✨Đồng hóa thời Bắc thuộc

Đồng hóa thời Bắc thuộc

Đồng hóa thời Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam là quá trình kéo dài gắn liền với sự di dân từ phương Bắc, những người thuộc văn hóa Hoa Hạ xuống đất Việt phương Nam. Quá trình di dân và đồng hóa đã có ảnh hưởng rất lớn tới đời sống chính trị - xã hội và văn hóa Việt Nam..

Quá trình di dân và đồng hóa

Chính sách đồng hóa và di dân đối với người Việt, phương Nam được các triều đại phong kiến Trung Quốc thực hiện từ khá sớm. Trung Quốc là nước lớn, coi các tộc người khác xung quanh là những tộc thấp kém, cần phải "giáo hóa" và gọi họ bằng những tên miệt thị như Man, Di, Nhung, Địch. Do tư tưởng tự tôn này, các triều đình Trung Quốc mang quân bành trướng, thôn tính các nước và tộc người xung quanh.

Nhà Tần sau khi thống nhất Trung Quốc đã tiến hành mở rộng đất đai. Năm 218 TCN, Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư và Sử Lộc mang 50 vạn quân xuống chinh phục phía nam. Tới năm 214 TCN, nhà Tần lại sai Triệu Đà mang 50 vạn dân xuống ở những vùng đất mới đánh chiếm được, ở chung và bắt đầu đồng hóa người Việt. Đó được xem là cuộc đồng hóa chính thức có quy mô đầu tiên của một triều đại phong kiến Trung Quốc đối với người Việt phương nam.

Nhà Tần mất, Triệu Đà cát cứ ở nước Nam Việt thực hiện chính sách dung hòa Việt và người Hoa. Bản thân Triệu Đà để lấy lòng người bản địa cũng sống theo tục người Việt (tóc búi tó, ngồi xổm).

Sang thời Hán, việc thôn tính đất đai, mở rộng bờ cõi và đồng hóa trở thành một chủ trương lớn. Những người tích cực thực hiện chủ trương này là Tích Quang, Nhâm Diên từ đầu thế kỷ 1.

Sau khi Mã Viện đánh thắng Hai Bà Trưng (43), di binh người Hoa ở lại Giao Chỉ làm ăn lập nghiệp khá nhiều. Những người này được gọi là "Mã lưu".

Chính sách đồng hóa của nhà Hán dẫn tới những cuộc di dân lớn của người Hoa khi đó. Tại Giao Châu, người Hoa ngày càng đông. Chính quyền các châu quận nhà Hán cho người Hoa "ở lẫn với người Việt", "lấy vợ người Việt" để dần dần xóa huyết tộc người Việt. Việc di cư của người Hoa xuống ở với người Việt diễn ra suốt thời Bắc thuộc, ngày càng trở thành trào lưu lớn.

Vùng Giao Chỉ xa xôi vẫn được dùng làm nơi đày ải những người Hoa phạm tội, trong đó có cả các sĩ phu như Âm Dật, Âm Xưởng đời Đông Hán, Cố Đàm, Cố Thừa, Trương Hưu, Trần Tuân, Ngu Phiên nước Đông Ngô thời Tam Quốc.

Một số khác là những quan lại người Hoa sang trấn trị nhưng cùng gia đình ở lại sau khi hết thời hạn. Trong số này có nhiều sĩ tộc ở Trung Nguyên, cùng với một số nhà truyền giáo.

Người Hán di cư sang Giao châu trong suốt thời Bắc thuộc, ban đầu do chính sách đồng hóa của chính quyền trung ương, về sau việc đó trở thành một trào lưu.

Sau 500 năm độc lập, đầu thế kỷ 15 nước Đại Việt lại bị nhà Minh xâm lược và chiếm đóng. Nhà Minh tiếp tục chính sách đồng hóa như các triều đại chiếm đóng trước đây tiêu diệt dân tộc và văn hóa Đại Việt, với ý định tiếp tục biến thành quận huyện cai trị lâu dài, với việc thực hiện giết hại dân bản địa và thiến hoạn nhiều nam thanh niên gốc Việt. Trường học được mở nhưng nhà Minh không tổ chức cho người Giao Chỉ thi mà chỉ để lựa chọn các nho sinh có học vấn để sung vào lệ tuyển cống cho triều đình hằng năm. Những người hợp tác với quân Minh được đưa sang Trung Quốc để học hành một thời gian rồi đưa về phục vụ trong bộ máy cai trị tại Giao Chỉ.

Nguyên nhân

Việc bành trướng và thực hiện đồng hóa phương Nam của các triều đại phong kiến phương Bắc trong thời gian đầu sở dĩ thực hiện được vì 2 lý do:

  • Nhà Hán tổ chức những lực lượng quân sự to lớn, trong khi đó cơ cấu chính trị - xã hội của người Việt và các cư dân phi Hán tộc ở phía nam còn mang nặng kết cấu "vùng bộ lạc" với chế độ thủ lĩnh địa phương. Trên nền tảng săn bắt hái lượm, kết cấu xóm làng đến vùng bộ lạc (với cái tên mới thời Bắc thuộc là huyện) vẫn mang nặng tính tự trị, làm chậm quá trình phát triển của kết cấu dân tộc - quốc gia. Nước Văn Lang, Âu Lạc cũng như các nước Việt phía bắc như Mân Việt, Đông Việt và cả Nam Việt chưa hoàn toàn thoát khỏi mô hình các vùng bộ lạc để hình thành vững chắc mô hình chế độ quân chủ trung ương tập quyền.
  • Sự chia rẽ trong nội bộ Việt tộc, như nhận xét của sử gia Tư Mã Thiên: "Âu Lạc tương công, Nam Việt động giao", nghĩa là Âu Lạc đánh lẫn nhau, Nam Việt rung động. Nhiều thủ lĩnh người Việt bị mua chuộc và cộng tác với triều đình phương Bắc, ngay từ thời Tần như Sử Lộc, qua thời Triệu tới thời Hán, như Hoàng Đồng.

Tác động

Với sự tác động của quá trình đồng hóa từ phương Bắc, cả vùng rộng lớn từ sông Trường Giang tới sông Tây Giang tập nhiễm văn hóa Hoa Hạ, dân cư bản địa tại khu vực này trở thành "Hán nhân", "Đường nhân".

Một số người Hoa đã gia nhập bộ máy quan liêm của Trung Quốc, góp phần củng cố thêm cơ sở cho chính quyền đô hộ tại Giao châu của các triều đình phương Bắc và đẩy mạnh thêm xu hướng Hán hóa người Việt.

Do sống lâu giữa cộng đồng cư dân có sức sống mạnh mẽ, một số người Hoa khác đã dần dần Việt hóa.

Tác động lớn nhất phải kể tới là tác động về văn hóa Việt Nam, không chỉ thời Bắc thuộc mà ảnh hưởng của nó tới các thời kỳ độc lập sau này.

Chống đồng hóa của người Việt

Trong 1000 năm Bắc thuộc, người Việt vẫn luôn đấu tranh để giành lại đất nước và tới thế kỷ 10 thì từng bước thoát khỏi sự ràng buộc với phương Bắc. Để phục hồi lại quốc thống, người Việt luôn phải chống lại sự đồng hóa để bảo tồn giống nòi Việt.

Nhận định về Việt Nam sau 1000 năm Bắc thuộc, sử gia Trần Trọng Kim nói: "Người Giao Châu ta có một cái nghị lực riêng và cái tính chất riêng để độc lập, chứ không chịu lẫn với nước Tàu".

Xu hướng

Những cuộc di dân và đồng hóa có những tác động lớn đối với đời sống xã hội trên lãnh thổ Việt Nam lúc đó.

Những người dân Bách Việt bản địa ở đồng bằng Giang châu sau nhiều thế kỷ bị Hán hóa đã trở thành người Hoa Quảng châu; còn người Lạc Việt ở vùng Châu thổ sông Hồng tuy bị Bắc thuộc nhưng không bị Hán hóa. Các sử gia xem việc thành lập Quảng châu với 3 quận tách khỏi Giao châu của Ngô Cảnh Đế Tôn Hưu vào năm 264 có nguyên nhân sâu xa như vậy.

Ngoại trừ một nhóm người tham gia bộ máy cai trị của chính quyền phương Bắc tại Việt Nam học tiếng Hán, còn lại đa số người Việt vẫn sống theo cách sống riêng và duy trì tiếng nói của tổ tiên. Dù đã có sự hòa trộn những từ, ngữ Hán trong tiếng Việt nhưng người Việt đã hấp thu chữ Hán theo cách sáng tạo riêng, Việt hóa những từ ngữ đó theo cách dùng, cách đọc, tạo thành một lớp từ mà sau này được gọi là từ Hán Việt. Thái thú Sĩ Nhiếp cùng một số trí thức đương thời sáng tạo ra chữ Nôm với mục đích ban đầu để dễ cai trị người Việt hơn, nhưng đồng thời chính chữ Nôm cũng đã tạo cơ sở cho tiếng Việt có một chỗ đứng riêng với tiếng Hán. Nhà nghiên cứu Lê Văn Siêu cho rằng điều may mắn cho tiếng Việt là: chính vì tổ tiên người Việt trong thời Bắc thuộc không quá thông minh tới mức có thể đọc lại (phát âm) chữ Hán giống đúng giọng người Hán chuẩn mực nên tiếng Việt còn giữ được và người Việt không bị mất tiếng nói, dân tộc Việt không bị hút vào đại khối dân Trung Hoa.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đồng hóa thời Bắc thuộc** trong lịch sử Việt Nam là quá trình kéo dài gắn liền với sự di dân từ phương Bắc, những người thuộc văn hóa Hoa Hạ xuống đất Việt phương
**Tôn giáo Việt Nam thời Bắc thuộc** phản ánh sự du nhập, phát triền và hòa trộn giữa các tôn giáo và tín ngưỡng truyền thống với ngoại lai trên vùng lãnh thổ Việt Nam
**Hành chính Việt Nam thời Bắc thuộc lần 3** phản ánh bộ máy cai trị tại Việt Nam của hai triều đại phương Bắc là nhà Tùy và nhà Đường từ năm 602 đến năm
**Hành chính Việt Nam thời Bắc thuộc lần 2** phản ánh những biến động về địa giới hành chính của Việt Nam từ năm 43 đến năm 541, qua tay 7 triều đại phong kiến
Tùy theo quan điểm của các sử gia, thời kỳ Bắc thuộc lần 1 của Việt Nam kéo dài ít nhất là 150 năm và lâu nhất là 246 năm (xem bài _Bắc thuộc lần
**Bắc thuộc** là danh từ chỉ thời kỳ Việt Nam bị đặt dưới quyền cai trị của các triều đại Trung Quốc, được coi như một đơn vị hành chính của Trung Quốc, tùy theo
**Kinh tế Việt Nam thời Bắc thuộc lần 2** có cơ cấu gồm các lĩnh vực: nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương mại. Từ đầu công nguyên, ngoài những nghề truyền thống nông nghiệp,
**Kinh tế Việt Nam thời Bắc thuộc lần 1** chủ yếu dựa vào nông nghiệp, có sự tiếp thu kỹ thuật từ phương Bắc trong sản xuất thủ công nghiệp và chịu ảnh hưởng của
**Kinh tế Việt Nam thời Bắc thuộc lần 3** đã có những bước phát triển nhất định về ngành thủ công nghiệp. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của chính sách vơ vét hà khắc của
**Thời kỳ Bắc thuộc lần 4** của Việt Nam kéo dài 20 năm, bắt đầu từ năm 1407 khi nhà Minh đánh bại nhà Hồ và chấm dứt năm 1427 khi Lê Lợi đánh đuổi
**Bắc thuộc lần thứ hai** (chữ Nôm: 北屬吝次二, ngắn gọn: **Bắc thuộc lần 2**) trong lịch sử Việt Nam kéo dài khoảng 500 năm từ năm 43 đến năm 543, từ khi Mã Viện theo
**Bắc thuộc lần thứ nhất** (chữ Nôm: 北屬吝次一, ngắn gọn: **Bắc thuộc lần 1**) trong lịch sử Việt Nam là thời kỳ đầu tiên Việt Nam nằm dưới sự cai trị của của nền phong
**Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ tư** hay còn gọi là **thời Minh thuộc** trong lịch sử Việt Nam bắt đầu từ năm 1407 khi đế quốc Minh đánh bại nhà Hồ-Đại Ngu và chấm
**Bắc thuộc lần thứ ba** trong lịch sử Việt Nam kéo dài từ năm 602 đến năm 905 hoặc năm 939. Thời kỳ này bắt đầu khi Tùy Văn Đế sai Lưu Phương đánh chiếm
**Bắc thuộc** chỉ thời kỳ Việt Nam bị đặt dưới quyền cai trị của các triều đại Trung Quốc. ## Khái quát Trong thời gian này Việt Nam bị đặt dưới quyền cai trị của
**Phân cấp hành chính thời Pháp thuộc** được tính từ khi Pháp chiếm được Nam Kỳ cho đến khi Việt Nam giành được độc lập (1863 - 1945) Sau khi chiếm toàn nước Việt Nam,
**Hành chính Việt Nam thời Pháp thuộc** là hệ thống hành chính từ trung ương tới địa phương của người Pháp tại Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ từ năm 1884 đến năm 1945.
nhỏ|228x228px|Cánh tay robot trong công nghiệp, một trong những ứng dụng của tự động hóa **Tự động hóa** hay **Điều khiển tự động** mô tả một loạt các công nghệ làm giảm sự can thiệp
**Phân họ Hoa thời chung** hay **phân họ Đông hầu** (danh pháp khoa học: **_Turneroideae_**) là một phân họ thực vật hạt kín (đồng nghĩa _Piriquetaceae_ Martynov, Turneraceae Kunth ex DC.) bao gồm khoảng 205
Lớp học may tại một trường thuộc địa ở Hà Nội.|nhỏ|phải **Giáo dục Việt Nam thời Pháp thuộc** là nền giáo dục trong ba xứ Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ thuộc Liên bang Đông
**Kinh tế Việt Nam thời Pháp thuộc** là một nền kinh tế thuộc địa phát triển rất nhanh dưới sự bảo hộ của Pháp. Việt Nam có tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn lương
Trung Quốc đã và đang là khởi nguồn của nhiều tiến bộ, phát hiện khoa học và các phát minh sáng chế. Dưới đây là danh sách theo thứ tự bảng chữ cái Latinh các
**Liên Xô chiếm đóng Bessarabia và Bắc Bukovina** là việc tiến chiếm vùng Bessarabia, Bắc Bukovina, và vùng Hertza (các vùng này từng thuộc Đế chế Nga, sau đó Vương quốc Romania chiếm giữ từ
**Sân vận động Quốc gia Bắc Kinh**, tên chính thức là **Sân vận động Quốc gia** Sân vận động được thiết kế để sử dụng trong suốt Thế vận hội Mùa hè 2008 và Thế
**Nàng Hoa** hay **Lê Thị Hoa** (; 2 TCN - 41) là một nữ tướng thời Hai Bà Trưng, khởi nghĩa tại vùng Nga Sơn (Thanh Hóa). ## Tiểu sử Theo thần phả đã có
**Hội đồng bộ trưởng Bắc Âu** là một cơ quan hợp tác liên chính phủ các nước Bắc Âu và là cơ quan sánh đôi với Hội đồng Bắc Âu. Hội đồng này được thành
**Đông Ấn Hà Lan thuộc Nhật Bản** bắt đầu vào năm 1942 và kết thúc vào ngày 17 tháng 8 năm 1945 cùng với tuyên ngôn độc lập Indonesia của Sukarno và M. Hatta thay
**Ông Đồng Hòa** (chữ Hán: 翁同龢1830 - 1904; tục gọi là **Thầy Hòa**; tên tự là **Chú Bình**, hiệu là **Tùng Thiện**, vãn hiệu là **Bình Am Cư sĩ**, quê quán Thường Thục, Giang Tô,
**Đổng Hòa** (chữ Hán: 董和) là đại thần nhà Thục Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Phục vụ Lưu Chương Đổng Hòa có tên tự là **Ấu Tể** (幼宰), người Nam
Phong cảnh cố đô nhìn từ núi Mã Yên Cửa Đông vào [[đền Vua Đinh Tiên Hoàng]] **Quần thể di tích Cố đô Hoa Lư** là hệ thống các di tích về kinh đô Hoa
**Lãnh thổ Việt Nam qua từng thời kỳ** là sự biến đổi không gian sinh tồn của người Việt. Sự biến đổi này mang tính chất phức tạp, lúc bị mất lãnh thổ về các
**Hồ Bắc** (, tiếng Vũ Hán: Hŭbě) là một tỉnh ở miền trung của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Giản xưng chính thức của tỉnh Hồ Bắc là "Ngạc" (鄂), lấy theo tên một
**Người Hoa** () là một dân tộc có nguồn gốc từ Trung Quốc và được công nhận là một trong 54 dân tộc của Việt Nam. Các tên gọi khác của họ là **người Minh**,
**Bắc Ninh** là một tỉnh ở Việt Nam, với vị trí nằm trong Vùng thủ đô Hà Nội, Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng. Bắc Ninh là
**Bắc Bộ** (hay còn gọi là **miền Bắc**) là một trong 3 miền địa lý của Việt Nam (gồm Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ). Dân cư Bắc Bộ tập trung đông tại Đồng
**Mười ba thuộc địa**, còn được gọi là **Mười ba thuộc địa Anh** hay **Mười ba thuộc địa Mỹ**, là một nhóm các thuộc địa của Anh trên bờ biển Đại Tây Dương của Bắc
Ngày 30 tháng 6 năm 1989, Quốc hội ra Nghị quyết chia tỉnh Phú Khánh thành hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa. ## Thời tiền sử và Vương quốc Chăm Pa trái|nhỏ|Tháp Po Nagar,
**Quảng Đông** () là một tỉnh phía Nam Trung Quốc, nằm ven bờ Biển Đông của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Quảng Đông là tỉnh đông nhất về số dân, đứng đầu về kinh
**Hành chính Việt Nam thời Nam Bắc triều** phản ánh bộ máy chính quyền trung ương tới địa phương của hai triều đình Lê-Mạc từ năm 1527-1592 trong lịch sử Việt Nam. Bộ máy hai
**Thanh Hóa** là tỉnh ven biển cực bắc vùng Bắc Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Tỉnh lỵ của tỉnh là thành phố Thanh Hóa. Thanh Hóa là 1 trong những trung tâm của
**Đồng bằng sông Cửu Long** đã có lịch sử khai phá từ thế kỷ 17, bắt đầu dưới quyền chúa Nguyễn, các chúa đã cho tổ chức các đơn vị hành chính ban đầu trên
là một trận động đất mạnh 9,0 MW ngoài khơi Nhật Bản xảy ra lúc 05:46 UTC (14:46 giờ địa phương) vào ngày 11 tháng 3 năm 2011. Trận động đất có vị trí chấn
**Bắc Borneo** () là một lãnh thổ bảo hộ thuộc Anh nằm tại phần phía bắc của đảo Borneo. Lãnh thổ Bắc Borneo ban đầu được hình thành từ các nhượng địa của các quốc
**Hán hóa** (chữ Anh: _Sinicization_ hoặc _sinofication_, _sinification_, _sinonization_; tiếp đầu ngữ _sino-_, nghĩa là “thuộc về Trung Quốc”), hoặc gọi **Trung Quốc hoá**, là quá trình mà trong đó các xã hội hoặc cộng
**Giao Chỉ** (chữ Hán: 交趾) là địa danh một phần lãnh thổ Việt Nam trong lịch sử, từ thời Hùng Vương đến các kỳ thời Bắc thuộc. Nó cũng là tên Bắc Tống và Nam
Một số đặc trưng của văn hóa Việt Nam: [[Phụ nữ Việt Nam với áo tứ thân, áo dài, nón quai thao đang chơi các nhạc cụ , Hắc cô như đàn bầu, tam thập
**Trận Tốt Động – Chúc Động** hay **Trận Tụy Động** là một trận đánh diễn ra từ ngày 5 đến ngày 7 tháng 11 năm 1426 giữa nghĩa quân Lam Sơn và quân đội nhà
phải|Bản đồ Lĩnh Nam thời Trưng Vương (40-43 sau Công nguyên). **Khởi nghĩa Hai Bà Trưng** là cuộc khởi nghĩa chống Bắc thuộc đầu tiên trong lịch sử Việt Nam do hai chị em Trưng
**Đông Triều** là một thành phố cũ nằm ở phía tây tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam. ## Địa lý thumb|Ngã 4 Đông Triều|264x264px Thành phố Đông Triều nằm ở phía tây của tỉnh Quảng Ninh,
**Da vàng hóa chiến tranh** hay **Vàng hóa chiến tranh** là một chiến lược quân sự mà thực dân Pháp sử dụng trong quá trình xâm chiếm Việt Nam thế kỷ 19 chống lại nhà