thumb|Tiền tệ nhà Nguyễn.
Tiền tệ Việt Nam thời Nguyễn phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông thời nhà Nguyễn độc lập (1802-1884) và những đồng tiền do nhà Nguyễn phát hành trong thời kỳ Pháp thuộc trong lịch sử Việt Nam.
Từ thời Đồng Khánh, thực dân Pháp đã phát hành những đồng tiền Đông Dương gồm các loại như tiền giấy và tiền kim loại với nhiều mệnh giá được lưu thông rộng rãi hơn tiền do triều đình phát hành rất nhiều. Vì thế ta thấy được sức ảnh hưởng của thực dân Pháp vẫn còn khá nhiều.
Ngoài những đồng tiền xu bằng đồng và kẽm được đúc để phục vụ cho tiêu dùng, Nhà Nguyễn còn cho đúc tiền thưởng bằng kim loại quý với các mệnh giá từ 0,5 tiền đến 1 lạng. Loại tiền này không được dùng trong lưu thông buôn bán, chúng được triều đình dùng để ban thưởng cho những người có công trạng như một dạng kỷ niệm chương hoặc huân chương. Trong tác phẩm Monnaies Impériales d'Annam, tác giả người Pháp Francois Joyaux cho rằng mục đích ban đầu của triều Nguyễn cho đúc đồng bạc thưởng Phi long là để cạnh tranh với đồng Real Tây Ban Nha (Mảnh tám) đang được lưu hành trong nước thông qua thương mại quốc tế. Họ cho đúc đồng Phi long bắt chước theo cả về hình dáng bên ngoài cũng như kim loại. Do đó chúng được dự định là để lưu hành. Tuy nhiên, đây chỉ là một hình thức suy luận của tác giả nước ngoài, chứ trong các sử liệu chính thống của Nhà Nguyễn không có nội dung nào nói về điểm này.
Tiền trong đời sống kinh tế - xã hội thời độc lập
So với các triều đại trước, tiền tệ nhà Nguyễn rất phong phú. Nhờ sự phát triển của thương mại, kinh tế hàng hóa trong nước sôi động. Ngoài những đồng tiền căn bản là tiền đồng và tiền kẽm, còn có cả vàng và bạc dùng trong lưu thông. Nhà Nguyễn không đủ nguyên liệu làm tiền đồng lưu thông trên toàn quốc nên phải phát hành cả tiền kẽm làm đồng tiền cơ bản.
Việc đúc tiền được Gia Long giao cho thương nhân người Trung Quốc thực hiện và trả công cho họ.
Sau khi đúc xong, tỷ giá đổi giữa tiền đồng và tiền kẽm qua các đời là:
Từ thời Gia Long thời Thiệu Trị: 1 tiền đồng = 1,2 đến 1,3 tiền kẽm
Từ thời Tự Đức: 1 tiền đồng = 1,3 đến 1,4 tiền kẽm
Càng về sau, tỷ giá giữa hai đồng tiền càng cách biệt và triểu đình không kiểm soát nổi vì các nguyên nhân sau.
Tiền đồng
Dựa vào trọng lượng, tiền đồng nhà Nguyễn chia làm hai loại lớn và nhỏ. Tiền nhỏ từ 5 phân 5 li tới dưới 9 phân, còn tiền lớn từ 9 phân trở lên. Thỉnh thoảng có những đợt đúc thử nghiệm những đồng tiền 7 phân hay 1 đồng cân, nhưng sau đó triều đình thấy không thích hợp nên không đúc nữa.
Tiền đồng nhà Nguyễn chia ba loại:
Loại tiền ghi rõ tỷ giá với tiền kẽm như lục văn, thập văn, các tiền Tự Đức bảo sao. Khi trị giá đồng tiền được đúc trên mặt gây những bất tiện về sau, đồng tiền sẽ được dân chúng ưa chuộng hoặc bị loại bỏ. Đây là đặc điểm chỉ bắt đầu có trong lịch sử tiền tệ Việt Nam từ thời Tự Đức.
Tiền kẽm chủ yếu đúc trong thời độc lập, gồm 4 triều vua đầu tiên là Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức:
Tiền cũ của nhà Tây Sơn, vì lưu lượng trong dân gian còn lưu hành rất nhiều nên không thể chấm dứt lưu hành ngay mà nhà Nguyễn cho phép lưu hành quá độ đến năm 1822 thì đổi sang tiền kẽm của nhà Nguyễn với tỷ lệ 2 đồng tiền đồng Tây Sơn = 1 đồng tiền kẽm nhà Nguyễn.
Tiền do dân đúc trộm là tư chú tiền. Do nạn đúc trộm tiền quá nhiều, khó ngăn chặn, từ năm 1849 Tự Đức buộc phải cho phép dân tự đúc tiền kẽm, nhưng phải theo đúng trọng lượng.
Tiền đồng, do thương nhân người Hoa đúc trộm là dị dạng tiền. Sau khi quân Pháp chiếm Nam Kỳ, tình hình càng hỗn loạn, thương nhân người Thanh lợi dụng làm tiền kém phẩm chất. Tự Đức ra lệnh khám xét các tàu buôn nhà Thanh, chặn các đồn ải để kiểm soát và cấm thương nhân di chuyển với số tiền quá lớn. Tới năm 1879, triều đình đành phải chấp nhận cho lưu hành dị dạng tiền (tiền đồng) ăn 3 tiền kẽm, với điều kiện đồng tiền đó khá giống đồng tiền Việt về phẩm lượng.
Thời Kiến Phúc, phụ chính Nguyễn Văn Tường nhận hối lộ của người Hoa, cho thương nhân nhà Thanh mang "tiền sềnh" niên hiệu Tự Đức của họ đúc sang, bắt nhân dân phải tiêu, ai không tiêu thì bắt tội. Tiền này rất xấu, quá mỏng và nhẹ (chỉ trên dưới 1 gram), có thể nổi trên mặt nước. Các giáo sĩ Công giáo nhân chuyện đồng tiền xấu đã tuyên truyền thêm trong dân về sự suy sụp của triều đình nhà Nguyễn. Một số người đã lầm đây là tiền gián của thế kỷ 17-18 như tiền Thiên Thánh hay An Pháp nguyên bảo, nhưng các nhà nghiên cứu khẳng định tiền gián thế kỷ 17-18 vẫn còn nặng hơn, không nổi trên mặt nước như tiền sềnh mà người Hoa mang sang cuối thế kỷ 19.
Tiền nhà Nguyễn thời Pháp thuộc
Từ năm 1883, Việt Nam chính thức bị Pháp đô hộ. Từ thời Đồng Khánh (1885-1888), tiền lưu thông trong nước là những đồng tiền "xu", tiền giấy "đồng" do Ngân hàng Đông Dương của người Pháp phát hành. Các đồng tiền do triều đình nhà Nguyễn phát hành chỉ được dùng như tiền lẻ lưu hành ở thôn quê. Tiền do triều đình Huế đúc ra không còn yếu tố quan trọng trong đời sống kinh tế như trước mà chỉ có tính tượng trưng.
Vua Đồng Khánh cho lập ra Cục Thông bảo để đúc tiền. Tiền Đồng Khánh lớn bằng đồng ăn 10 đồng tiền kẽm, 1 đồng tiền nhỏ ăn 6 đồng tiền kẽm.
Sang thời Khải Định, 1 đồng Khải Định ăn 6 đồng tiền kẽm. Tiền Khải Định được đúc nhiều đợt, trọng lượng không đều, có đồng nặng 6 phân, có đồng tới 7-8 phân. Từ thời Khải Định đến thời Bảo Đại, người Pháp cho làm tiền xu bằng máy rập, được gọi nôm na là "đồng trinh". Tiền đồng trinh Khải Định thông bảo và Bảo Đại thông bảo là hai đồng tiền duy nhất của chế độ phong kiến Việt Nam không phải là tiền đúc mà được dập bằng máy do Ngân hàng Đông Dương đảm nhận. Do làm bằng máy, những đồng tiền này chứa ít chất đồng hơn tiền đúc nhưng nét chữ sắc sảo hơn.
Đồng trinh Khải Định có giá trị bằng 1/200 đồng bạc Piastre của Ngân hàng Đông Dương, tức là nửa xu. So với tiền Khải Định thông bảo, tiền Bảo Đại thông bảo nhỏ hơn, chỉ có giá trị từ 1/600 tới 1/400 của 1 xu Đông Dương nên chỉ là tượng trưng, không có chức năng kinh tế nào cả
Ngoài các dạng phong thưởng như ngọc khánh, kim khánh, kim bôi hay sau này có thêm Đại Nam Long tinh thì triều Nguyễn còn xem tiền thưởng như một dạng ghi công trạng ở cấp trung ương dành cho công dân Đại Nam, dưới thời Pháp thuộc, triều đình cũng đã ban tiền thưởng cho một số quan chức người Pháp để ghi công họ.
Tiền thưởng được đúc chủ yếu dưới 3 chất liệu, gồm có: tiền thưởng đúc bằng vàng được gọi là "kim tiền", đúc bằng bạc gọi là "ngân tiền" và đúc bằng đồng gọi là "đồng tiền". Mặt trước của xu tiền thưởng thường có hình rồng năm móng, song long hoặc hổ phù... Mặt sau thường xuất hiện các mỹ từ bằng chữ Hán theo kiểu chữ Chân dễ đọc và rõ ràng nhầm cầu chúc. Tiền thưởng cũng được đúc với nhiều kích thước và trọng lượng khác nhau, đáp ứng phân loại công trạng. Những công trạng xếp ở "Đại hạng" sẽ nhận tiền thưởng 1 lạng; "Trung hạng" tiền thưởng sẽ nặng từ 5 tiền đến 7 tiền và "Tiểu hạng" nặng từ 0,5 tiền đến 4 tiền.
Giai đoạn cuối triều Nguyễn, tiền thưởng còn được dùng như một dạng huy chương tương tự kim khánh, kim bội... làm vật trang sức đeo cổ kèm một dải thùy anh bằng san hô, hay dải ruy băng bằng lụa màu để đeo ngực như biểu dương công trạng kèm 1 tờ lục chỉ đề rõ ngày cấp.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Tiền tệ nhà Nguyễn. **Tiền tệ Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông thời nhà Nguyễn độc lập (1802-1884) và những đồng tiền do nhà Nguyễn
**Tiền tệ Việt Nam thời Hồ** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào thời nhà Hồ (1400-1407) trong lịch sử Việt Nam. ## Tiền trong đời sống kinh tế
**Tiền tệ Việt Nam thời Bắc thuộc** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông thời Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam. ## Tiền tệ thời ngàn năm Bắc thuộc
**Tiền tệ Việt Nam thời Tiền Lê** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào thời nhà Tiền Lê (980-1009) trong lịch sử Việt Nam. ## Tiền trong đời sống
**Thủ công nghiệp Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh hoạt động thủ công nghiệp của Việt Nam dưới triều Nguyễn khi còn độc lập, từ năm 1802 đến 1884. ## Thủ công nghiệp nhà nước
**Nông nghiệp Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh chính sách ruộng đất và kết quả hoạt động nông nghiệp của Việt Nam dưới thời nhà Nguyễn khi còn độc lập, từ năm 1802 đến 1884.
**Thương mại Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh hoạt động ngoại thương và nội thương của Việt Nam dưới triều nhà Nguyễn thời kỳ độc lập, từ năm 1802 đến 1884. ## Điều kiện phát
**Hành chính Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh bộ máy cai trị từ trung ương tới địa phương của chính quyền nhà Nguyễn trong thời kỳ độc lập (1802-1884). Bộ máy cai trị của nhà
**Kinh tế Việt Nam thời Pháp thuộc** là một nền kinh tế thuộc địa phát triển rất nhanh dưới sự bảo hộ của Pháp. Việt Nam có tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn lương
**Kinh tế Việt Nam thời Nam Bắc triều** phản ánh những vấn đề liên quan tới hoạt động kinh tế trong thời Nam Bắc triều (1527-1592) trên lãnh thổ nước Đại Việt đương thời. Thời
**Kinh tế Việt Nam thời Hồng Bàng và An Dương Vương** phản ánh trình độ và hoạt động kinh tế Việt Nam từ thời dựng nước tới trước khi chịu sự cai trị trực tiếp
**Kinh tế Việt Nam thời Bắc thuộc lần thứ tư** trong lịch sử Việt Nam phản ánh hoạt động kinh tế trong 20 năm từ năm 1407 đến năm 1427, còn gọi là thời kỳ
**Kinh tế Việt Nam thời Bắc thuộc lần 2** có cơ cấu gồm các lĩnh vực: nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương mại. Từ đầu công nguyên, ngoài những nghề truyền thống nông nghiệp,
**Kinh tế Việt Nam thời Bắc thuộc lần 3** đã có những bước phát triển nhất định về ngành thủ công nghiệp. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của chính sách vơ vét hà khắc của
## LỊCH SỬ KINH TẾ VIỆT NAM ### Thời mở nước * Kinh tế Việt Nam thời Hồng Bàng và An Dương Vương ### Thời Bắc thuộc + Kinh tế Việt Nam thời Bắc thuộc
**Kinh tế Việt Nam** là một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát triển, phụ thuộc lớn vào nông nghiệp, du lịch, xuất khẩu thô và đầu tư trực
**Kinh tế Việt Nam giai đoạn 1976-1986** nằm trong bối cảnh thời bao cấp, đây là giai đoạn áp dụng mô hình kinh tế cũ ở miền Bắc cho cả nước sau khi thống nhất
phải|Bản đồ ấn hành năm 1829 ở Pháp vẽ biên cương nước Việt Nam bao gồm cả Cao Miên và Lào **Ngoại giao Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh những hoạt động ngoại giao giữa
**Hành chính Việt Nam thời Pháp thuộc** là hệ thống hành chính từ trung ương tới địa phương của người Pháp tại Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ từ năm 1884 đến năm 1945.
Tiền giấy mệnh giá 500 [[đồng Việt Nam Cộng hòa|đồng phát hành năm 1966]] **Kinh tế Việt Nam Cộng hòa** (1955-1975) là một nền kinh tế theo hướng thị trường, đang phát triển, và mở
Nước Đại Việt dưới **triều đại Tây Sơn**, có **quan hệ ngoại giao** với các nước Xiêm La và Trung Quốc ở triều Mãn Thanh. Nguyễn Huệ - tức Hoàng Đế Quang Trung - là
**Tiền tệ thời Trần** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào thời nhà Trần (1225-1400) trong lịch sử Việt Nam. ## Tiền trong đời sống kinh tế - xã
**Kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa** là nền kinh tế chỉ huy theo mô hình xã hội chủ nghĩa của Liên Xô được áp dụng ở phía bắc vĩ tuyến 17, trong khu
**Tiền tệ Đàng Trong thời Lê trung hưng** trong lịch sử Việt Nam phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông thuộc vùng đất do chúa Nguyễn quản lý. Từ đầu
Giao thông và liên lạc tại Việt Nam thời Quân chủ Việt Nam không được quan tâm nhiều và phát triển chậm, chủ yếu do những hạn chế và yếu kém về kỹ thuật. Về
nhỏ|320x320px|Tiền thông dụng thời Lê Trang Tông **Tiền tệ Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào thời nhà Lê trung hưng (1593-1789) trong
**Bộ Y tế Việt Nam** là cơ quan của Chính phủ Việt Nam, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, bao gồm các lĩnh
**Văn học Việt Nam thời Tiền Lê** được nhiều nhà nghiên cứu xem là giai đoạn sơ khởi của nền văn học viết Việt Nam (để phân biệt với văn học dân gian, văn học
**Hành chính Việt Nam thời Bắc thuộc lần 2** phản ánh những biến động về địa giới hành chính của Việt Nam từ năm 43 đến năm 541, qua tay 7 triều đại phong kiến
phải|Trạm y tế ở thôn quê [[chích ngừa cho trẻ em]] **Y tế Việt Nam Cộng hòa** là hệ thống cung cấp dịch vụ y khoa công cộng của Việt Nam Cộng hòa. Cơ cấu
**Hành chính Việt Nam thời Nam Bắc triều** phản ánh bộ máy chính quyền trung ương tới địa phương của hai triều đình Lê-Mạc từ năm 1527-1592 trong lịch sử Việt Nam. Bộ máy hai
**Bắc thuộc** là danh từ chỉ thời kỳ Việt Nam bị đặt dưới quyền cai trị của các triều đại Trung Quốc, được coi như một đơn vị hành chính của Trung Quốc, tùy theo
**Tôn giáo Việt Nam thời Bắc thuộc** phản ánh sự du nhập, phát triền và hòa trộn giữa các tôn giáo và tín ngưỡng truyền thống với ngoại lai trên vùng lãnh thổ Việt Nam
**Ngoại giao Việt Nam thời Lê sơ** phản ánh quan hệ ngoại giao của chính quyền nhà Lê sơ với các nước lân bang trong giai đoạn từ năm 1428 đến năm 1527 trong lịch
**Ngoại giao Việt Nam thời Đinh** phản ánh các hoạt động ngoại giao của chính quyền nhà Đinh từ năm 968 đến năm 979 trong lịch sử Việt Nam. ## Hoàn cảnh Năm 968, Đinh
**Ngoại giao Việt Nam thời Tự chủ** phản ánh các hoạt động ngoại giao giữa các Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân thời kỳ tự chủ Việt Nam (đầu thế kỷ 10 sau hơn 1000
**Hành chính Việt Nam thời Tiền Lê** phản ánh bộ máy chính quyền từ trung ương tới địa phương của Việt Nam từ năm 980 đến năm 1009 trong lịch sử Việt Nam. ## Chính
**Hành chính Việt Nam thời Hồ** trong lịch sử Việt Nam phản ánh hệ thống chính quyền từ trung ương đến địa phương nước Đại Ngu từ năm 1400 đến năm 1407. Từ khi thái
**Thủ công nghiệp Việt Nam thời Tiền Lê** phản ánh tình hình thủ công nghiệp nước Đại Cồ Việt từ năm 980 đến năm 1009 dưới thời Tiền Lê trong lịch sử Việt Nam. ##
**Hành chính Việt Nam thời Tự chủ** phản ánh bộ máy chính quyền từ trung ương tới địa phương của Việt Nam dưới thời Tự chủ trong lịch sử Việt Nam. ## Chính quyền trung
**Tiền Việt Nam** được phát hành lần đầu vào giữa thế kỷ 10, thời kỳ nhà nước Đại Cồ Việt dưới sự trị vì của Đinh Tiên Hoàng. Thời phong kiến, gần như mỗi đời
**Phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam** nhằm mục tiêu giành lại độc lập cho Việt Nam bắt đầu từ năm 1885 và kết thúc sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khi Đảng
**Kinh tế Việt Nam thời nhà Nguyễn** phản _ánh kết quả hoạt động của các_ ngành nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương mại Việt Nam dưới sự cai trị của nhà Nguyễn thời kỳ
**Đồng** (Mã giao dịch quốc tế: **VND**, ký hiệu: **₫** hoặc **đ**) là đơn vị tiền tệ của Việt Nam, do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành. Theo luật pháp hiện hành của
Việt Nam có một nền văn hóa đặc sắc, lâu đời và là một xã hội đã hình thành theo chế độ nhà nước sớm nhất ở khu vực Đông Nam Á. ## Hậu kỳ
**Văn học thời Tây Sơn** là một giai đoạn của văn học Việt Nam vào cuối thế kỷ 18, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời Tây Sơn
**Dự án đặc khu kinh tế 133** là ý kiến định hướng của Bộ chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam về việc thành lập các đặc khu hành chính - kinh tế tại Vân
**Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam** (_Vietnam Economic Association_ - **VEA**) ra đời năm 1974, tập hợp các nhà kinh tế học Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hoạt động đối ngoại, tham gia
**Thời kỳ Bắc thuộc lần 4** của Việt Nam kéo dài 20 năm, bắt đầu từ năm 1407 khi nhà Minh đánh bại nhà Hồ và chấm dứt năm 1427 khi Lê Lợi đánh đuổi
**Trung tâm Thông tin y tế Quốc gia** là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Y tế, có chức năng tổ chức xây dựng, vận hành khai thác cơ sở dữ liệu