam vào cuối thế kỷ 18, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời Tây Sơn