✨Hành chính Việt Nam thời Bắc thuộc lần 2

Hành chính Việt Nam thời Bắc thuộc lần 2

Hành chính Việt Nam thời Bắc thuộc lần 2 phản ánh những biến động về địa giới hành chính của Việt Nam từ năm 43 đến năm 541, qua tay 7 triều đại phong kiến phương Bắc: Đông Hán, Đông Ngô, Tào Ngụy, Tấn, Lưu Tống, Nam Tề, Lương.

Thời Đông Hán, lãnh thổ Việt Nam hiện nay thuộc bộ Giao Chỉ - gồm 9 quận, tức là lãnh thổ nước Nam Việt cũ cộng thêm đất 3 quận Đạm Nhĩ, Chu Nhai và Nhật Nam. Cuối thời Hán đổi gọi bộ Giao Chỉ thành Giao Châu như các châu của Trung Quốc. Từ cuối thời Tam Quốc, Đông Ngô cắt đất phía bắc ra khỏi Giao Châu để lập ra Quảng Châu. Sang thời Lương có đặt thêm nhiều châu nhỏ do chính sách điều chỉnh địa giới hành chính của Lương Vũ Đế trong cả nước Lương.

Thời Đông Hán

trái|Vị trí các quận trực thuộc bộ Giao Chỉ/Giao Châu trên đất Lĩnh Nam, bao gồm: Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân Kế tục từ thời Tây Hán, nhà Đông Hán duy trì bộ Giao Chỉ gồm có 9 quận: Nam Hải, Hợp Phố (Quảng Đông ngày nay), Thương Ngô, Uất Lâm (Quảng Tây), Chu Nhai, Đạm Nhĩ (đảo Hải Nam), Giao Chỉ, Cửu Chân (miền Bắc Việt Nam) và Nhật Nam. Ba quận thuộc về lãnh thổ Việt Nam hiện nay là Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam.

Từ năm 203, theo đề nghị của thứ sử Trương Tân và thái thú quận Giao Chỉ là Sĩ Nhiếp, bộ Giao Chỉ được đổi tên thành Giao Châu, coi ngang hàng như các châu ở Trung Quốc.

Quận Nam Hải

Quận Nam Hải được xác định vị trí bao trùm tỉnh Quảng Đông và phần đất phía đông nam tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc hiện nay.

Quận trị Nam Hải đặt tại huyện Phiên Ngung, nay là thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Nam Hải gồm có 6 huyện như sau: Phiên Ngung, Trung Túc, Bác La, Long Xuyên, Tứ Hội, Yết Dương.

Quận Uất Lâm

Quận Uất Lâm được xác định vị trí là từ các địa cấp thị Nam Ninh, Bách Sắc đến đại bộ phận Liễu Châu, phía bắc Ngọc Lâm, phía đông và phía nam Hà Trì đều thuộc Quảng Tây.

Quận trị Uất Lâm đặt tại huyện Bố Sơn, nay là địa cấp thị Quý Cảng thuộc Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Quốc. Uất Lâm gồm có 12 huyện như sau: Bố Sơn, An Quảng, Hà Lâm, Quảng Đô, Trung Lưu, Quế Lâm, Đàm Trung, Lâm Trần, Định Chu, Lĩnh Phương, Tăng Thực, Ung Kê.

Quận Thương Ngô

Quận Thương Ngô được xác định vị trí tương đương với khu vực dãy núi Đô Bàng tỉnh Quảng Tây, phía đông núi Đại Dao, địa cấp thị Triệu Khánh tỉnh Quảng Đông, phía tây huyện cấp thị La Định, huyện Giang Vĩnh tỉnh Hồ Nam, phía nam huyện Giang Hoa, huyện Đằng tỉnh Quảng Tây, phía bắc thành phố cấp huyện Tín Nghi tỉnh Quảng Đông.

Quận trị Thương Ngô đặt tại huyện Quảng Tín, nay là thành phố Ngô Châu, tỉnh Quảng Tây hoặc huyện Phong Khai thuộc địa cấp thị Triệu Khánh, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Thương Ngô gồm có 10 huyện như sau: Quảng Tín, Tạ Mộc, Cao Yếu, Phong Dương, Lâm Hạ, Đoan Khê, Phùng Thừa, Phú Xuyên, Lệ Phổ, Mãnh Lăng.

Quận Hợp Phố

Quận Hợp Phố được xác định vị trí là vùng duyên hải vịnh Bắc Bộ tỉnh Quảng Tây và địa cấp thị Trạm Giang tỉnh Quảng Đông.

Quận trị Hợp Phố đặt tại huyện Từ Văn, nay là thành phố cấp huyện Lôi Châu thuộc địa cấp thị Trạm Giang, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Hợp Phố thời Đông Hán gồm có 5 huyện: Hợp Phố, Từ Văn, Cao Lương, Lâm Nguyên, Chu Nhai với 23.121 hộ - 86.617 người.

Quận Giao Chỉ

Quận Giao Chỉ được xác định vị trí là đất Bắc Bộ Việt Nam và một phần phía tây nam tỉnh Quảng Tây hiện nay (từ sông Uất hay sông Tây Giang về phía nam), trừ đi góc tây bắc Việt Nam nằm ngoài phạm vi thống trị của nhà Hán và góc tây nam tỉnh Ninh Bình thuộc về quận Cửu Chân và dải biển từ Thái Bình đến huyện Kim Sơn khi đó vẫn là biển chưa được bồi đắp.

Biến động lớn nhất về hành chính thời kỳ này là Mã Viện thấy huyện Tây Vu quá rộng, cắt đất đặt thêm 2 huyện Phong Khê và Vọng Hải.

Quận trị Giao Chỉ lần lượt ở Mê Linh, Luy Lâu và Long Biên. Giao Chỉ gồm có 10 huyện như sau: Luy Lâu, An Định, Câu Lậu, Mê Linh, Khúc Dương, Bắc Đái, Tây Vu (phần còn lại sau khi cắt đi Phong Khê và Vọng Hải), Kê Từ, Long Biên, Chu Diên (vị trí chi tiết các huyện này, xem bài Hành chính Việt Nam thời Bắc thuộc lần 1), Phong Khê (huyện Đông Anh của Hà Nội và thành phố Từ Sơn của Bắc Ninh hiện nay), Vọng Hải (gồm huyện Sóc Sơn của Hà Nội và một phần tỉnh Vĩnh Phúc).

Quận trị Cửu Chân được Đào Duy Anh xác định ở huyện Tư Phố. Cửu Chân gồm có 7 huyện như sau: Tư Phố, Cư Phong, Hàm Hoan, Vô Thiết, Dư Phát, Đô Lung, Vô Biên (Vị trí chi tiết từng huyện: xem bài Hành chính Việt Nam thời Bắc thuộc lần 1).

Quận Nhật Nam

Quận Nhật Nam do nhà Hán mở rộng xuống phía nam quận Cửu Chân, sau khi diệt nước Nam Việt. Vị trí Nhật Nam được xác định là từ Quảng Bình tới Bình Định.

Quận trị Nhật Nam tại huyện Tây Quyển. Nhật Nam gồm có 5 huyện như sau: Tây Quyển, Chu Ngô, Lô Dung, Ty Ảnh, Tượng Lâm (vị trí chi tiết từng huyện xem bài Hành chính Việt Nam thời Bắc thuộc lần 1).

Từ cuối thế kỷ 2, Khu Liên nổi dậy thành lập nước Lâm Ấp, cắt vùng Tượng Lâm (cực nam) ra khỏi lãnh thổ nhà Đông Hán. Lãnh thổ Nhật Nam kể từ đó chỉ còn 4 huyện Tây Quyển, Chu Ngô, Lô Dung, Ty Ảnh, cực nam là đèo Hải Vân.

Bốn quận Hợp Phố, Thương Ngô, Uất Lâm và Nam Hải cũng thuộc nước Nam Việt thời nhà Triệu và trực thuộc bộ Giao Chỉ thời Hán nhưng lãnh thổ đều nằm bên ngoài Việt Nam hiện nay.

Thời Tam Quốc và Lưỡng Tấn

Biến động và thay đổi hành chính

Cuối năm 263, Tào Ngụy diệt Thục Hán. Viên lại ở quận Giao Chỉ là Lã Hưng giết chết thái thú Tôn Tư của Đông Ngô, mang đất này về hàng Tào Ngụy.

Do biến động tranh chấp giữa các nước, năm 264, nhà Đông Ngô (Ngô Cảnh Đế Tôn Hưu) chính thức cắt 3 quận Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô phía bắc Giao Châu hợp thành Quảng Châu. Như vậy 3 quận đã Hán hóa mạnh được cắt ra khỏi Giao Châu để lần đầu tiên lập thành Quảng Châu.

Năm 271, sau khi đánh chiếm lại được Giao châu từ tay nhà Tấn (giành ngôi Tào Ngụy từ năm 265), tướng Đông Ngô là Đào Hoàng đã xin với vua Ngô là Tôn Hạo đặt thêm 2 quận Vũ Bình và Tân Hưng trên cơ sở tách 3 huyện lớn quận Giao Chỉ ra và đặt thêm quận Cửu Đức tách khỏi quận Cửu Chân. Sang thời thuộc Tấn đổi Tân Hưng thành Tân Xương. Như vậy Giao Châu cuối thời thuộc Ngô qua thời thuộc Ngụy đến thời thuộc Tấn gồm có 7 quận, thuộc lãnh thổ Việt Nam ngày nay gồm có 6 quận: Giao Chỉ, Vĩnh Bình, Tân Hưng (Xương), Cửu Chân, Cửu Đức và Nhật Nam. Còn quận Hợp Phố nay thuộc lãnh thổ Trung Quốc.

Quận Giao Chỉ

Các huyện lớn của Giao châu được nhà Ngô tách ra để đặt các huyện nhỏ. Số lượng các huyện thời thuộc Ngô vì vậy tăng lên nhiều so với thời thuộc Hán.

Quận Giao Chỉ có vị trí lãnh thổ như thời Đông Hán, trừ các phần tách ra thành quận Tân Xương và Vũ Bình. Giao Chỉ gồm có 14 huyện, 12000 hộ), Câu Lậu, Vọng Hải, Luy Lâu, Tây Vu, Vũ Ninh, Chu Diên (không còn là huyện Chu Diên đời Hán mà chuyển sang vùng Hải Dương, ở giữa sông Thái Bình và sông Hồng), Khúc Dương, Ngô Hưng (là miền Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng tách ra từ huyện Long Uyên), Bắc Đái, Kê Từ, An Định, Vũ An, Quân Bình (cắt ra từ huyện Khúc Dương, tương đương Khâm Châu, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc).

Nhà Tấn đổi tên các huyện: Ngô Hưng làm Giao Hưng, Quân Bình làm Hải Bình và Vũ An làm Nam Định (tức huyện Gia Bình, Bắc Ninh). Như vậy các huyện thuộc Giao Chỉ thời thuộc Tấn là Long Biên, Câu Lậu, Vọng Hải, Luy Lâu, Tây Vu, Vũ Ninh, Chu Diên, Khúc Dương, Giao Hưng, Kê Từ, An Định, Nam Định, Hải Bình.

Quận Tân Xương

Thời thuộc Ngô, Tôn Hạo đặt quận Tân Hưng. Tấn Vũ Đế diệt Ngô đổi là quận Tân Xương. Quận này được xác định vị trí ở vùng bao gồm: huyện Mê Linh (Hà Nội), phía bắc thị xã Sơn Tây (Hà Nội), tỉnh Vĩnh Phúc, tỉnh Phú Thọ và tỉnh Yên Bái. Quận đặt từ thời Ngô Mạt Đế Tôn Hạo cuối đời Tam Quốc, tách ra từ quận Giao Chỉ, sang thời Tấn không thay đổi.

Vũ Bình có 7 huyện, 3000 hộ. Quận đặt từ thời Ngô Mạt Đế Tôn Hạo cuối đời Tam Quốc, tách ra từ quận Cửu Chân.

Cửu Đức đời thuộc Ngô có 8 huyện, không rõ số hộ. Các huyện thuộc Cửu Đức là: Cửu Đức (sau này Diễn châu thời thuộc Đường, tương đương huyện Diễn Châu bắc Nghệ An), Hàm Hoan, Nam Lăng, Dương Thành, Việt Thường, Phù Linh, Khúc Tư, Đô Hào). Như vậy các huyện thuộc Cửu Đức thời thuộc Tấn là Cửu Đức, Hàm Hoan, Nam Lăng, Dương Toại, Phố Dương, Tây An, Phù Linh, Khúc Tư, Đô Hào.

Quận Nhật Nam

Quận Nhật Nam được xác định vị trí từ Quảng Bình đến đèo Hải Vân. Nhật Nam có 5 huyện, 600 hộ).

  • Quận Tống Bình: được tách ra từ một phần huyện Long Biên thuộc quận Giao Chỉ đời Tấn mà đặt thêm. Tống Bình gồm 3 huyện: Quốc Xương, Nghĩa Hoài, Tuy Ninh. Vị trí được xác định là phía nam sông Hồng và sông Đuống, gồm trung tâm Hà Nội và các huyện Hoài Đức, Thường Tín (Hà Nội), Thuận Thành (Bắc Ninh), Khoái Châu (Hưng Yên).
  • Quận Tân Xương: theo Đào Duy Anh thì Tống thư bỏ sót quận này.
  • Quận Vũ Bình: theo Đào Duy Anh thì Tống thư chỉ chép gồm 3 huyện là Ngô Định, Tân Đạo, Tân Hóa, có thể các huyện khác bị bỏ sót.
  • Quận Cửu Chân: ngoài các huyện thời thuộc Tấn, nhà Lưu Tống đặt thêm các huyện Quân An, Vũ Ninh, Ninh Di. Như vậy các huyện thuộc Cửu Chân cuối thời thuộc Lưu Tống gồm: Tư Phố, Di Phong, Trạm Ngô, Kiến Sơ, Thường Lạc, Cao An, Phù Lạc, Tùng Nguyên, Quân An, Vũ Ninh, Đô Lung, Ninh Di.
  • Quận Cửu Đức: ngoài các huyện thời thuộc Tấn, đặt thêm các huyện Tống Thái, Tống Xương, Hy Bình (cuối đời Lưu Tống) và nhập huyện Dương Toại vào huyện Phố Dương. Như vậy các huyện thuộc Cửu Đức cuối thời thuộc Lưu Tống gồm: Cửu Đức, Hàm Hoan, Nam Lăng, Phố Dương, Tây An, Phù Linh, Khúc Tư, Đô Hào, Tống Thái, Tống Xương, Hy Bình.
  • Quận Nhật Nam: như thời thuộc Tấn.

Thời Nam Tề (479-502)

  • Quận Giao Chỉ: gồm các huyện: Long Biên, Câu Lậu, Vọng Hải, Luy Lâu, Tây Vu, Vũ Ninh, Chu Diên, Khúc Dương, An Định, Nam Định, Hải Bình (Nam Tề thư không chép 3 huyện Giao Hưng, Bắc Đái, Kê Từ của thời thuộc Tấn. Theo sách Thái Bình hoàn vũ ký của Nhạc Sử thời Tống thì các quận thuộc Giao châu thay đổi như sau:
  • Chia quận Giao Chỉ đặt ra Hoàng châu và quận Ninh Hải gồm 3 huyện An Bình, Hải Bình, Ngọc Sơn
  • Lấy quận Cửu Chân lập ra Ái châu
  • Lấy quận Nhật Nam đặt ra Đức châu, Lợi châu và Minh châu. "Quận Nhật Nam" là cách gọi thời thuộc Tùy sau này (Thái Bình hoàn vũ ký viết vào thời nhà Tống), thời thuộc Tề, Lương là quận Cửu Đức (xem Hành chính Việt Nam thời Bắc thuộc lần 3). Địa giới cực nam thời thuộc Lương chỉ đến Cửu Đức (giới hạn tương đương cuối tỉnh Hà Tĩnh), phía nam Hoành Sơn đã bị Lâm Ấp xâm lấn, sau này sang đầu thế kỷ 7, nhà Tùy mới chiếm lại để đặt châu, quận trở lại.

Bộ máy cai trị

Sau khi chiếm lại bộ Giao Chỉ, tiêu diệt sự chống đối của Hai Bà Trưng, nhà Đông Hán tăng cường bộ máy cai trị hơn trước. Các cấp hành chính có chế độ quan lại như tại Trung Quốc mặc dù hiệu lực hoạt động của bộ máy không thực sự chặt chẽ.

Người đứng đầu Giao Châu là Thứ sử, phụ trách chung toàn bộ công việc của các quận trực thuộc. Tại từng quận, nhà Đông Hán vẫn đặt một viên Thái thú coi việc dân sự và một viên Đô úy coi việc quân sự như trước. Nhưng tại các huyện, chế độ Lạc tướng cha truyền con nối của người Việt bị bãi bỏ, không còn được duy trì như trước. Thay vào đó, nhà Đông Hán đặt các Huyện lệnh để tăng cường cai trị các huyện.

Sang các thời thuộc Ngô, Tấn, Lưu Tống, Nam Tề và Lương, bộ máy quan liêu cai trị Giao Châu cơ bản vẫn như thời thuộc Hán. Tuy nhiên, việc cai quản vẫn còn ít nhiều hạn chế. Các quan lại Trung Quốc thừa nhận nhiều nơi "trưởng lại tuy đặt, có cũng như không", "huyện quan ràng buộc vì để cho sợ uy mà không phục", "dân cậy hiểm ở xa, thường hay phản loạn".

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hành chính Việt Nam thời Bắc thuộc lần 2** phản ánh những biến động về địa giới hành chính của Việt Nam từ năm 43 đến năm 541, qua tay 7 triều đại phong kiến
**Hành chính Việt Nam thời Bắc thuộc lần 3** phản ánh bộ máy cai trị tại Việt Nam của hai triều đại phương Bắc là nhà Tùy và nhà Đường từ năm 602 đến năm
Tùy theo quan điểm của các sử gia, thời kỳ Bắc thuộc lần 1 của Việt Nam kéo dài ít nhất là 150 năm và lâu nhất là 246 năm (xem bài _Bắc thuộc lần
**Kinh tế Việt Nam thời Bắc thuộc lần 2** có cơ cấu gồm các lĩnh vực: nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương mại. Từ đầu công nguyên, ngoài những nghề truyền thống nông nghiệp,
**Thời kỳ Bắc thuộc lần 4** của Việt Nam kéo dài 20 năm, bắt đầu từ năm 1407 khi nhà Minh đánh bại nhà Hồ và chấm dứt năm 1427 khi Lê Lợi đánh đuổi
**Kinh tế Việt Nam thời Bắc thuộc lần thứ tư** trong lịch sử Việt Nam phản ánh hoạt động kinh tế trong 20 năm từ năm 1407 đến năm 1427, còn gọi là thời kỳ
**Bắc thuộc** là danh từ chỉ thời kỳ Việt Nam bị đặt dưới quyền cai trị của các triều đại Trung Quốc, được coi như một đơn vị hành chính của Trung Quốc, tùy theo
**Hành chính Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh bộ máy cai trị từ trung ương tới địa phương của chính quyền nhà Nguyễn trong thời kỳ độc lập (1802-1884). Bộ máy cai trị của nhà
**Bắc thuộc lần thứ hai** (chữ Nôm: 北屬吝次二, ngắn gọn: **Bắc thuộc lần 2**) trong lịch sử Việt Nam kéo dài khoảng 500 năm từ năm 43 đến năm 543, từ khi Mã Viện theo
**Hành chính Việt Nam thời Tây Sơn** ánh bộ máy cai trị từ trung ương tới địa phương của nhà Tây Sơn từ năm 1778 đến năm 1802, không chỉ giới hạn trong phạm vi
**Hành chính Việt Nam thời Nam Bắc triều** phản ánh bộ máy chính quyền trung ương tới địa phương của hai triều đình Lê-Mạc từ năm 1527-1592 trong lịch sử Việt Nam. Bộ máy hai
**Hành chính Việt Nam thời Hồ** trong lịch sử Việt Nam phản ánh hệ thống chính quyền từ trung ương đến địa phương nước Đại Ngu từ năm 1400 đến năm 1407. Từ khi thái
**Hành chính Việt Nam thời Hồng Bàng** phản ánh bộ máy chính quyền từ trung ương tới địa phương của Việt Nam thời Hồng Bàng trong lịch sử Việt Nam. ## Chính quyền trung ương
**Đồng hóa thời Bắc thuộc** trong lịch sử Việt Nam là quá trình kéo dài gắn liền với sự di dân từ phương Bắc, những người thuộc văn hóa Hoa Hạ xuống đất Việt phương
**Phân cấp hành chính thời quân chủ Việt Nam** được tính từ khi Việt Nam giành được độc lập sau thời kỳ bắc thuộc đến khi người Pháp xâm lược và chiếm đóng hoàn toàn
**Bắc thuộc lần thứ nhất** (chữ Nôm: 北屬吝次一, ngắn gọn: **Bắc thuộc lần 1**) trong lịch sử Việt Nam là thời kỳ đầu tiên Việt Nam nằm dưới sự cai trị của của nền phong
**Việt Nam** thống kê về **GRDP bình quân đầu người** dựa vào Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP). Bởi vì giữa Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) và Tổng sản phẩm nội địa
**Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ tư** hay còn gọi là **thời Minh thuộc** trong lịch sử Việt Nam bắt đầu từ năm 1407 khi đế quốc Minh đánh bại nhà Hồ-Đại Ngu và chấm
**Bắc thuộc lần thứ ba** trong lịch sử Việt Nam kéo dài từ năm 602 đến năm 905 hoặc năm 939. Thời kỳ này bắt đầu khi Tùy Văn Đế sai Lưu Phương đánh chiếm
nhỏ|318x318px|Hành chính Việt Nam thời Lê Sơ **Hành chính Đại Việt thời Lê sơ**, đặc biệt là sau những cải cách của Lê Thánh Tông, hoàn chỉnh hơn so với thời Lý và thời Trần,
Tranh vẽ cảnh vua Lê thiết triều của Samuel Baron - thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVII. **Hành chính Đàng Ngoài thời Lê trung hưng**, hay còn gọi là **hành chính Đại Việt thời
**Hành chính Việt Nam thời Trần** hoàn thiện hơn so với thời Lý. Sau khi giành được chính quyền, nhà Trần đã phân chia lại Đại Việt thành 12 lộ thay vì 24 lộ như
**Kinh tế Việt Nam thời Pháp thuộc** là một nền kinh tế thuộc địa phát triển rất nhanh dưới sự bảo hộ của Pháp. Việt Nam có tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn lương
**Hành chính Việt Nam thời Lý** phản ánh bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương của nước Đại Việt thời nhà Lý (1009-1225) trong lịch sử Việt Nam. Từ thời nhà Đinh,
**Hành chính Đàng Trong thời Lê trung hưng** phản ánh bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương ở Đàng Trong - miền Đại Việt từ sông Gianh trở vào, thuộc quyền cai
**Việt Nam** qua các thời kỳ, triều đại nhà nước khác nhau với những tên gọi hoặc quốc hiệu khác nhau. Bên cạnh đó, cũng có những danh xưng chính thức hoặc không chính thức
**Lý Trường Nhân** (, 440 - 478) là một thủ lĩnh địa phương, cát cứ Giao Châu, tự trị với chính quyền phong kiến phương Bắc trong lịch sử Việt Nam thời Bắc thuộc lần
**Bộ Tài chính** là cơ quan của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài chính, ngân sách nhà nước, thuế, phí,
Đây là **biên niên sử Việt Nam thời kỳ 1945–1975**, thời kì gắn liền với Chiến tranh Việt Nam. ## Thập niên 1940 ### 1945 *Năm 1945: Nạn đói gây ra cái chết của 2
Lớp học may tại một trường thuộc địa ở Hà Nội.|nhỏ|phải **Giáo dục Việt Nam thời Pháp thuộc** là nền giáo dục trong ba xứ Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ thuộc Liên bang Đông
**Tỉnh** là đơn vị hành chính nông thôn cấp cao nhất ở Việt Nam.. Tính đến ngày 12 tháng 6 năm 2025, Việt Nam có 34 đơn vị hành chính cấp tỉnh, trong đó có
Nước Đại Việt dưới **triều đại Tây Sơn**, có **quan hệ ngoại giao** với các nước Xiêm La và Trung Quốc ở triều Mãn Thanh. Nguyễn Huệ - tức Hoàng Đế Quang Trung - là
**Lịch sử hành chính Hà Nam** có thể xem mốc khởi đầu từ năm 1890 với sự kiệm phủ Lý Nhân được tách khỏi tỉnh Hà Nội để thành lập tỉnh Hà Nam. Vào thời
**Xã** là tên gọi đơn vị hành chính cấp hai tại khu vực nông thôn, ngoại thành, ngoại thị của Việt Nam hiện nay. Thuật ngữ _đơn vị hành chính cấp xã_ được dùng để
**Nông nghiệp Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh chính sách ruộng đất và kết quả hoạt động nông nghiệp của Việt Nam dưới thời nhà Nguyễn khi còn độc lập, từ năm 1802 đến 1884.
**Ngoại giao Việt Nam thời Lê sơ** phản ánh quan hệ ngoại giao của chính quyền nhà Lê sơ với các nước lân bang trong giai đoạn từ năm 1428 đến năm 1527 trong lịch
**Huyện** là đơn vị hành chính địa phương cấp hai từng tồn tại ở khu vực nông thôn của Việt Nam. Thuật ngữ "cấp huyện" thường được dùng để chỉ toàn bộ cấp hành chính
**Tống Bình** (宋平) là địa danh cũ ở đồng bằng Bắc Bộ có từ thời Nam Bắc Triều tới khoảng giữa thời nhà Đường của Trung Quốc. Địa bàn bao gồm nam Hà Nội (phần
**Học viện Tài chính** (tiếng Anh: **Academy of Finance**, viết tắt **AOF**) trực thuộc Bộ Tài chính và chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo, là một trong những
Địa danh **Hà Tĩnh** xuất hiện từ năm 1831, khi vua Minh Mệnh chia tách Nghệ An để đặt tỉnh Hà Tĩnh. Tuy nhiên, vùng đất Hà Tĩnh đã được hình thành và phát triển
**Sáp nhập các tỉnh, thành Việt Nam** là một trong những chương trình quan trọng nhất nằm trong đợt Cải cách thể chế Việt Nam 2024–2025. Việc sáp nhập tỉnh, thành này chính thức được
**Người Hoa** () là một dân tộc có nguồn gốc từ Trung Quốc và được công nhận là một trong 54 dân tộc của Việt Nam. Các tên gọi khác của họ là **người Minh**,
**Đợt sắp xếp, sáp nhập đơn vị hành chính tại Việt Nam 2019–2022** đề cập đến cuộc sắp xếp, sáp nhập các đơn vị hành chính (ĐVHC) cấp xã và cấp huyện tại Việt Nam
**Giao Chỉ** (chữ Hán: 交趾) là địa danh một phần lãnh thổ Việt Nam trong lịch sử, từ thời Hùng Vương đến các kỳ thời Bắc thuộc. Nó cũng là tên Bắc Tống và Nam
**Bắc thuộc** chỉ thời kỳ Việt Nam bị đặt dưới quyền cai trị của các triều đại Trung Quốc. ## Khái quát Trong thời gian này Việt Nam bị đặt dưới quyền cai trị của
phải|Bản đồ Lĩnh Nam thời Trưng Vương (40-43 sau Công nguyên). **Khởi nghĩa Hai Bà Trưng** là cuộc khởi nghĩa chống Bắc thuộc đầu tiên trong lịch sử Việt Nam do hai chị em Trưng
Giao thông và liên lạc tại Việt Nam thời Quân chủ Việt Nam không được quan tâm nhiều và phát triển chậm, chủ yếu do những hạn chế và yếu kém về kỹ thuật. Về
**Đệ Nhị Cộng hòa Việt Nam** (1967-1975) là chính thể dân sự của Việt Nam Cộng hòa thành lập trên cơ sở của bản Hiến pháp tháng 4 năm 1967 và cuộc bầu cử tháng
**Trấn Nam** (chữ Hán: 鎮南) là một đơn vị hành chính quân sự của nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, bao gồm phần lớn miền Bắc và một phần miền Trung Việt Nam ngày
**Việt Nam**, quốc hiệu đầy đủ là **Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam**, là một quốc gia nằm ở cực Đông của bán đảo Đông Dương thuộc khu vực Đông Nam Á, giáp