Văn học thời Tây Sơn là một giai đoạn của văn học Việt Nam vào cuối thế kỷ 18, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời Tây Sơn từ năm 1788 đến năm 1802.
Với chủ trương của vua Quang Trung không phải là chỉ dùng chữ Nôm làm phương tiện tuyên truyền chính sách, mà ông muốn dùng chữ Nôm làm một lợi khí để xây dựng một nền học thuật Việt Nam, nên thời kỳ này văn, thơ chữ Nôm đặc biệt phát triển.
Do hoàn cảnh lịch sử, trong cùng thời gian cuối thế kỷ 18 có nhiều biến động và sự tồn tại song song của nhiều chính thể, trong số những tác gia thời Tây Sơn là những người vốn hoạt động trong thời Hậu Lê hoặc là người tiếp tục sáng tác trong thời nhà Nguyễn sau này.
Thơ văn chữ Nôm
Vua Quang Trung không những chỉ muốn khí dụng gì cũng chẳng mua của nước Tàu, mà ông còn muốn đến văn tự cũng không mượn của Trung Quốc nữa. Ông lấy chữ Nôm làm quốc ngữ, trong các kỳ thi Hương đến kỳ đệ tam, các sĩ tử phải làm thơ phú bằng chữ Nôm, thứ chữ được coi là chính thức của dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ. Năm 1792, nhà vua lập Sùng chính thư viện ở Nghệ An, cử Nguyễn Thiếp làm viện trưởng để tổ chức việc dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm gồm có Tiểu học, Tứ thư, Kinh Thi, Kinh Dịch, trong đó Tiểu học và Tứ thư đã được dịch xong.
Hịch Tây Sơn được xem là một trong những tác phẩm tiêu biểu, sáng tác khi quân Tây Sơn tiến ra Bắc diệt chúa Trịnh với danh nghĩa "phù Lê", với lời lẽ vạch tội ác của họ Trịnh và nêu lên chính nghĩa của quân Tây Sơn. Nội dung bài Hịch Tây Sơn không mang tính chính thống như Hịch Lê Duy Mật, song lại bao hàm ý chí mang lại thái bình cho đất nước cùng việc giúp vua Lê.
Sau Hịch Tây Sơn, bài ca Ai tư vãn của hoàng hậu Lê Ngọc Hân và bài tế vua Quang Trung của Phan Huy Ích, Phú tụng Tây Hồ của Nguyễn Huy Lượng là những bài trong số ít những tác phẩm chữ Nôm còn lại của thời kỳ này.
Ai tư vãn của Bắc cung hoàng hậu Lê Ngọc Hân là bài thơ khóc vua Quang Trung sau cái chết đột ngột của ông. Bài thơ đề cao sự nghiệp của Quang Trung, được đánh giá là bài thơ trường thiên có giá trị trong kho tàng văn học Việt Nam (Viện Sử học, sách đã dẫn).
Trong số những bài văn tế trong Dụ Am văn tập của Phan Huy Ích ghi chép, được các nhà nghiên cứu xác định rằng có thể là tập hợp những bài tế của cả vua Cảnh Thịnh, những người con khác của vua Quang Trung và bà Nguyễn Thị Huyền (mẹ Lê Ngọc Hân) làm.
Phú tụng Tây Hồ của Nguyễn Huy Lượng được xem là tác phẩm tiêu biểu với đề tài ca ngợi đất nước dưới triều Tây Sơn, được sáng tác trong hoàn cảnh vua Quang Trung vừa đánh đuổi quân Thanh. Bài phú được đánh giá là có những lời văn điêu luyện và truyền tụng nhiều trong giới văn sĩ Bắc Hà.
Ngoài những tác phẩm đứng về phía triều đại, thời Tây Sơn do hoàn cảnh lịch sử có những tác giả phản kháng, điển hình là Hoàng Quang với Hoài Nam ca khúc. Hoàng Quang đứng trên lập trường theo chúa Nguyễn chống Tây Sơn, nội dung bài ca biểu thị lòng nuối tiếc cựu triều.
Thơ văn chữ Hán
Khuynh hướng của thơ văn chữ Hán thời Tây Sơn chủ yếu là hiện thực, lạc quan và bi quan bảo thủ, phản ánh hiện trạng xã hội lúc đó.
Hiện thực
Tiêu biểu cho khuynh hướng phê phán hiện thực là Nguyễn Du. Sau thời kỳ làm quan cho nhà Hậu Lê, ông đã bỏ về ở ẩn; sau đó đến thời Tây Sơn tuy không nhận lời làm quan cho nhà Tây Sơn nhưng có giúp việc cho Viện Sùng chính. Tác phẩm ông để lại gồm 100 bài thơ trong tập Hạnh Am thi cảo, phản ánh tâm tư của ông: chán thế sự từ thời trẻ, không muốn theo đuổi công danh sự nghiệp. Thơ của ông phản ánh sự bất lực của kẻ sĩ trước thời cuộc.
Nguyễn Du đã trốn tránh không ra làm quan với nhà Tây Sơn, sáng tác tập thơ Nam Trung tạp ngâm, phản ánh tiếng nói của người bất đắc chí. Ông nêu rõ mâu thuẫn xã hội giữa giàu và nghèo, giữa thống trị và bị trị với những lời lẽ thông cảm sâu sắc - Viện Sử học, sách đã dẫn.
Lạc quan
Những tác gia tiêu biểu cho khuynh hướng ủng hộ triều đại Tây Sơn là Ngô Thì Nhậm, Ninh Tốn, Vũ Huy Tấn, Phan Huy Ích...
Ngô Thì Nhậm bỏ nhà Hậu Lê ra làm quan với nhà Tây Sơn. Ông có vai trò lớn trong công tác ngoại giao với nhà Thanh để lập lại hòa bình sau cuộc chiến giữa hai nước. Ông là tác giả nhiều văn thư ngoại giao của nhà Tây Sơn với nhà Thanh.
Ninh Tốn đề cao vai trò của Nho sĩ, thể hiện niềm tin vào cuộc sống hiện tại. Tác phẩm ông để lại là Chuyết Am thi tập.
Vũ Huy Tấn là Thượng thư Bộ Công nhà Tây Sơn. Tác phẩm của ông có Hoa trình tùy bộ tập, tập hợp những bài thơ trong những lần đi sứ. Lời thơ ông thể hiện ý thâm trầm, lời lẽ thanh thoát, chứa đựng niềm lạc quan yêu đời. Trong lần đi sứ phương bắc, ông đã đáp lại những câu thơ khinh miệt của viên lại mục nhà Thanh, không chịu để nhục quốc thể - Viện Sử học, sách đã dẫn.
Phan Huy Ích làm Thượng thư Bộ Lễ nhà Tây Sơn, để lại Dụ Am văn tập và Dụ Am thi tập. Trong số các tác phẩm của ông cũng có tập hợp những bài thơ đi sứ nhà Thanh năm 1789. Mặc dù cuộc đời lắm gian truân nhưng Phan Huy Ích không thể hiện sự bất mãn. Lời thơ ông chứa đựng sự lạc quan, tin tưởng, coi việc bỏ triều Lê - Trịnh theo Tây Sơn là lẽ thường tình – Viện Sử học, sách đã dẫn.
Bi quan
Sự buồn chán trước thế sự biểu hiện trong một số nhà thơ thời kỳ này, tiêu biểu là:
- Trần Danh Án với Liễu Am Tán ông thi tập (hay Bảo Triện Trần tiên sinh thi tập)
- Phạm Quý Thích với Thảo đường thi nguyên tập, Hoa đường Phạm Lập Trai di thảo
- Nguyễn Hành với Quan hải thi tập, Minh quyên thi phả, Thiên địa nhân vật sự thi
Thơ của những tác giả này chứa đựng sự u uất, băn khoăn của thi sĩ quý tộc trước thời cuộc. Phần lớn họ xuất thân từ tầng lớp quan lại quý tộc đang bị sa sút, không muốn nhìn thấy sự đổi thay của thời thế mà hoài vọng vị thế trước đây của gia đình, dòng tộc - Viện Sử học, sách đã dẫn.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Văn học thời Tây Sơn** là một giai đoạn của văn học Việt Nam vào cuối thế kỷ 18, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời Tây Sơn
**Hành chính Việt Nam thời Tây Sơn** ánh bộ máy cai trị từ trung ương tới địa phương của nhà Tây Sơn từ năm 1778 đến năm 1802, không chỉ giới hạn trong phạm vi
**Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954** gắn liền với hai sự kiện có ảnh hưởng căn bản và sâu rộng đến mọi mặt của đời sống chính trị, xã hội Việt Nam:
**Viện Văn học (Việt Nam)** (tên giao dịch quốc tế: _(Vietnam) Institute of Literature_, viết tắt là IOL) là tổ chức khoa học và công nghệ công lập trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học
**_Ai tư vãn_** (chữ Hán: 哀思挽) là một tác phẩm trong văn chương Việt Nam, viết bằng chữ Nôm. Người ta tương truyền bài thơ này là do Bắc Cung Hoàng hậu Lê Ngọc Hân
**Văn học Đàng Trong thời Lê trung hưng** là một giai đoạn của văn học Việt Nam, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời nhà Lê trung hưng
thumb|right|Tây Sơn Dynasty coinage in the National Museum of Vietnamese History, (2018)|Tiền tệ Tây Sơn. **Tiền tệ Đại Việt thời Tây Sơn** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào
**Giáo dục khoa cử thời Tây Sơn** trong lịch sử Việt Nam phản ánh hệ thống trường học và chế độ khoa cử nước Đại Việt từ năm 1778 đến năm 1802 trong vùng đất
Một số đặc trưng của văn hóa Việt Nam: [[Phụ nữ Việt Nam với áo tứ thân, áo dài, nón quai thao đang chơi các nhạc cụ , Hắc cô như đàn bầu, tam thập
**Văn học đời Lê sơ** là một giai đoạn văn học Việt Nam dưới thời kỳ đầu nhà Hậu Lê nước Đại Việt từ năm 1428 đến năm 1527. ## Khái quát Các thể loại
**Triết học Việt Nam** là những tư tưởng triết học của người Việt. Trong suốt lịch sử Việt Nam nếu theo tiêu chí của một nền triết học là phải có triết gia, triết thuyết
**Bắc thuộc** là danh từ chỉ thời kỳ Việt Nam bị đặt dưới quyền cai trị của các triều đại Trung Quốc, được coi như một đơn vị hành chính của Trung Quốc, tùy theo
**Hành chính Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh bộ máy cai trị từ trung ương tới địa phương của chính quyền nhà Nguyễn trong thời kỳ độc lập (1802-1884). Bộ máy cai trị của nhà
Đây là **biên niên sử Việt Nam thời kỳ 1945–1975**, thời kì gắn liền với Chiến tranh Việt Nam. ## Thập niên 1940 ### 1945 *Năm 1945: Nạn đói gây ra cái chết của 2
**Nông nghiệp Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh chính sách ruộng đất và kết quả hoạt động nông nghiệp của Việt Nam dưới thời nhà Nguyễn khi còn độc lập, từ năm 1802 đến 1884.
**Kinh tế Việt Nam thời Hồng Bàng và An Dương Vương** phản ánh trình độ và hoạt động kinh tế Việt Nam từ thời dựng nước tới trước khi chịu sự cai trị trực tiếp
**Hành chính Việt Nam thời Pháp thuộc** là hệ thống hành chính từ trung ương tới địa phương của người Pháp tại Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ từ năm 1884 đến năm 1945.
**Kinh tế Việt Nam thời Bắc thuộc lần 1** chủ yếu dựa vào nông nghiệp, có sự tiếp thu kỹ thuật từ phương Bắc trong sản xuất thủ công nghiệp và chịu ảnh hưởng của
**Đoàn Văn nghệ Việt Nam** là lực lượng xung kích thuộc Cục Tâm lý chiến, Tổng cục Chiến tranh Chính trị, Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa. ## Lịch sử ###
**Tôn giáo Việt Nam thời Bắc thuộc** phản ánh sự du nhập, phát triền và hòa trộn giữa các tôn giáo và tín ngưỡng truyền thống với ngoại lai trên vùng lãnh thổ Việt Nam
Phần lãnh thổ nhà Mạc và [[nhà Lê trung hưng quản lý vào năm 1590]] **Ngoại giao Việt Nam thời Mạc** phản ánh những hoạt động ngoại giao dưới triều đại nhà Mạc ở Đại
**Tân nhạc**, **nhạc tân thời**, **nhạc cải cách** hay **nhạc nhẹ** là tên gọi thông dụng của dòng nhạc xuất hiện tại Việt Nam vào khoảng năm 1928. Tân nhạc là một phần của **âm
Việt Nam có một nền văn hóa đặc sắc, lâu đời và là một xã hội đã hình thành theo chế độ nhà nước sớm nhất ở khu vực Đông Nam Á. ## Hậu kỳ
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1787–1802)** là giai đoạn thứ hai của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Giai đoạn này bắt đầu khi Nguyễn Ánh trở về tái chiếm Gia
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn** là một phần của nội chiến ở Đại Việt thời gian nửa cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19. Đây là cuộc chiến diễn ra chủ
**Khuông Việt** (匡越, 933-1011) trước tên là **Ngô Chân Lưu** (吳真流), tu chùa Phật Đà, làng Cát Lợi, Thường Lạc (nay là Vệ Linh, Sóc Sơn, Hà Nội). Sư là người Cát Lợi, hậu duệ
**Văn hóa Lê–Mạc** (hoặc được khái quát hóa lên là **Thời đại Lê–Mạc** hay cụ thể hơn nữa là **Thời kỳ chuyển giao Lê–Mạc**) là một khái niệm mang tính tổng hợp dùng để chỉ
thumb|right|Các vùng của Việt Nam, không bao gồm [[Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của miền Trung Việt Nam.|411x411px]]thumb|Bản đồ [[Nam Tiến của người Việt để xâm chiếm nước Chăm-pa và Khmer (Campuchia)|343x343px]] **Miền
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1771–1785)** là giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Cuộc chiến tranh này bắt đầu khi các lực lượng nổi dậy của 3
**Văn hóa Lý–Trần** (hoặc ở mức độ cao hơn nữa là **Văn minh Lý–Trần**, hoặc được khái quát hóa lên là **Thời đại Lý–Trần**) là một khái niệm mang tính tổng hợp dùng để chỉ
Công ty TNHH Tư vấn QP Việt Nam là công ty tư vấn quốc tế về đầu tư, phát triển dự án, truyền thông - quan hệ công chúng và tối ưu hóa quản lý
Công ty TNHH Tư vấn QP Việt Nam là công ty tư vấn quốc tế về đầu tư, phát triển dự án, truyền thông - quan hệ công chúng và tối ưu hóa quản lý
**Tây Hồ phú** hay còn gọi là **Tụng Tây Hồ Phú** hoặc **Tây Hồ cảnh tụng**, là một bài phú của Nguyễn Huy Lượng ca ngợi cảnh Hồ Tây, thông qua đó ca ngợi sự
**Việt Nam**, quốc hiệu đầy đủ là **Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam**, là một quốc gia nằm ở cực Đông của bán đảo Đông Dương thuộc khu vực Đông Nam Á, giáp
**Công giáo tại Việt Nam** là một bộ phận của Giáo hội Công giáo, dưới sự lãnh đạo tinh thần của các giám mục tại Việt Nam, hiệp thông với giáo hoàng. Với số tỉ
**_Bình Ngô đại cáo_** (chữ Hán: 平吳大誥) là một bài cáo viết bằng chữ Hán do Nguyễn Trãi soạn thảo vào năm 1428, thay lời Bình Định Vương Lê Lợi để tuyên cáo về việc
thumb|Khoa bảng Nam Định, 1897 **Khoa bảng Việt Nam** là chế độ khoa cử thời quân chủ tại Việt Nam. Ở thời thượng cổ, sử nước Việt không chép rõ về cách tuyển lựa trí
Một số đặc trưng của nghệ thuật Việt Nam: [[Phụ nữ Việt Nam với áo tứ thân, áo dài, nón quai thao đang chơi các nhạc cụ như đàn bầu, tam thập lục, đàn tứ,
**Âm nhạc Việt Nam** là hệ thống tác phẩm âm nhạc tại Việt Nam. Đây là một phần của lịch sử và văn hóa Việt Nam. Âm nhạc Việt Nam phản ánh những nét đặc
phải|nhỏ|300x300px|Hổ phân bố ở Việt Nam là [[Hổ Đông Dương, hiện loài này đang thuộc nhóm nguy cấp]] **Hình tượng con hổ** hay **Chúa sơn lâm** đã xuất hiện từ lâu đời và gắn bó
**Nghệ sĩ chèo ở Việt Nam** là những người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật sân khấu chèo, gồm những nghệ sĩ chuyên nghiệp trong các nhà hát chèo và các nghệ nhân không
**Đảng Cộng sản Việt Nam** là đảng cầm quyền và là chính đảng duy nhất được phép hoạt động tại Việt Nam theo Hiến pháp. Theo Cương lĩnh và Điều lệ chính thức hiện nay,
**Ngô gia văn phái** (, thế kỷ XVIII - thế kỷ XIX) có 2 nghĩa: # Là một nhóm các nhà văn Việt Nam thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, huyện
**Đánh giá người Việt Nam** là những đánh giá và nhận xét về tư duy, tính cách, tâm lý và tập quán của người Việt Nam qua các thời kỳ khác nhau đã được một
nhỏ|Trụ sở Giáo hội Phật giáo Việt Nam tại chùa Quán Sứ, Hà Nội **Giáo hội Phật giáo Việt Nam** là tổ chức Phật giáo toàn quốc của Việt Nam, là đại diện Tăng, Ni,
Một lớp học chữ Nho **Nho giáo** được xem là hệ tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài đến xã hội Việt Nam, là nền tảng đạo đức giáo dục con người,
**Lịch sử của Giáo hội Công giáo Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1990** có nhiều điểm đặc thù riêng. Đây là giai đoạn 15 năm thứ hai kể từ khi thiết lập hàng
**Tự Lực văn đoàn** (chữ Hán: , tiếng Pháp: ) là tổ chức văn học mang tính hội đoàn, một nhóm nhà văn đã tạo nên một trường phái văn học, một phong trào cách
Mặt tiền tòa nhà hành chính của [[Viện Đại học Sài Gòn, cơ sở giáo dục đại học lớn nhất tại Việt Nam Cộng hòa, hình chụp năm 1961.]] **Nền giáo dục Việt Nam Cộng
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Hanoi_Temple_of_Literature.jpg|nhỏ|Quần thể di tích [[Văn Miếu – Quốc Tử Giám tại Hà Nội, bao gồm cả Quốc Tử Giám (國子監), trường đại học đầu tiên của Việt Nam]] Bài viết liệt kê danh sách các