✨Ngoại giao Việt Nam thời Lê sơ

Ngoại giao Việt Nam thời Lê sơ

Ngoại giao Việt Nam thời Lê sơ phản ánh quan hệ ngoại giao của chính quyền nhà Lê sơ với các nước lân bang trong giai đoạn từ năm 1428 đến năm 1527 trong lịch sử Việt Nam.

Hoàn cảnh

Đầu năm 1428, sau khi đánh đuổi quân Minh về nước, khởi nghĩa Lam Sơn kết thúc thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế và lập ra nhà Lê sơ, đặt lại quốc hiệu là Đại Việt. Sau khi lên ngôi, Lê Lợi chủ trương hàn gắn lại hậu quả 20 năm của thời kỳ Bắc thuộc lần 4, đồng thời phải giải quyết các vấn đề về con cháu họ Trần với nhà Minh.

Quan hệ ngoại giao với triều Minh

Quan hệ về lễ triều

Năm 1426, khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đang trên đà thắng thế, nhằm tìm cách kìm hãm sự phát triển của cuộc khởi nghĩa và chia rẽ nội bộ người Việt, nhà Minh đòi lập con cháu họ Trần lên làm vua theo tờ chiếu của vua Minh Thành Tổ khi đánh Đại Ngu năm 1407. Lê Lợi bèn cho thảo tờ biểu đến vua Minh để báo việc lập Trần Cảo - người được cho là cháu nội của Trần Nghệ Tông, lên làm vua. Tuy nhiên, toàn bộ chiến sự chống quân Minh khi ấy vẫn do Lê Lợi quyết định. Sau hội thề Đông Quan năm 1427, vua Minh Tuyên Tông cho sứ là La Nhữ Kính mang thư sang phong Trần Cảo là An Nam Quốc Vương, ra lệnh cho tướng Vương Thông đem quân rút về nước, trả lại đất cho An Nam, việc triều cống theo lệ cũ, cho sứ thần đi lại.

Năm 1431, Lê Lợi lại sai sứ sang nhà Minh cầu phong quốc vương, trần tình rằng họ Trần thực sự đã hết người, không còn tìm được ai, vua Minh đành phải bằng lòng. Cuối năm đó, vua Minh sai sứ sang phong vua là Quyền thự An Nam Quốc Sự. Chín năm sau, khi Thái Tông mất, đời Lê Nhân Tông, nhà Minh lại cho người sang tế Thái Tông. Năm 1451, khi Minh Đại Tông mới lên ngôi, nhà Minh cho người sang báo; và vua Nhân Tông cho người sang chúc mừng. Năm sau, nhà Minh cho người sang ban vóc lụa, vua Lê lại cho người sang tạ ơn.

Khi Lạng Sơn Vương Nghi Dân hành thích giết Lê Nhân Tông năm 1459 và tự lập làm vua, ông cho sứ sang nhà Minh nộp cống hằng năm và xin bỏ việc cống nạp ngọc trai. Năm 1460, các đại thần nhà Lê cùng nhau lật đổ Nghi Dân và con út của Thái Tông là Lê Tư Thành được đưa lên làm vua, tức Lê Thánh Tông. Thánh Tông cho an táng Nhân Tông, và đến năm 1462 thì nhà Minh cũng cho người sang tế. Cuối năm đó, Thánh Tông cho người sang cảm ơn nhà Minh đã phúng điếu và xin ban mũ áo. Cuối năm 1464, nhà Minh sai sứ sang báo việc Minh Hiến Tông lên ngôi và ban cho mũ áo, vóc lụa cùng sắc dụ. Dưới thời Lê Thánh Tông, nước Đại Việt hùng mạnh về mọi mặt, liên tục cho quân đi đánh Lão Qua, Chiêm Thành, Bồn Man và gây được nhiều thanh thế, nhà Minh khi ấy cũng phải lấy lễ nghĩa mà đãi Đại Việt, quan hệ giữa hai nước vẫn hoà bình.

Năm 1480, nhà Minh có thảo sắc văn nói về việc vua Nam liên tục điều động binh mã đánh giết ở các quốc gia Chiêm Thành, Bồn Man và Lão Qua. Theo đó, vua Minh gửi thư trách vua Lê "hiếp kẻ yếu, gây hấn lớn". Để xoa dịu tình hình, tháng 11 (âm lịch) cùng năm, vua Thánh Tông bèn cử người sang tuế cống nhà Minh và tâu việc Chiêm Thành. Đến năm 1488, tân hoàng đế Minh Hiếu Tông sai chánh sứ là Hàn lâm viện thị giảng Lưu Tiễn, phó sứ là Hình khoa cấp sự trung Lã Hiến sang báo việc lên ngôi và ban cho vóc lụa. Thánh Tông sai sứ sang tạ ơn và chúc mừng vua mới lên ngôi; đồng thời cũng thông báo về vấn đề đất Chiêm Thành. Đến khi Thánh Tông mất, Hiến Tông lên ngôi, cuối năm 1499, nhà Minh lại cho sứ sang phúng tế. Đến đầu năm 1500, Hiến Tông sai sứ sang cảm ơn việc phúng tế, tạ ơn việc sách phong và xin ban mũ áo.

Cuối năm 1501, Hiến Tông cử sứ sang tuế cống nhà Minh. Đến cuối năm 1502, Hiến Tông lại sai sứ sang tạ ơn việc ban cho mũ áo. Đến năm 1503, khi sứ Đại Việt rời đất Minh trở về nước, vua Minh cho quân đưa sứ nước Nam về, cùng nhiều loại quần áo, tơ lụa ban cho.

Tháng 2 năm 1510, Tương Dực cho sứ Đàm Thận Huy, Vũ Cán sang nhà Minh tâu việc và xin cầu phong. Đến tháng 11 năm đó, ông sai Đỗ Lý Khiêm cùng hành nhân tám người, tòng nhân 25 người sang tuế cống nhà Minh. Tháng giêng năm 1513, nhà Minh sai chánh sứ là Trạm Nhược Thủy, phó sứ là Phan Hy Tăng sang Đại Việt sách phong cho Lê Tương Dực làm An Nam Quốc Vương và ban cho một bộ áo mũ quan võ bằng da, một bộ thường phục. Hy Tăng trông thấy Tương Dực mà bảo với Nhược Thủy: :"Quốc vương An Nam mặt thì đẹp mà người lại lệch, tính háo dâm, là vua lợn, loạn vong sẽ không bao lâu." Lúc hai sứ trở về, vua tặng biếu rất hậu. Nhược Thủy và Hy Tăng không nhận. Vua làm thơ tiễn sứ giả về nước. Đến tháng 2, vua sai Hàn lâm viện kiểm khảo Nguyễn Sư dẫn một đoàn sứ sang nhà Minh để tạ ơn sách phong và tạ ơn ban mũ áo. Cùng tháng đó, sứ nhà Minh ở quán Bắc Sứ tìm người viết chữ đẹp sai viết bạch bài gửi về châu Bằng Tường của họ; Tương Dực lập tức đáp ứng, đồng thời cho chuẩn bị binh phu đợi hộ tống sứ Minh về nước.

Khi Lê Tương Dực mới lên ngôi, làm mất ấn Quốc bảo, không có gì để khớp với phù khế của nhà Minh. Khi biết tin Kim quang môn đãi chiếu Nguyễn Huệ biết làm ấn Quốc bảo, vua sai khắc ấn giả để khớp với phù khế của nhà Minh, quả nhiên khớp với ấn cũ mà nhà Minh đã ban cho. Khi sứ nhà Minh là Hy Tăng, Nhược Thủy sang sách phong cho Tương Dực thì Huệ đã lui về vì tuổi già. Vua nghĩ đến công làm ấn giả của ông, lại gọi ra để dùng, thăng ông làm Lễ bộ Tả thị lang hành Kim quang môn đãi chiếu, tri Thượng bảo giám các cục.

Năm 1516, Tương Dực đế bị nghịch thần Trịnh Duy Sản giết chết. Trong hai đời vua còn lại là Lê Chiêu Tông và Lê Cung Hoàng, do nước Đại Việt trải qua giai đoạn khủng hoảng chính trị nghiêm trọng cho đến khi quyền thần Mạc Đăng Dung lật đổ triều Lê vào năm 1527, nên không có hoạt động ngoại giao nào giữa Đại Việt và Đại Minh được sử sách chép lại trong thời gian này. Đến tháng giêng năm 1522, nhà Minh cũng sai Hàn lâm viện biên tu Tôn Thừa Ân và Cấp sự trung Du Đôn sang báo việc Minh Thế Tông lên ngôi, nhưng do Đại Việt đang có loạn, cả hai người đều không sang đến nơi được. Đến năm 1523, Thừa Ân trở về nước, còn Đôn bị chết ở dọc đường.

Như vậy, trong 100 năm tồn tại của triều Lê sơ, nước Đại Việt đã hoạt động ngoại giao với nhà Minh 28 lần, trong đó có hai lần là thảo các tờ biểu, sắc văn; 14 lần sứ Đại Việt sang đất Minh và 12 lần sứ Minh sang Đại Việt; chủ yếu là xoay quanh các việc sắc phong tước "An Nam quốc vương", ban mũ áo và vóc lụa.

Tranh chấp biên giới

Đại Việt bấy giờ có lệ xưng thần với nhà Minh, nhưng các vua Lê vẫn phòng bị mặt bắc. Thỉnh thoảng hai bên vẫn xảy ra những vụ lấn cướp biên giới qua lại, có những thổ dân sang quấy nhiễu, thì lập tức vua Lê cho quan quân lên dẹp yên và cho sứ sang Trung Quốc để phân giải mọi sự cho minh bạch. Trong thời vua Lê Thánh Tông, có lần được tin có người nhà Minh đem quân qua địa giới, Thánh Tông liền cho người do thám thực hư. Suốt từ thời Lê Thái Tông đến Lê Thánh Tông, trong gần 50 năm liên tục xảy ra những vụ tranh chấp vùng biên giới Tây Bắc, Châu An Bình, Tư Lang và Đông Bắc, nhưng cuối cùng không xảy ra chiến tranh.

Với các nước khác

Vào thời kỳ đầu triều, nước Ai Lao vẫn thường xuyên đem lễ vật sang cống Đại Việt cho đến khi chiến tranh Đại Việt - Lan Xang nổ ra dưới thời Lê Thánh Tông. Cuộc chiến này giúp Đại Việt chấm dứt sự quấy nhiễu của quân Lan Xang tại biên giới phía tây, và bình định đất Bồn Man, trước đó đã xin nội thuộc vào Đại Việt từ năm 1448 dưới thời vua Lê Nhân Tông và được nhập vào châu Quy Hợp thuộc xứ Nghệ An.

Vào đầu thời Lê sơ, nước Chiêm Thành ở biên giới phía nam vẫn duy trì lệ triều cống với Đại Việt. Nhưng đến khi quốc gia này liên tục cho quân cướp phá vùng Hóa Châu của nhà Lê sơ thì quan hệ hai nước bắt đầu xấu đi. Đại Việt trải qua hai cuộc chiến tranh lớn với Chiêm Thành vào các năm 1446, 1471 và đều toàn thắng. Sau khi Đại Việt đánh tan Chiêm Thành vào năm 1471, vươn địa phận đến Phú Yên, trở thành một đế quốc ở khu vực Đông Nam Á, nhiều vương quốc láng giềng phía Tây và phía Nam bắt đầu cử sứ thần đến thông hiếu. Quan điểm của vua Lê Thánh Tông là vừa tiếp đãi, vừa dè chừng họ. Năm 1485, nhà vua ra lệnh vệ Cẩm y phải nghiêm ngặt tiếp rước và canh giữ, đề phòng các sứ giả Chiêm Thành, Lão Qua (Lan Xang), Xiêm La (các quốc gia thuộc Thái Lan), Trảo Oa (Indonesia), Lộ Lạc (vương quốc Malacca) nhân cơ hội dò xét nội tình của Đại Việt.

Tháng 4 năm 1510, vua Cục Mông nước Lão Qua sai sứ đến Nghệ An đệ bản tâu trạm xin nộp cống quy phụ, vua Lê Tương Dực khi ấy đã xuống chiếu khước từ, vì khi ấy ông mới vừa lên ngôi, nên sợ họ sẽ thừa cơ do thám tình hình quốc gia.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ngoại giao Việt Nam thời Lê sơ** phản ánh quan hệ ngoại giao của chính quyền nhà Lê sơ với các nước lân bang trong giai đoạn từ năm 1428 đến năm 1527 trong lịch
Nước Đại Việt dưới **triều đại Tây Sơn**, có **quan hệ ngoại giao** với các nước Xiêm La và Trung Quốc ở triều Mãn Thanh. Nguyễn Huệ - tức Hoàng Đế Quang Trung - là
Phần lãnh thổ nhà Mạc và [[nhà Lê trung hưng quản lý vào năm 1590]] **Ngoại giao Việt Nam thời Mạc** phản ánh những hoạt động ngoại giao dưới triều đại nhà Mạc ở Đại
**Ngoại giao Việt Nam thời Tiền Lê** phản ánh các hoạt động ngoại giao của chính quyền nhà Tiền Lê từ năm 980 đến năm 1009 trong lịch sử Việt Nam. ## Hoàn cảnh Năm
**Ngoại giao Việt Nam thời Hồng Bàng** phản ánh quan hệ đối ngoại của các vua trị vì Việt Nam thời Hồng Bàng với các vương triều Trung Quốc, chư hầu đương thời. Do thời
**Vấn đề biên giới Việt–Trung thời Lê sơ** phản ánh những hoạt động quân sự – ngoại giao giữa nhà Lê sơ ở Việt Nam với triều đại nhà Minh của Trung Quốc xung quanh
**Bộ Ngoại giao Việt Nam** là cơ quan của Chính phủ Việt Nam thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đối ngoại, gồm: Công tác ngoại giao, biên giới, lãnh thổ quốc gia,
phải|nhỏ|Một góc trụ sở Bộ Ngoại giao **Trụ sở Bộ Ngoại giao Việt Nam** là tòa nhà tại địa chỉ số 1 Tôn Thất Đàm, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Mặc dù được
phải|Bản đồ ấn hành năm 1829 ở Pháp vẽ biên cương nước Việt Nam bao gồm cả Cao Miên và Lào **Ngoại giao Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh những hoạt động ngoại giao giữa
**Học viện Ngoại giao** (tiếng Anh là: Diplomatic Academy of Vietnam - DAV, tiền thân là: Trường Ngoại giao) là đơn vị sự nghiệp hệ công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân trực
**Tôn giáo Việt Nam thời Bắc thuộc** phản ánh sự du nhập, phát triền và hòa trộn giữa các tôn giáo và tín ngưỡng truyền thống với ngoại lai trên vùng lãnh thổ Việt Nam
**Thương mại Đại Việt thời Lê Sơ** đề cập tới những hoạt động buôn bán hàng hoá của nước Đại Việt từ năm 1428 đến năm 1527. ## Nội thương Hoạt động nội thương của
Biến động biên giới Việt - Trung, 1428 - 1895. **Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Lê trung hưng** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Lê trung hưng ở
**Kinh tế Đại Việt thời Lê sơ** phản ánh những vấn đề liên quan tới hoạt động kinh tế nước Đại Việt vào thời Lê sơ (1428-1527) trong lịch sử Việt Nam. Sau cuộc chiến
**Lịch sử của Giáo hội Công giáo Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1990** có nhiều điểm đặc thù riêng. Đây là giai đoạn 15 năm thứ hai kể từ khi thiết lập hàng
**Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất** (viết tắt là **GHPGVNTN**), thành lập vào tháng 1 năm 1964, là một trong những tổ chức Phật giáo tại Việt Nam, từng được nhà nước Việt
thumb|Sứ thần triều cống và chức sắc [[Chăm pa, Lan Xang, Ayutthaya, Taungoo, Demak, Khơme, Lan Na, Ba Tư, Lưu Cầu,... yết kiến triều đình nhà Lê ở Thanh Hóa (tranh thế kỷ 16)]] **Thương
**Văn học Việt Nam thời Tiền Lê** được nhiều nhà nghiên cứu xem là giai đoạn sơ khởi của nền văn học viết Việt Nam (để phân biệt với văn học dân gian, văn học
**Đối tác chiến lược, đối tác toàn diện** là cụm từ chỉ quan hệ ngoại giao giữa hai nước với nhau. Quan hệ từ đối tác song phương, đối tác khu vực tới đối tác
Hiện vẫn chưa định được chính xác thời điểm đạo Phật bắt đầu truyền vào Việt Nam và **Phật giáo Việt Nam** đã thành hình như thế nào. Một nghiên cứu cho rằng đạo Phật
thumb|Bộ Ngoại giao tại Hà Nội Việt Nam hiện nay, dưới chính thể **Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam** đến nay đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 trong 200 quốc
nhỏ|Trụ sở Giáo hội Phật giáo Việt Nam tại chùa Quán Sứ, Hà Nội **Giáo hội Phật giáo Việt Nam** là tổ chức Phật giáo toàn quốc của Việt Nam, là đại diện Tăng, Ni,
**Lịch sử Công giáo Việt Nam (1990–2005)** là một giai đoạn lịch sử kéo dài 15 năm, tiếp sau giai đoạn 15 năm khó khăn trước đó của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam,
nhỏ|phải|Tượng Phật ở [[chùa Long Sơn (Nha Trang)|chùa Long Sơn Nha Trang, dựng năm 1963. Pho tượng này có đặc điểm là khuôn mặt của Đức Phật được tạc theo nét mặt người Việt]] **Phật
**Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Mạc** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Mạc ở Việt Nam với nhà Minh của Trung Quốc xung quanh vấn đề biên giới
phải|Ải Lê Hoa trong bản đồ châu Thủy Vĩ thời kỳ 1397 - 1688, trên vùng biên giới Đại Việt - Đại Minh 1428-1644, và biên giới Đại Việt - Đại Thanh 1644-1688. **Ải Lê
**Tôn giáo Việt Nam thế kỷ 10** phản ánh sự phát triển và ảnh hưởng của các tôn giáo tại Việt Nam trong khoảng 100 năm từ sau nghìn năm Bắc thuộc, tức là thời
**Hành chính Việt Nam thời Tây Sơn** ánh bộ máy cai trị từ trung ương tới địa phương của nhà Tây Sơn từ năm 1778 đến năm 1802, không chỉ giới hạn trong phạm vi
**Hành chính Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh bộ máy cai trị từ trung ương tới địa phương của chính quyền nhà Nguyễn trong thời kỳ độc lập (1802-1884). Bộ máy cai trị của nhà
**Cục Lãnh sự** là cơ quan trực thuộc Bộ Ngoại giao, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Ngoại giao thực hiện chức năng quản lý nhà nước chuyên ngành về công
nhỏ|341x341px|Huy hiệu phủ Thủ tướng Singapore **Thủ tướng Singapore thăm Việt Nam** là các chuyến thăm của các Thủ tướng Singapore đến Việt Nam vào những thời điểm khác nhau và những chuyến đi đó
**Bắc thuộc** là danh từ chỉ thời kỳ Việt Nam bị đặt dưới quyền cai trị của các triều đại Trung Quốc, được coi như một đơn vị hành chính của Trung Quốc, tùy theo
**Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam** là một tổ chức xã hội tại Việt Nam, là một tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tuy thành viên của Ủy
**Thương mại Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh hoạt động ngoại thương và nội thương của Việt Nam dưới triều nhà Nguyễn thời kỳ độc lập, từ năm 1802 đến 1884. ## Điều kiện phát
**Hành chính Việt Nam thời Pháp thuộc** là hệ thống hành chính từ trung ương tới địa phương của người Pháp tại Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ từ năm 1884 đến năm 1945.
**Đặng Minh Khiêm** (鄧鳴謙, 1456?-1522?), tự **Trinh Dự**, hiệu **Thoát Hiên**, là danh thần và là danh sĩ Việt Nam thời Lê sơ. ## Thân thế Nguyên quán ông ở huyện Thiên Lộc, nay thuộc
**Hành chính Việt Nam thời Hồ** trong lịch sử Việt Nam phản ánh hệ thống chính quyền từ trung ương đến địa phương nước Đại Ngu từ năm 1400 đến năm 1407. Từ khi thái
**Đệ Nhất Cộng hòa** (1955–1963), còn được gọi là **Chính quyền Ngô Đình Diệm**, là chính thể của Việt Nam Cộng hòa được thành lập sau cuộc Trưng cầu dân ý năm 1955 ở miền
nhỏ|Huy Hiệu Hoa Sen**Gia đình Phật tử Việt Nam** (**GĐPTVN**) là một tổ chức giáo dục thanh thiếu niên được thành lập từ những năm 1940, mang danh xưng chính thức là Gia đình Phật
Sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập năm 1930, xung đột đảng phái bắt đầu xuất hiện. Điển hình là tranh cãi và bút chiến giữa Đảng Cộng sản, Việt Nam Quốc
**Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát** còn được gọi là **Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát** (tiếng Anh: Universal Periodic Review), viết tắt là UPR, là một cơ chế của Hội đồng Nhân
thumb|Logo kỷ niệm 40 năm quan hệ ngoại giao Đức-Việt vào năm 2015 Việt Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) và Cộng hòa Liên bang Đức (BRD) đã lập quan hệ ngoại giao vào
Một lớp học chữ Nho **Nho giáo** được xem là hệ tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài đến xã hội Việt Nam, là nền tảng đạo đức giáo dục con người,
Con dấu của Tổng thống Hoa Kỳ **Tổng thống Hoa Kỳ thăm Việt Nam** là các chuyến thăm của các Tổng thống Hoa Kỳ đến Việt Nam vào những thời điểm, hoàn cảnh khác nhau,
Tranh vẽ cảnh vua Lê thiết triều của Samuel Baron - thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVII. **Hành chính Đàng Ngoài thời Lê trung hưng**, hay còn gọi là **hành chính Đại Việt thời
**Văn hóa Lê–Mạc** (hoặc được khái quát hóa lên là **Thời đại Lê–Mạc** hay cụ thể hơn nữa là **Thời kỳ chuyển giao Lê–Mạc**) là một khái niệm mang tính tổng hợp dùng để chỉ
**Kinh tế Việt Nam thời Nam Bắc triều** phản ánh những vấn đề liên quan tới hoạt động kinh tế trong thời Nam Bắc triều (1527-1592) trên lãnh thổ nước Đại Việt đương thời. Thời
**Lịch sử Thánh nhạc Công giáo Việt Nam** nói về quá trình hình thành và phát triển của dòng nhạc Thánh ca Công giáo tại Việt Nam. ## Lịch sử Khi nói đến bài thánh
**Văn học thời Tây Sơn** là một giai đoạn của văn học Việt Nam vào cuối thế kỷ 18, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời Tây Sơn
**Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam** (tên giao dịch quốc tế: _Joint Stock Commercial Bank for Foreign Trade of Vietnam_) tên viết tắt: "**Vietcombank**", là ngân hàng lớn nhất trên thị trường chứng khoán