✨Kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nền kinh tế chỉ huy theo mô hình xã hội chủ nghĩa của Liên Xô được áp dụng ở phía bắc vĩ tuyến 17, trong khu vực thuộc quyền kiểm soát của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ năm 1954 đến 1976. Mô hình này sau cũng được đem thực hiện ở cả phía nam vĩ tuyến 17, tức là trên toàn bộ lãnh thổ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, cho tới năm 1986 thì chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tiền giấy mệnh giá một [[đồng (tiền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa)|đồng phát hành năm 1958]]
Chủ trương của Đảng Lao động Việt Nam là phát triển kinh tế với hai mục tiêu: 1) Đưa Miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và 2) Miền Bắc là hậu phương của phong trào đấu tranh giải phóng Miền Nam.
Kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có ba thành phần chính: 1) nông nghiệp, 2) công nghiệp và thủ công nghệ, 3) thương nghiệp và viện trợ của quốc tế.
Trong giai đoạn 1955-1975, kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phát triển bình quân mỗi năm 6% (GDP đầu người bình quân năm tăng khoảng 3%), trong khi kinh tế Việt Nam Cộng hòa phát triển trung bình 3,9%/năm (bình quân đầu người tăng 0,8%). Tính trung bình cả nước thì GDP đầu người tăng 1,9%/năm.
Tổng quan
Trong thời kỳ 1955-1975, Việt Nam bị chia cắt làm hai phần, ở miền Bắc là chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, còn ở miền Nam tồn tại song song hai chính thể Việt Nam Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam.Tuy nhiên lãnh thổ miền Nam Việt Nam khi đó là chia làm 2 vùng: Việt Nam Cộng hòa kiểm soát và do Cộng hòa miền Nam Việt Nam kiểm soát, mỗi vùng có nền kinh tế riêng. Tuy nhiên, để việc tính toán trở nên đơn giản thì trong nhiều tài liệu kinh tế học cũng như trong bài viết này, tất cả hoạt động kinh tế ở phía Nam vĩ tuyến 17 sẽ được gọi là "kinh tế Việt Nam Cộng hòa".
Tổng sản phẩm nội địa (GDP) của Việt Nam Cộng hòa và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giai đoạn 1955-1975 được ghi tại bảng dưới đây (đơn vị: triệu USD, tính theo thời giá 2015).
Ở thời điểm 1956, Tổng sản phẩm nội địa (GDP) của Việt Nam Cộng hòa cao gấp 5 lần so với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Có sự chênh lệch lớn này là do lãnh thổ miền Bắc Việt Nam bị tàn phá nặng nề trong Chiến tranh Đông Dương, trong khi lãnh thổ miền Nam ít bị chiến tranh tàn phá hơn. Tuy nhiên, trong giai đoạn 1955-1970, khoảng cách này dần bị thu hẹp, đặc biệt là kể từ năm 1963, khi kinh tế Việt Nam Cộng hòa suy thoái nhiều năm liền. Đến năm 1972 trở về sau thì tổng sản phẩm nội địa (GDP) của Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa đã cao hơn so với Việt Nam Cộng hòa:
Giai đoạn đầu 1955-1963, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có mức tăng trưởng kinh tế cao (GDP bình quân đầu người tăng 1,7 lần). Giai đoạn thứ 2 là năm 1964 tới 1975, kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tăng trưởng bấp bênh bởi các chiến dịch ném bom của Hoa Kỳ cho đến khi chiến tranh kết thúc.
Giai đoạn II
Giai đoạn thứ nhì "tiến lên chủ nghĩa xã hội" của nông nghiệp bắt đầu năm 1958 sau khi Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam quyết nghị đẩy mạnh phong trào hợp tác xã. Theo đó, các tư liệu sản xuất như ruộng đất, trâu bò, cày bừa đều là sở hữu tập thể.
Tính đến cuối năm 1960 thì hơn 85,8% nông dân đã vào hợp tác xã sơ cấp, vượt chỉ tiêu của Đảng. Trên giấy tờ thì việc gia nhập hợp tác xã là hoàn toàn "tự nguyện" nhưng việc thực hành có phần áp đặt. Mười lăm năm sau, tức 1975 thì 93,1% nông dân ở Miền Bắc hoạt động kinh tế trong khuôn khổ hợp tác xã. Nông dân được quyền giữ lại 5% diện tích canh tác trong phạm vi gia đình còn 95% xung vào đất của hợp tác xã. Tuy nhiên diện tích 5% đó, có tên là "đất năm phần trăm" cung cấp 30-40% lợi nhuận cho xã viên. Mảnh đất tư canh 5% này sau chiếm 60-75% thu nhập của nông dân mặc dù phần đất này không được chính quyền hỗ trợ hay cung cấp vật liệu..
Giai đoạn 1960-1976, cho dù diện tích canh tác lớn rộng thêm nhưng năng suất nông nghiệp ở Miền Bắc giảm nhiều. Với các đợt oanh tạc của Mỹ, từ khoảng năm 1964 nông nghiệp bước vào thời kỳ rất khó khăn. Chiến tranh ảnh hưởng không nhỏ trên tiềm năng sản xuất nông nghiệp, hàng vạn thanh niên nhập ngũ, gây ra một giảm sút lớn lực lượng lao động nông nghiệp. Thêm vào đó, để đối phó với nhu cầu tối khẩn của chiến tranh, chính phủ phải cắt giảm ngân sách dành cho nông nghiệp đến mức còn không đủ cho việc sửa chữa máy móc nông cụ để duy trì mức sản lượng đã đạt từ trước. Quy ra từng đầu người thì số thóc giảm dần từ 335 kg/người (1959 thời điểm thực hiện hợp tác xã) xuống còn 254 kg/người phần vì dân số gia tăng nhanh (từ 13,5 triệu năm 1955 lên 24,55 triệu năm 1975) trong khi mức sản xuất trì trệ.
Hợp tác xã lúc đầu ở cấp thôn với vài chục hộ, sau gom lại lớn hơn ở cấp xã gồm hàng trăm hộ, canh tác khoảng 100 hécta. Thành viên hợp tác xã, gọi là "xã viên" đi làm được tính công điểm. Đến cuối hạn mùa gặt thì được chia khẩu phần và lợi nhuận theo số điểm. Hợp tác xã trở thành đơn vị sản xuất chính ở nông thôn. Nhưng sau khi chiến tranh kết thúc năm 1975, mô hình này bộc lộ nhiều yếu kém. Đơn vị kinh tế này không cung cấp được 50% thu nhập của xã viên. Nông dân lại trở thành người làm công cho hợp tác xã thay vì làm chủ. năm 1959 đặt tối đa 25%.
Tỉnh Vĩnh Phú năm 1966 đã cố gắng khai phá với hình thức khoán hộ, tục gọi là khoán chui để gia tăng sản xuất. Nông trường dưới sự sở hữu của nhà nước thuộc mô hình của giai đoạn thứ ba khi sở hữu tập thể chuyển sang quốc hữu hóa.
Công nghiệp
Sau chiến tranh chống Pháp, nền công nghiệp bị tàn phá và sút giảm mạnh (năm 1955 so với năm 1939, giá trị tổng sản lượng công nghiệp giảm 60,1%, sản lượng xi măng giảm 14,4%, than giảm 74,4%, muối giảm 33,5%, rượu giảm 65,3%...).
So với nông nghiệp, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chủ trương coi trọng công nghiệp nhất là dưới diện quốc doanh. Kế hoạch 5 năm 1961-1965 đề ra chỉ tiêu tăng sản lượng công nghiệp 150% so với năm 1960.
Vì được ưu tiên theo mô hình kinh tế của Liên Xô, ngành công nghiệp thu hút 49% vốn nhà nước so với 22% chi cho nông nghiệp. Trong ngành công nghiệp lại chia thành hai hạng: A và B. A là công nghiệp nặng như điện lực, luyện kim, hóa chất, và khoáng sản. Nhóm A chiếm 80% ngân sách. B là công nghiệp nhẹ dùng sản xuất các mặt hàng tiêu dùng, được chi 20%. Kết quả là công nghiệp phát triển mạnh mẽ, tăng trưởng 18% mỗi năm trong năm năm 1960-1964. Số công nhân cũng tăng lên hơn một triệu nhưng lại kéo theo nhu cầu lương thực trong khi nông nghiệp không đủ cung ứng. Ngoài ra vì chỉ tiêu sản xuất công nghiệp không căn cứ theo mức tiêu thụ nên một mặt gây ra thặng dư lãng phí trong khi hàng hóa khác thiếu hụt, khan hiếm. Vì chú tâm vào việc phát triển công nghiệp nặng trong khi công nghiệp nhẹ và nông nghiệp lại thiếu đầu tư, nền kinh tế thiếu quân bình khiến Trường Chinh sau phải nhận xét là "sai lầm ấu trĩ tả khuynh".
Năm 1958, nhà máy Chiến Thắng chế tạo thử nghiệm chiếc ôtô 4 chỗ ngồi đầu tiên do Việt Nam tự làm ra. Nó trông giống loại Matxcơvic của Liên Xô lúc bấy giờ. Chiếc Fregate chạy bằng xăng của Pháp được đem ra làm mẫu. Các bộ phận như thân máy, nắp máy, chế hòa khí, bơm xăng, bơm dầu được các thợ cơ khí tạo khuôn mẫu trước, sau đó đúc gang rồi mới đưa ra cắt gọt, gia công cơ khí cho thật tinh xảo. Có những chi tiết phải đúc đi, đúc lại rất nhiều lần mới thành công. Có một số chi tiết không thể làm được và phải lắp đồ ngoại là: nến điện, dây điện, hệ thống đồng hồ và chỉ thị, bóng điện, hệ thống kính, săm lốp và vòng bi. Tỷ lệ nội địa hóa của xe đạt tới 80%. Ngày 21/12/1958, chiếc xe "Chiến Thắng", chiếc xe ô tô đầu tiên của người Việt làm ra mang biển số QS-0001 chính thức rời xưởng, tuy nhiên đây chỉ là mẫu thử nghiệm chứ chưa từng được sản xuất đại trà. Ở miền Nam, phải tới năm 1969, chiếc La Dalat mới được hãng xe Citroën của Pháp chế tạo dựa trên mẫu mã của chiếc Méhari và chiếc Baby Brousse với tỷ lệ nội địa hóa 25% (các bộ phận chính như máy, tay lái, bộ nhún, bộ thắng, khung xe thì vẫn phải nhập).
Năm 1957, mức sản xuất công nghiệp miền Bắc đã vượt đến 2,7 lần mức sản xuất trong năm 1955 và khôi phục lại được mức sản xuất cao nhất thời Pháp thuộc (năm 1938). Tổng sản lượng công nghiệp trong thời kỳ 1955-60 ước tính tăng 37% mỗi năm.
Trong Kế hoạch 5 năm 1961-1965, công nghiệp được Nhà nước ưu tiên đầu tư vốn để phát triển. Trong công nghiệp nặng, xây dựng xong khu gang thép Thái Nguyên có công suất 20 vạn tấn/năm, các nhà máy nhiệt điện Uông Bí, thủy điện Thác Bà, phân đạm Bắc Giang, supe phosphat Lâm Thao... Trong công nghiệp nhẹ, có các khu công nghiệp Việt Trì, Thượng Đình (Hà Nội), các nhà máy Vạn Điểm, sứ Hải Dương, pin Vạn Điền, dệt 8-3... Công nghiệp quốc doanh chiếm tỉ trọng 93,1% trong tổng giá trị sản lượng công nghiệp toàn miền Bắc, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Ở địa phương, có hàng trăm xí nghiệp được xây dựng để hỗ trợ cho công nghiệp trung ương và giải quyết nhu cầu tại chỗ.
Tính chung, sản lượng công nghiệp nặng năm 1965 tăng 3 lần so với 1960, công nghiệp quốc doanh chiếm tỷ trọng 93% tổng giá trị sản lượng công nghiệp miền Bắc. Công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp giải quyết 80% nhu cầu hàng tiêu dùng thiết yếu của nhân dân. Xây dựng 100 cơ sở sản xuất mới và nhiều nhà máy, khu công nghiệp được mở rộng. Đến năm 1965 đã xây dựng được 1.132 xí nghiệp công nghiệp quốc doanh. Nhiều khu công nghiệp phát triển và hình thành ở Hà Nội, Hải Phòng, Việt Trì, Thái Nguyên, Nam Định, Vinh, Hồng Quảng.
Sang thời kỳ 1965-1975, giai đoạn không quân Mỹ tiến hành oanh tạc, mức tăng trưởng công nghiệp giảm mạnh, chỉ còn 3.9% mỗi năm. Xét riêng giai đoạn 1960-1975 thì ngoài công nghệ nặng như than, điện lực, gang sắt tăng 2-8 lần, mức tăng trưởng cho các mặt hàng khác khá khiêm tốn. Bình quân đầu người một số mặt hàng tiêu dùng như chiếu, vải, diêm quẹt lại sụt giảm. Giai đoạn này, thay vì khuếch đại đầu tư vào các công trình mới, đường lối phát triển công nghiệp đặt trọng tâm vào việc bảo tồn thiết bị sẵn có và nâng cao năng suất để duy trì mức sản xuất. Để đối phó với các đợt bỏ bom của Mỹ, chính phủ đã bố trí, phân tán công nhân và thiết bị vào các vị trí bí mật với quy mô nhỏ rải rác khắp nơi. Tổng sản lượng công nghiệp duy trì ở mức cố định cho đến năm 1970 và bắt đầu trở lại khuynh hướng gia tăng từ năm 1971 khi tình hình chiến tranh thuyên giảm. Số liệu chính thức cho thấy giá trị hàng công nghiệp tăng gấp ba lần từ năm 1960 đến 1975, nhưng vì các cơ sở sản xuất phải phân tán do chiến tranh và các tuyến vận tải bị đánh phá nên giá thành bị đẩy lên cao, không thể xuất khẩu ra thị trường quốc tế mà chủ yếu cung cấp cho nội địa. Trong thời gian 15 năm, xét về 17 mặt hàng công nghiệp đó thì ba thứ: điện, sắt, và bia là tăng gấp 3 lần hoặc hơn; sáu mặt hàng tăng ở mức thấp còn tám mặt hàng sản xuất lại giảm.
Tính tổng giai đoạn 1955-1975 thì giá trị tổng sản lượng công nghiệp năm 1975 tăng gấp 16,6 lần năm 1955, bình quân tăng mỗi năm 14,7%. Hầu hết các sản phẩm công nghiệp tính bình quân đầu người năm 1975 đã đạt mức cao hơn nhiều so với năm 1955, trong đó: điện gấp 13,8 lần, than 4,8 lần, xi măng 25,2 lần, giấy 14,5 lần, vải 4,8 lần, đường 4 lần. Năm 1975 miền Bắc đã có 1.335 xí nghiệp công nghiệp quốc doanh, tăng 323 xí nghiệp so với năm 1960. Một số ngành công nghiệp nặng có năng lực sản xuất khá lớn. Vị trí của công nghiệp trong tổng sản phẩm xã hội tăng từ 32,7% năm 1960 lên 42,6% năm 1975; thu nhập quốc dân từ 18,2% lên 28,7% trong 15 năm tương ứng. Mãi đến năm 1986 thì thủ công nghiệp mới được khuyến kích trở lại để phát triển theo mô hình gia đình và các làng nghề truyền thống.
Thương nghiệp
Ngoại thương
Ngoại thương của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gặp nhiều trở ngại ở cả ba khâu nguyên liệu, vận chuyển và sản xuất. Ngạch xuất khẩu vào thời điểm trước năm 1954 quy ra trị giá 96 triệu rúp Liên Xô, đến năm 1966 giảm xuống còn 90 triệu năm rồi tụt xuống 45 triệu năm 1967 khi Hoa Kỳ mở chiến dịch ném bom Miền Bắc. Xuất khẩu cao nhất xấp xỉ 100 triệu Rúp. Trong khi đó nhập khẩu riêng trong thời gian 1965-1967 đứng ở 974 triệu Rúp.
Than đá là món hàng chính xuất khẩu để đổi lấy ngoại tệ. Khi chiến cuộc càng tăng thì nhu cầu tiêu thụ than ở quốc nội cũng tăng khiến chính phủ đề nghị chuyển sang các mặt hàng khác như cà phê và trà. Ngoài mậu dịch trao đổi với các nước Xã hội chủ nghĩa, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa còn nhắm vào các thị trường Hương Cảng, Singapore và Campuchia để xuất khẩu.
Mậu dịch quốc nội
Tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội năm 1975 so với năm 1955 tăng gấp 7,8 lần; kim ngạch xuất khẩu tăng 21,3 lần; kim ngạch nhập khẩu tăng 11,8 lần. Tỷ lệ xuất khẩu so với nhập khẩu tăng từ 9,1% năm 1945 lên 17,0% năm 1955; riêng thời kỳ 1958-1964 đạt tỷ lệ 63,7%. Phải đến giữa năm 1974, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới xây dựng lại được nền kinh tế với tổng sản lượng bằng mức năm 1965.
Viện trợ
Ngay từ năm 1957, thu nhập từ thuế của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không đủ cung cấp 50% chi tiêu ngân sách nhà nước. Khi cường độ cuộc chiến Việt Nam leo thang thì kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bị dao động mạnh. Chi phí cho chiến cuộc tiêu hao một phần rất lớn ngân sách. Những năm 1965-67, viện trợ của riêng hai nước Liên Xô và Trung Quốc chiếm 60% chi tiêu ngân sách. Khoản viện trợ kinh tế lên tới 68,9% ngân sách quốc gia năm 1968 và tình trạng phụ thuộc viện trợ kéo dài sang thập niên 1970. Vào thời điểm năm 1974, ngay trước khi chiến tranh kết thúc thì tổng thu nội địa chỉ trang trải 39,4% chi tiêu. Còn lại là 60,6% ngân sách nhà nước trông vào viện trợ kinh tế của khối xã hội chủ nghĩa.
Ngay từ tháng 7 năm 1955 trong chuyến sang Bắc Kinh, Hồ Chí Minh đã được Chu Ân Lai giao khoản viện trợ trị giá 88 triệu Nhân dân tệ để xây nhà máy xi măng Hải Phòng, trạm phát điện Hà Nội và xưởng dệt Nam Định. Liên Xô viện trợ 400 triệu Rúp (tương đương 100 triệu USD) để phục hồi và phát triển công nghiệp.
Nguồn viện trợ lớn nhất vào thập niên 1960 là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ngoài ra Việt Nam Dân chủ Cộng hòa còn nhận viện trợ vật liệu cùng vũ khí để tiến hành chiến tranh. Tài liệu CIA của Hoa Kỳ đưa ra những con số ước tính trong biểu đồ. Còn theo thống kê của VNDCCH thì giá trị viện trợ họ nhận được thấp hơn nhiều so với ước tính của Mỹ. Ví dụ trong 2 năm 1973-1974, Hoa Kỳ ước tính viện trợ quân sự là 730 triệu USD, nhưng theo thống kê của VNDCCH thì thực tế chỉ có 330 triệu USD, bằng 40% so với ước tính của Mỹ. Tài liệu Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thì ghi nhận rằng 1971-1973 Bắc Kinh viện trợ cho Hà Nội chín tỷ nhân dân tệ. Theo Lê Đức Thọ thì viện trợ kinh tế của khối Xã hội Chủ nghĩa, gồm mọi hình thức cho vay lẫn không hoàn lại, mỗi năm xê dịch từ 270 triệu USD đến một tỷ USD.
Tổng cộng qua 20 năm, Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa đã viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổng khối lượng hàng hóa là 2.362.581 tấn; quy đổi thành tiền là hơn 7 tỉ rúp (tương đương 7 tỉ USD, trong đó hơn một nửa là viện trợ quân sự).
Tiền tệ
nhỏ|Mặt trước tiền giấy 5000 đồng, phát hành năm 1953
Ngày 31 tháng 1, 1946 chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho phát hành tiền tệ riêng. Tiền này thay thế đơn vị đồng bạc Đông Dương piastre của chính quyền bảo hộ với giá trị tương đương 1:1.
Đổi tiền 1951, 1953
Ngày 6 tháng 5, 1951 thành lập Ngân hàng Quốc gia. Cơ quan này lãnh phần phát hành tiền tệ đưa vào lưu hành một loạt tiền mới, tục gọi là "tiền ngân hàng". Tỷ giá là 1 đồng ngân hàng = 10 đồng tài chính Sang tháng 1 năm 1953 thì phá giá tiền cũ, ấn định lại là 1 đồng ngân hàng = 100 đồng tài chính.
Năm 1954 sau khi tiếp thu Hà Nội đồng tiền này đã trở thành tiền tệ chính thức của quốc gia mới. Hối suất với piastre lưu hành ở phía nam vĩ tuyến 17 là 32 đồng Bắc Việt Nam = 1 piastre hay đồng Nam Việt Nam.
Đổi tiền 1959
Ngày 28 tháng 2 năm 1959 Chính quyền phát lệnh đổi tiền, thay loạt tiền phát hành năm 1951 bằng loạt tiền mới với tỷ giá 1 đồng 1959 = 1000 đồng năm 1951. Đơn vị tiền tệ thay đổi theo tỷ lệ một đồng tiền mới ăn một nghìn đồng tiền cũ. Chính phủ quy định giá trị hàng hóa không thay đổi, nghĩa là một đồng tiền mới vẫn mua được số hàng giá trị bằng một nghìn đồng tiền cũ. Dù vậy khi triển khai, hậu quả lạm phát khiến giá cả tăng vọt vẫn diễn ra (thuật ngữ kinh tế gọi là Lạm phát do kì vọng: việc đổi tiền thường làm tâm lý dân chúng dao động, chuyển từ giữ tiền sang tích trữ hàng hóa, đẩy lạm phát lên cao dù thực chất cung tiền và chi phí sản xuất không tăng).
Tiến hành
Đài phát thanh loan tin lệnh đổi tiền từ 9 giờ sáng ngày 28 tháng 2 cho đến 5 giờ chiều ngày 2 tháng 3 thì chấm dứt. Thời gian ngắn ngủi được áp dụng theo chính quyền thì là để "ngăn chặn đầu cơ, tung tiền tích trữ hàng hóa", nhưng theo Harvey Henry Smith thì cũng triệt hạ tài sản tích lũy. Những người đi xa có tiền cất ở nhà mà không có điều kiện đổi kịp, thì phải báo cho cơ quan chính quyền hay Ngân hàng biết rõ để cấp giấy chứng nhận. Khi trở về, phải đến ngay Ngân hàng trình giấy chứng nhận để đổi.
Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không thả nổi theo giá thị trường mà được ấn định theo cơ chế kinh tế chỉ huy. Vào thập niên 1950 chính quyền còn chỉ định tỷ giá hối đoá giữa tiền tệ của miền Nam Việt Nam ở phía nam vĩ tuyến 17 và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Theo đó thì từ năm 1955 đến 1959, tiền của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mất 57,2% giá trị. Tỷ giá hối đoái với tiền rúp Liên Xô được quy định lại vào năm 1961 là 3,27 đồng = 1 rúp rồi sang năm 1967 là 1,92 đồng. Theo chiều hướng đó hai chính phủ Liên Xô và VNDCCH muốn tăng cường năng lực bao cấp của nhà nước nhưng cũng có hậu quả tiêu cực là tình trạng nhập siêu vì hàng ngoại quốc càng thêm rẻ cho dù nó không phản ảnh sức mua thực của đồng tiền. Cũng theo lệ đó nhà nước ấn định hối suất đối với Đô la Mỹ là 3,53 đồng = 1 USD vào năm 1967.
Vào ngày 3 tháng 5 năm 1978, sau khi hoàn toàn thống nhất mọi mặt đất nước, đồng đã được thống nhất. 1 đồng mới = 1 VNDCCH = 0,8 Đồng Giải phóng.