✨Danh sách người đứng đầu lãnh thổ Việt Nam thời Bắc thuộc

Danh sách người đứng đầu lãnh thổ Việt Nam thời Bắc thuộc

Bắc thuộc là danh từ chỉ thời kỳ Việt Nam bị đặt dưới quyền cai trị của các triều đại Trung Quốc, được coi như một đơn vị hành chính của Trung Quốc, tùy theo thời kỳ lịch sử, có thể là Châu, Quận, Đô Hộ Phủ hay Phiên Trấn.

Chính quyền trung ương Trung Quốc cắt cử quan lại sang để cai trị, cũng lại theo cách gọi và phân chia khu vực của từng triều đại mà viên quan đó có thể là: Châu thái thú, Thứ sử, Châu mục, Thái thú, Kinh lược sứ hoặc Tiết độ sứ...

Dưới đây là bảng thống kê được tổng hợp từ các bộ chính sử của Việt Nam và Trung Quốc, ngoài những viên quan lại trực tiếp hoặc gián tiếp cầm quyền, những vị tướng lĩnh từng tham chiến trong công cuộc bình định phương Nam của các thiên triều Trung Hoa. Danh sách này còn bổ sung thêm một số: Trưởng sử, Thuộc lại, Bộ tướng, Công tào, huyện lệnh...cấp quận có ảnh hưởng đến cục diện chính trị trong châu và sứ giả, khâm sai được triều đình phái sang công cán hay ban bố chiếu chỉ.

Thời Nam Việt - Lưỡng Hán (208 TCN - 220)

nhỏ|trái|Bản đồ Giao Chỉ bộ thời Lưỡng Hán Năm 111 TCN, Hán Vũ Đế tiêu diệt Nam Việt, chia lãnh thổ nước này làm 6 quận. Năm 106 TCN, lập thêm 3 quận mới, gộp chung vào gọi là bộ Giao Chỉ (cuối thời Đông Hán đổi thành Giao Châu). Chín quận đó bao gồm: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Đam Nhĩ, Châu Nhai (Đam Nhĩ và Châu Nhai nay thuộc đảo Hải Nam), Nam Hải, Hợp Phố, Uất Lâm, Thương Ngô (nay thuộc Quảng Tây và Quảng Đông).

Chế độ nhà Hán lấy châu lãnh quận, mỗi quận có một vị Thái thú để trông coi, lại đặt ra chức Châu thái thú nhằm quản lý những Thái thú đó, đến đời Hán Tuyên Đế đổi gọi là Thứ sử. Sang thời Hán Nguyên Đế, triều đình cho rằng chức vụ này ở dưới hàng đại phu mà lại trông coi việc các quan ăn lương tới hai nghìn thạch nên không phù hợp, vì thế mới thay đổi thành chức Châu mục. Chức này vào bậc lương hai nghìn thạch, địa vị liền dưới hàng cửu khanh. Bấy giờ, nhà Hán đã bỏ 2 quận ngoài đảo Hải Nam do ở ngoài biển xa xôi khó quản lý, bộ Giao Chỉ còn 7 quận. Đời Hán Ai Đế, bỏ chức Châu mục đổi lại là Thứ sử. Đời Hán Bình Đế lại đổi thành Châu mục. Năm 8, Vương Mãng lập ra nhà Tân, tuy nhiên triều đại này tồn tại ngắn ngủi nên không có gì đáng kể, các quan lại ở Giao Chỉ bộ vẫn trung thành với nhà Hán. Đời Hán Quang Vũ Đế lại đặt Thứ sử, mỗi Thứ sử đứng đầu coi giữ một châu, một châu trong đó thuộc về quan binh là Tư lệ hiệu úy. Tại các huyện, chế độ Lạc tướng cha truyền con nối của người Việt bị bãi bỏ, không còn được duy trì như trước. Thay vào đó, nhà Đông Hán đặt các Huyện lệnh để tăng cường cai trị các huyện. Đến đời Hán Linh Đế, vì uy quyền của Thứ sử quá nhẹ mà giặc giã nổi lên, do vậy nên đổi làm Mục bá, chọn các quan thượng thư vào hàng khanh bổ đi làm Châu mục. Không bao lâu, Hán Hiến Đế bỏ Giao Châu để thuộc về Kinh Châu, nhưng Châu mục là Lưu Biểu lại tự đặt ra chức Thứ sử. Như thế thì các chức quan cai trị có khi gọi là Thứ sử, có khi gọi là Châu mục, dẫu trước sau hoặc theo cũ hoặc thay đổi, tên gọi khác nhau, nhưng cũng vẫn là một chức quan đứng đầu coi các hàng châu quận. Khi nhà Hán đặt bộ Giao Chỉ, lỵ sở của Thứ sử đặt ở Liên Thụ (tức Luy Lâu), năm 106 TCN dời trị sở sang huyện Quảng Tín ở quận Thương Ngô. Đến năm 210, đóng lỵ sở ở huyện Phiên Ngung. Các quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam tương đương với địa bàn Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ và 1 phần duyên hải Nam Trung Bộ trên lãnh thổ hiện tại của Việt Nam. Thời Tây Hán, trị sở của Thái thú Giao Chỉ đặt tại Long Uyên (tức là Long Biên) và thời Đông Hán đặt tại Mê Linh (tức là Yên Lăng). Quận trị Cửu Chân đặt tại Tư Phố (nay thuộc Thanh Hóa), quận trị Nhật Nam đặt tại Tây Quyển.

Danh sách người đứng đầu thời Bắc thuộc thứ nhất

Danh sách người đứng đầu thời Bắc thuộc lần hai

Thời Tam Quốc - Lưỡng Tấn (220 - 420)

phải|[[Giao Châu (màu xanh) và Quảng Châu (màu vàng) thời Đông Ngô]] liên_kết=https://zh.wikipedia.org/wiki/File:%E4%B8%89%E5%9C%8B266.jpg|nhỏ|290x290px|[[chiến dịch Giao-Quảng (263 - 271)]] Cuối thế kỉ thứ II, nhà Đông Hán sụp đổ, quần hùng nổi dậy, bấy giờ Giao Châu trực thuộc Kinh Châu. Lúc ấyấy, huyện Tượng Lâm của quận Nhật Nam đã tách ra để thành lập nước Lâm Ấp. Năm 207, Tào Tháo can thiệp vào Giao Châu, phong Thái thú Giao Chỉ là Sĩ Nhiếp làm Tổng đốc cả bảy quận. Sau trận Xích Bích, Lưu Bị có giai đoạn khống chế được Kinh Châu nên cũng cử quan lại sang coi sóc Giao Châu. Đến năm 210, Tôn Quyền đặt chức Thứ sử Giao Châu, chiếm giữ địa bàn trọng yếu này. Năm 221, Lưu Bị nối tiếp chính thống nhà Hán, mà Tôn Quyền lúc đó vẫn chỉ là lãnh chúa, tước Ngô hầu nên không công nhận Giao Châu thuộc Ngô và vẫn đặt chức Thứ sử trên danh nghĩa. Sĩ Nhiếp thuần phục các Thứ sử do Đông Ngô điều sang, đồng thời cũng khéo ngoại giao với nhà Thục Hán để giữ thế cân bằng. Bấy giờ Lai Hàng (thời Thục Hán gọi là Nam Trung) chưa có cơ sở hành chính (đến đầu đời Tấn, đất ấy mới được đặt là Ninh Châu), Lưu Bị đặt chức đô đốc để coi sóc mọi việc, đó cũng là trị sở của Thứ sử Giao Châu nhà Thục Hán. Sau khi Sĩ Nhiếp chết, Đông Ngô chia Giao Châu ra làm 2 châu: Quảng Châu gồm các quận: Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô (trị sở tại Phiên Ngung, nay là thành phố Quảng Châu) và Giao Châu (mới) gồm các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố (trị sở tại Long Biên). Khi dẹp tan loạn Sĩ Huy, Đông Ngô lại hợp nhất Quảng Châu với Giao Châu như cũ. Năm 229, do sách lược của thừa tướng Gia Cát Lượng "liên Ngô kháng Ngụy", nhà Thục Hán mới công nhận Giao Châu thuộc về Ngô. Năm 263, Lã Hưng làm chính biến dâng Giao Châu cho nhà Ngụy. Năm 264, Đông Ngô tái lập Quảng Châu. Năm 265, nhà Tấn thay thế nhà Ngụy, Giao Châu trở thành địa bàn tranh chấp giữa Tấn và Ngô. Năm 271, Ngô giành lại Giao Châu và lập thêm 3 quận: Tân Hưng (tách ra từ Giao Chỉ, đời Tấn đổi thành Tân Xương, nay thuộc Sơn Tây), Vũ Bình (tách ra từ Giao Chỉ, nay thuộc Hưng Yên) và Cửu Đức (tách ra từ Cửu Chân, nay thuộc Hà Tĩnh). Việc quân sự ở Giao châu thường giao cho Thứ sử Quảng châu kiêm giữ; còn các chức quận huyện quan thì do Thứ sử Giao Châu tự ý bổ nhiệm. Thời Lương Vũ Đế cải cách hành chính trong nước, chia đất đặt thêm nhiều châu nhỏ, trong đó tại Giao châu chia quận Giao Chỉ đặt ra Hoàng châu và quận Ninh Hải; lấy quận Cửu Chân lập ra Ái châu; lấy quận Nhật Nam đặt ra Đức châu, Lợi châu và Minh châu. *Nguyễn Di Chi* (431-432) Nguyễn Di Chi làm Thứ sử Giao Châu, năm 431 vua Lâm Ấp là Phạm Dương Mại trực tiếp dẫn quân kéo vào quận Cửu Chân, Di Chi hưng binh công phá. Hoà Chi phụng mệnh vua Tống dẹp loạn, ông sai Hộ tào tham quân của phủ là bọn Khương Trọng Cơ đi trước đến gặp Dương Mại, bị Dương Mại bắt giữ. Hòa Chi giận, tiến vây tướng của Lâm Ấp là Phạm Phù Long ở thành Khu Túc. Dương Mại sai tướng là Phạm Côn Sa Đạt đến cứu. Hoà Chi cử Tông Xác lén đem quân đón đánh Sa Đạt, phá tan được. Sau đó, Hòa Chi hạ thành Khu Túc, chém Phù Long, thừa thắng tiến vào Tượng Phố. Đàn Hòa Chi nhờ công này được nhận chức Hoàng môn thị lang, lãnh Việt kị hiệu úy, Hành Kiến vũ tướng quân. Khương Trọng Cơ Khương Trọng Cơ là tham quân trong phủ Thứ sử Giao Châu, được Đàn Hoà Chi cử sang Lâm Ấp hoà đàm, bị người Lâm Ấp bắt giữ, không rõ kết cục thế nào Quân Lâm Ấp thua to, Phạm Dương Mại chạy thoát, thu được đồ châu báu lạ không biết bao nhiêu mà kể. Riêng Tông Xác không lấy một thứ gì, ngày về nhà cũng chỉ có khăn áo xác xơ. Phạm Phù Long Phạm Phù Long (Tấn thư chép là Phạm Phù Long Đại, Việt sử lược chép là Phạm Phục Long) là võ tướng của Lâm Ấp, bị vây hãm ở thành Khu Túc nên phải cầu viện binh. Tông Phụng Bá (468) Tông Phụng Bá được Tống đế phong làm Thứ sử Giao Châu bởi Ngô Hỷ từ chối chức vụ này, tuy nhiên Phụng Bá cũng không dám sang bởi lúc đó ở Giao Châu có Lý Trường Nhân đang chống giữ. Lưu Bột (468) Lưu Bột là ông nội của Lưu Kỳ, vốn giữ chức Nam Khang tướng, do Ngô Hỷ và Tông Phụng Bá đều không nhận chức, nhà Tống phái Bột sang thay Lưu Mục làm Thứ sử Giao Châu. Năm 485, Tề Vũ Đế sai Đại tư nông Lưu Khải làm Thứ sử Giao Châu, Thúc Hiến không chống nổi phải sang đầu hàng. Hoàn Thâm** Hoàn Thâm là con trai của Thứ sử Hoàn Hoằng, giữ chức Võ giám, người nho nhã có học thức, được Lưu Khải đề bạt bèn khiến đi theo sang Giao Châu, Thâm đi chưa đến nơi đã chết. Quan lục sự Phòng Tú Văn đem việc đó nói với Pháp Thừa, do đó Đăng Chi bị bắt giam 10 ngày. Đăng Chi buộc phải đút lót người nhà Thứ sử, nên mới được tha. Giữ chức Thứ sử Giao Châu, vì hà khắc tàn bạo, mất lòng người nên bị quan Giám quân ở quận Cửu Đức là Lý Bí nổi dậy đánh đuổi, bỏ chạy về Quang Châu *Tinh Thiều

Tinh Thiều người Giao Châu, từng đến kinh đô nhà Lương xin được chọn làm quan. Thượng thư bộ Lại nhà Lương là Sái Tôn cho rằng họ Tinh trước không có ai hiển đạt, nên chỉ bổ cho chức Quảng Dương môn lang. Thiều lấy làm nhục, trở về làng rồi theo Lý Bí dấy binh tạo phản, trở thành khai quốc công thần, không rõ kết cục thế nào Năm 550, vua Giản Văn Đế nhà Lương phong Bá Tiên làm Binh uy tướng quân kiêm Thứ sử Giao Châu. Bấy giờ Triệu Quang Phục đang cầm cự với quân Lương ở đầm Dạ Trạch, Bá Tiên dùng sách lược vây hãm lâu dài mục đích khiến cho lương thảo hết tự nhiên phải đầu hàng. *Dương Sàn* (545 - 550) Dương Sàn là tỳ tướng theo Trần Bá Tiên sang chinh phạt Giao Châu, sau khi Bá Tiên về kinh dẹp loạn Hầu Cảnh, bị Triệu Quang Phục tung quân đánh đuổi. Sàn chống cự không nổi, thua trận chết trong đám loạn binh, quân Lương tan vỡ rút hết về bắc Tuy nhiên, tình hình căng thẳng giữa Vương Lâm và Tiêu Bột đột nhiên tắt ngấm vì Vương Lâm phải vội quay về triều do các biến cố quan trọng trong cung đình. Lan Khâm**

Lan Khâm tự Hưu Minh, người Ngụy - Trung Xương, vốn là Thứ sử Hàng Châu, theo lệnh Lương Vũ Đế cùng Trần Bá Tiên sang Giao Châu dẹp loạn Lý Bí. *Âu Dương Ngỗi (560 - 563)

Âu Dương Ngỗi (có sách chép là Âu Dương Nguy) tự là Tĩnh Thế, người Lâm Tương, Trường Sa, Đàm Châu. Vốn làm phụ tá cho Trần Bá Tiên theo quân viễn chinh sang Giao Châu, nhưng do Lan Khâm chết dọc đường nên Âu Dương Ngỗi được phép đem thi thể Lan Khâm về Hàng Châu. Năm 572, Nguyễn Trác mở cuộc viễn chinh xuống tận miền biên giới đã khiến Lâm Ấp và Phù Nam phải vội gửi sứ giả lên triều đình xin được giao hảo. *Thái Ngung* Không rõ chức vụ gì, do phạm tội nên bị triều đình trục xuất xuống Giao Châu, được giao cho một quan hệ với các quyền lực địa phương. Đại Hoàng** Đại Hoàng vốn là Thứ sử Ninh Châu, do lập công tháp tùng Nguyễn Trác nên được giao nhiều chức vụ quan trọng ở Giao Châu.. Năm 602, sau khi tiêu diệt nước Dã Năng của Lý Phật Tử, nhà Tùy gộp hết các huyện của quận Giao Chỉ cũ làm 2 huyện Giao Chỉ và Long Uyên, lệ thuộc vào Giao châu. Các huyện thuộc quận Giao chỉ thời thuộc Tấn ở phía bắc và phía nam sông Đuống trên tả ngạn sông Hồng ở phía hạ lưu Hà Nội, miền sông Cầu, sông Thương, sông Thái Bình. Chủ trương của nhà Tùy là thiết lập chế độ trung ương tập quyền, không phong cho tông thất và công thần, chỉ chuyên dùng quan lại cai trị. Năm 618, nhà Đường lật đổ nhà Tùy, khôi phục lại chế độ các châu nhỏ thời Nam Bắc triều. Năm 622, nhà Đường lập Giao châu đô hộ phủ, người đứng đầu cơ quan này gọi tổng quản. Năm 624, Đường Cao Tổ đổi các Phủ đô hộ thành Phủ Đô đốc. Phủ Đô hộ An Nam thành Phủ đô đốc An Nam. Năm 679, Đường Cao Tông lại đổi về tên cũ, đổi quận Giao Chỉ trở lại thành châu Giao, đặt ra Phủ Đô hộ Giao Châu. Bấy giờ, vùng Lĩnh Nam có 5 đô hộ phủ, cai quản châu Giao, châu Quảng, châu Quế, châu Dung, châu Ung, gọi chung là Lĩnh Nam ngũ quản (tức Lĩnh Nam đạo). Năm 678, nhà Đường lập ra An Nam đô hộ phủ, chức quan đứng đầu Phủ Đô hộ An Nam gọi là Kinh lược sứ, sử Trung Quốc quen gọi Giao châu là An Nam kể từ đó. Bấy giờ, An Nam được phân thành 12 châu ở vùng đồng bằng và trung du, 41 châu ki mi (châu ràng buộc lỏng lẻo) ở vùng rừng núi. Năm 757, Đường Túc Tông đổi An Nam đô hộ phủ thành Trấn Nam đô hộ phủ, chín năm sau (766) lại đổi về tên cũ. Năm 863, Nam Chiếu chiếm được An Nam đô hộ phủ, tướng Sái Tập nhà Đường tử trận, Cao Biền được điều sang phải mất 3 năm mới hoàn toàn đánh dẹp được Nam Chiếu. Vì lý do này, nhà Đường bãi bỏ Phủ Đô hộ An Nam và lập Hành Giao Châu thay thế đóng tại nơi là Quảng Tây ngày nay. Nhưng chưa đầy 1 tháng thì cho tái lập Phủ Đô hộ An Nam nằm trong Hành Giao Châu. Để khôi phục và củng cố quyền hành tại Việt Nam, Đường Ý Tông thăng An Nam đô hộ phủ làm Tĩnh Hải quân, từ đó người đứng đầu Tĩnh Hải quân được gọi là Tiết độ sứ. Tại các châu, người đứng đầu gọi là Thứ sử, dưới các huyện thì người đứng đầu là Huyện lệnh. *Dương Hưu Phố (589 - 602) Dương Hựu Phố tự là Vệ Khanh, trong thời kỳ nhà Trấn mất nước, làm chức Đô đốc Giao Châu, sau hàng nhà Tuỳ vẫn được giữ nguyên địa vị Tùy Văn Đế dùng Phương làm Hành quân tổng quản đạo Giao Châu, đem binh sang đánh dẹp Lý Phật Tử. Vua lấy làm thương tiếc bèn hạ chiếu khen ngợi, truy tặng Thượng trụ quốc - Lô quốc công, con là Lưu Thông Nhân kế tục.

  • Kính Đức Lượng Kính Đức Lượng giữ chức Độ chi thị lang, được Tuỳ Văn Đế dùng làm Trưởng sử thống lĩnh quân sĩ 27 doanh cùng Lưu Phương sang đánh Lý Phật Tử ở Giao Châu.
  • Lý Cương Lý Cương giữ chức Thượng thư hữu thừa, được Tuỳ Dạng Đế phong làm Tư mã đi kinh lược nước Lâm Ấp. Lương Đế Tiêu Tiển nghe tin bèn lệnh cho Nịnh Trường Quân xuất binh tiến công Giao Chỉ, Khâu Hòa phái trưởng sử Cao Sĩ Liêm đánh đuổi quân của Nịnh ra khỏi quận.
  • Tiêu Tiển (617-621)

Tiêu Tiển là cháu bốn đời Tuyên Đế nhà Lương, năm Đại Nghiệp thứ 13 (617) đời Dượng Đế nhà Tùy, Tiêu Tiển khởi binh tự xưng là Lương vương; đến đời Cung Đế năm Nghĩa Ninh thứ hai (618), tự xưng đế, chiếm địa vực phía đông từ Cửu Giang, phía tây đến Tam Hiệp, phía nam đến tận Giao Chỉ, phía bắc tới Hán Xuyên. Về sau, Tiêu Tiển đầu hàng nhà Đường.

  • Lý Thọ Lý Thọ là tôn thất nhà Đường, làm Đô đốc Giao Châu, vì tham lam bị tội. Tổ Thượng viện cớ bệnh hoạn để từ chối và không chịu xuống miền Nam nhậm chức mới.

  • Lý Đạo Hưng (635 - 636) Lý Đạo Hưng là tôn thất nhà Đường, được phong làm Quảng Ninh quận vương, sau vì có lỗi nên giáng xuống làm Huyện công. Năm 635, Đường Thái Tông cử Hưng xuống làm Đô đốc Giao Châu và ông này chết vì bệnh trong lúc đương làm quan khoảng một năm sau. Sau đó, Hứa Kính Tông và Lý Nghĩa Phủ vu tấu Toại Lương làm phản. Vũ Hậu giận, biếm làm Thứ sử Ái Châu, được hơn một năm thì mất. được lệnh vua Đường Huyền Tông cùng quan đô hộ An Nam là Nguyên Sở Khánh đem binh sang đánh dẹp mai Thúc Loan.

  • Quang Sở Khách (722 - 724) Quang Sở Khánh, có sách ghi là Nguyên Sở Khánh, người Giang Lăng. Vua Đường liền xá tội cho Đễ, bổ nhiệm chức Giao Châu tổng quản Trong khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-741) đem hóa phẩm đến triều kiến, hâm mộ phong hóa Trung Hoa, nhân đó lưu lại, đổi tên là Triều Hoành, nhiều lần sang sứ Trung Quốc. Năm Vĩnh Thái (765) đời vua Đường Đại Tông, Triều Hoành được cử làm An Nam đô hộ. Thời ấy có quân Mán xâm phạm cảnh giới hai châu Đức Hoá và Long Vũ, vua xuống chiếu khiến Triều Hoành qua dẹp yên. Ông cùng Lý Khắc Chính vâng lệnh Nam Hán Cao Tổ sang bình định Tĩnh hải quân, đánh bắt Khúc Thừa Mỹ về giam ở Phiên Ngung rồi trực tiếp cai trị vùng đất này. Đầu năm 931, ông và quân Nam Hán đồn trú tại địa phương bất ngờ bị quân của Dương Đình Nghệ đánh bại phải bỏ trốn về nước, sau bị vua Nam Hán bắt giết vì tội hèn nhát.

  • Trần Bảo (931)

  • Dương Đình Nghệ (931 - 937)

  • Kiều Công Tiễn (938)

*Lưu Hoằng Tháo (937 - 938)

nhỏ|phải|Tranh ghép đá mô phỏng trận Bạch Đằng 938 Vạn Vương Lưu Hoằng Tháo là hoàng tử thứ 9 của Nam Hán Cao Tổ, khi Kiều Công Tiễn bị Ngô Quyền đem quân đánh dẹp đã cầu cứu nhà Nam Hán, Nam Hán Cao Tổ lập tức cải phong Lưu Hoằng Tháo làm Giao Vương dẫn binh tiến sang Tĩnh Hải quân tiếp ứng. Tuy nhiên, con rể Dương Đình Nghệ là Ngô Quyền đã nhanh chóng diệt được họ Kiều rồi bố trí trận địa cọc trên sông Bạch Đằng mai phục sẵn, quân Nam Hán bị đánh bại hoàn toàn, Lưu Hoằng Tháo bị trúng bẫy tử trận. Ngô Quyền tự xưng vương, chính thức chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc. *Tiền Hoằng Soạn

Thời Minh (1406 - 1427)

Tướng lĩnh và quan lại người Hán

Tướng lĩnh và quan lại người Việt

Tướng lĩnh Ai Lao

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Bắc thuộc** là danh từ chỉ thời kỳ Việt Nam bị đặt dưới quyền cai trị của các triều đại Trung Quốc, được coi như một đơn vị hành chính của Trung Quốc, tùy theo
Tùy theo quan điểm của các sử gia, thời kỳ Bắc thuộc lần 1 của Việt Nam kéo dài ít nhất là 150 năm và lâu nhất là 246 năm (xem bài _Bắc thuộc lần
**Hành chính Việt Nam thời Bắc thuộc lần 2** phản ánh những biến động về địa giới hành chính của Việt Nam từ năm 43 đến năm 541, qua tay 7 triều đại phong kiến
**Tôn giáo Việt Nam thời Bắc thuộc** phản ánh sự du nhập, phát triền và hòa trộn giữa các tôn giáo và tín ngưỡng truyền thống với ngoại lai trên vùng lãnh thổ Việt Nam
**Kinh tế Việt Nam thời Bắc thuộc lần 2** có cơ cấu gồm các lĩnh vực: nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương mại. Từ đầu công nguyên, ngoài những nghề truyền thống nông nghiệp,
**Kinh tế Việt Nam thời Bắc thuộc lần thứ tư** trong lịch sử Việt Nam phản ánh hoạt động kinh tế trong 20 năm từ năm 1407 đến năm 1427, còn gọi là thời kỳ
Chính phủ hiện đại ở Việt Nam xuất hiện vào khoảng tháng 4 năm 1945 với sự thành lập của cơ quan Nội các nhà Nguyễn gồm các Bộ trưởng. Tuy nhiên, một Chính phủ
**Tiền tệ Việt Nam thời Bắc thuộc** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông thời Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam. ## Tiền tệ thời ngàn năm Bắc thuộc
**Lãnh thổ Việt Nam qua từng thời kỳ** là sự biến đổi không gian sinh tồn của người Việt. Sự biến đổi này mang tính chất phức tạp, lúc bị mất lãnh thổ về các
**Đồng hóa thời Bắc thuộc** trong lịch sử Việt Nam là quá trình kéo dài gắn liền với sự di dân từ phương Bắc, những người thuộc văn hóa Hoa Hạ xuống đất Việt phương
**Kinh tế Việt Nam thời Pháp thuộc** là một nền kinh tế thuộc địa phát triển rất nhanh dưới sự bảo hộ của Pháp. Việt Nam có tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn lương
**Bắc thuộc lần thứ hai** (chữ Nôm: 北屬吝次二, ngắn gọn: **Bắc thuộc lần 2**) trong lịch sử Việt Nam kéo dài khoảng 500 năm từ năm 43 đến năm 543, từ khi Mã Viện theo
**Hành chính Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh bộ máy cai trị từ trung ương tới địa phương của chính quyền nhà Nguyễn trong thời kỳ độc lập (1802-1884). Bộ máy cai trị của nhà
**Nông nghiệp Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh chính sách ruộng đất và kết quả hoạt động nông nghiệp của Việt Nam dưới thời nhà Nguyễn khi còn độc lập, từ năm 1802 đến 1884.
**Tin Lành** (chữ Anh: _Protestantism in Vietnam_), là một tôn giáo thuộc Cơ Đốc giáo được truyền vào Việt Nam từ đầu thế kỉ XX và hiện là một cộng đồng tôn giáo thiểu số,
**Việt Nam Quốc Dân Đảng** (**VNQDĐ**; chữ Hán: ), gọi tắt là **Việt Quốc**, là một đảng chính trị dân tộc và xã hội chủ nghĩa dân chủ chủ trương tìm kiếm độc lập khỏi
**Bắc thuộc lần thứ nhất** (chữ Nôm: 北屬吝次一, ngắn gọn: **Bắc thuộc lần 1**) trong lịch sử Việt Nam là thời kỳ đầu tiên Việt Nam nằm dưới sự cai trị của của nền phong
**Văn học Việt Nam thời Tiền Lê** được nhiều nhà nghiên cứu xem là giai đoạn sơ khởi của nền văn học viết Việt Nam (để phân biệt với văn học dân gian, văn học
Nước Đại Việt dưới **triều đại Tây Sơn**, có **quan hệ ngoại giao** với các nước Xiêm La và Trung Quốc ở triều Mãn Thanh. Nguyễn Huệ - tức Hoàng Đế Quang Trung - là
Lớp học may tại một trường thuộc địa ở Hà Nội.|nhỏ|phải **Giáo dục Việt Nam thời Pháp thuộc** là nền giáo dục trong ba xứ Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ thuộc Liên bang Đông
thumb|230x230px|Bão Yagi (bão số 3 năm 2024), cơn bão mạnh nhất đổ bộ vào Việt Nam trong 70 năm qua, gây sức gió tại Bãi Cháy là 45m/s (cấp 14) giật 62m/s (trên cấp 17)
**Hành chính Việt Nam thời Nam Bắc triều** phản ánh bộ máy chính quyền trung ương tới địa phương của hai triều đình Lê-Mạc từ năm 1527-1592 trong lịch sử Việt Nam. Bộ máy hai
**Hành chính Việt Nam thời Đinh** phản ánh bộ máy chính quyền từ trung ương tới địa phương của nước Đại Cồ Việt từ năm 968 đến năm 979 trong lịch sử Việt Nam. ##
**Hành chính Việt Nam thời Tự chủ** phản ánh bộ máy chính quyền từ trung ương tới địa phương của Việt Nam dưới thời Tự chủ trong lịch sử Việt Nam. ## Chính quyền trung
**Hành chính Việt Nam thời An Dương Vương** phản ánh bộ máy chính quyền từ trung ương tới địa phương của Việt Nam thời An Dương Vương trong lịch sử Việt Nam. ## Chính quyền
**Hành chính Việt Nam thời Hồng Bàng** phản ánh bộ máy chính quyền từ trung ương tới địa phương của Việt Nam thời Hồng Bàng trong lịch sử Việt Nam. ## Chính quyền trung ương
Sự **chia cắt Việt Nam** là tình trạng cắt cứ sâu sắc và phân tranh mạnh mẽ mà quyết liệt trên các vùng miền của các lực lượng chính trị - xã hội - quân
**Hành chính Việt Nam thời Tiền Lê** phản ánh bộ máy chính quyền từ trung ương tới địa phương của Việt Nam từ năm 980 đến năm 1009 trong lịch sử Việt Nam. ## Chính
**Việt Nam** qua các thời kỳ, triều đại nhà nước khác nhau với những tên gọi hoặc quốc hiệu khác nhau. Bên cạnh đó, cũng có những danh xưng chính thức hoặc không chính thức
Hoa phượng đỏ, biểu tượng của người Hải Phòng Dưới đây là **danh sách những nhân vật tiêu biểu** là những người đã sinh ra tại Hải Phòng, có quê quán (nguyên quán) ở Hải
**Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ tư** hay còn gọi là **thời Minh thuộc** trong lịch sử Việt Nam bắt đầu từ năm 1407 khi đế quốc Minh đánh bại nhà Hồ-Đại Ngu và chấm
**Mặt trận đất đối không miền Bắc Việt Nam năm 1972** chứa đựng nhiều diễn biến hoạt động quân sự quan trọng của các bên trong Chiến cục năm 1972 tại Việt Nam. Đây là
**Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam** (gọi tắt: **Chủ tịch nước**) là nguyên thủ quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là người đứng đầu
**Chiến cục năm 1972** là tổ hợp các hoạt động tấn công quân sự chiến lược của Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trên chiến trường miền
Biến động biên giới Việt - Trung, 1428 - 1895. **Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Lê trung hưng** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Lê trung hưng ở
**Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam**, thường gọi tắt là **Bộ Chính trị**, là cơ quan lãnh đạo và kiểm tra việc thực hiện nghị quyết Đại hội
**Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội** (chính tả cũ: Việt-Nam thanh-niên cách mệnh đồng-chí hội) là một tổ chức của Nguyễn Ái Quốc hoạt động chống lại thực dân Pháp tại Đông
**Kinh tế Việt Nam thời Nam Bắc triều** phản ánh những vấn đề liên quan tới hoạt động kinh tế trong thời Nam Bắc triều (1527-1592) trên lãnh thổ nước Đại Việt đương thời. Thời
**Giải thưởng Hellman-Hammett** là một giải thưởng và cũng là một trợ cấp được Tổ chức Theo dõi Nhân quyền trao cho các nhà văn trên khắp thế giới, mà là nạn nhân của đàn
**Điện ảnh Việt Nam Cộng hòa** () là thuật ngữ mô tả ngành kĩ nghệ chế tác phát hành và phê bình điện ảnh tại Việt Nam Cộng hòa thời kì từ 1955 đến 1975.
nhỏ|Một chiến sĩ [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang đứng dưới cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam, tay cầm khẩu AK47.]] **Quân Giải phóng miền Nam Việt
**Kinh tế Việt Nam** là một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát triển, phụ thuộc lớn vào nông nghiệp, du lịch, xuất khẩu thô và đầu tư trực
**Công giáo tại Việt Nam** là một bộ phận của Giáo hội Công giáo, dưới sự lãnh đạo tinh thần của các giám mục tại Việt Nam, hiệp thông với giáo hoàng. Với số tỉ
**Việt Nam**, quốc hiệu đầy đủ là **Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam**, là một quốc gia nằm ở cực Đông của bán đảo Đông Dương thuộc khu vực Đông Nam Á, giáp
thumb|Đại Nam dưới thời [[Minh Mạng, bao gồm cả các trấn ở Lào. Vùng thuộc phần đất Campuchia ngày nay là lãnh thổ Trấn Tây Thành mà Nhà Nguyễn chiếm được trong 6 năm (1835
Sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập năm 1930, xung đột đảng phái bắt đầu xuất hiện. Điển hình là tranh cãi và bút chiến giữa Đảng Cộng sản, Việt Nam Quốc
**Việt Nam Dân chủ Cộng hòa** (**VNDCCH**), cũng được gọi là **Bắc Việt** (), là một nhà nước ở Đông Nam Á tồn tại từ năm 1945 đến năm 1976. Là một thành viên Khối
**Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975** là sự kiện Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam (QGPMNVN) tiến vào Sài Gòn, dẫn tới sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hòa và chấm dứt
**Quốc gia Việt Nam** () là một chính phủ thuộc Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp, tuyên bố chủ quyền toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, tồn tại trong giai đoạn từ giữa
**Phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam** nhằm mục tiêu giành lại độc lập cho Việt Nam bắt đầu từ năm 1885 và kết thúc sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khi Đảng