✨Lê Quý Đôn
Lê Quý Đôn (chữ Hán: 黎貴惇, 2 tháng 8 năm 1726 – 11 tháng 6 năm 1784), tên lúc nhỏ là Lê Danh Phương, tự Doãn Hậu (允厚), hiệu Quế Đường (桂堂), là vị quan thời Lê trung hưng, cũng là nhà thơ và được mệnh danh là "nhà bác học lớn của Việt Nam trong thời phong kiến".
Tác phẩm của Lê Quý Đôn thống kê có tới 40 bộ, bao gồm hàng trăm quyển, nhưng một số bị mối mọt ăn mất. nhỏ|Bức tượng Lê Quý Đôn tại thành phố Hồ Chí Minh
Thân thế và sự nghiệp
Ông sinh ngày 5 tháng 7 năm Bính Ngọ (2 tháng 8 năm 1726) tại phường Bích Câu, Thăng Long, việc học hành, làm quan và thực hiện nghiên cứu, sáng tác khoa học chủ yếu cũng tại Thăng Long.
Quê gốc của tổ tiên ông tại làng Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam, nay là thôn Đồng Phú thuộc xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
Ông là con trai cả của ông Lê Phú Thứ (sau đổi là Lê Trọng Thứ), đỗ Tiến sĩ năm Bảo Thái thứ 2 (Giáp Thìn, 1721) và làm quan trải đến chức Hình bộ Thượng thư, tước Nghĩa Phái hầu. Ông Lê Trọng Thứ sinh năm 1694 và có hiệu là Trúc Am. Tổ tiên vốn là họ Lý ở huyện Đông Ngàn, trấn Kinh Bắc. Vì tránh nạn nên gia đình ông dời về ở xã Vị Dương (nay là huyện Thái Thụy, Thái Bình). Về sau gia đình ông lại đến ngụ cư ở xã Diên Hà, huyện Hưng Hà cùng tỉnh. Mẹ Lê Quý Đôn tên Trương Thị Ích, là con gái thứ ba của Trương Minh Lượng, đỗ Tiến sĩ khoa Canh Thìn (1700), trải nhiều chức quan, tước Hoằng Phái hầu.
Ba lần đỗ đầu
Thuở nhỏ, Lê Quý Đôn là người ham học, thông minh, có trí nhớ tốt, được người đương thời coi là "thần đồng". Năm lên 5 tuổi, ông đã đọc được nhiều bài trong Kinh Thi. Năm 12 tuổi, ông đã học "khắp kinh, truyện, các sử, các sách của bách gia chư tử".
Năm 1743 (Quý Hợi, đời vua Lê Hiển Tông), ông dự thi Hương và đỗ đầu (Giải nguyên) lúc 18 tuổi. Sau khi đỗ Giải nguyên năm 1743, vì không muốn trùng tên với Nguyễn Danh Phương (1690 – 1751), một thủ lĩnh nông dân đang nổi lên chống triều đình, nên ông đã đổi tên là Lê Quý Đôn. Sau đó, ông cưới bà Lê Thị Trang ở phường Bích Câu làm vợ. Bà là con gái thứ 7 của Lê Hữu Kiều, Tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1718).
Tuy đỗ đầu khoa thi Hương, nhưng thi Hội mấy lần ông đều không đỗ. Ông ở nhà dạy học và viết sách trong khoảng 10 năm (1743-1752). Sách Đại Việt thông sử (còn gọi là "Lê triều thông sử") được ông làm trong giai đoạn này (Kỷ Tỵ, 1749).52), ông lại dự thi Hội, và lần này thì đỗ Hội nguyên. Vào thi Đình, ông đỗ luôn Bảng nhãn. Vì kỳ thi này không lấy đỗ Trạng nguyên nên kể như cả ba lần thi ông đều đỗ đầu.
Làm quan
Sau khi đỗ đại khoa, năm Quý Dậu (1753), Lê Quý Đôn được bổ làm Thị thư ở Viện Hàn lâm, rồi sung làm Toản tu quốc sử vào mùa xuân năm Giáp Tuất (1754).
Năm Bính Tý (1756), ông được cử đi thanh tra ở trấn Sơn Nam, phát giác "6, 7 viên quan ăn hối lộ". Tháng 5 năm đó, ông được biệt phái sang phủ Chúa coi việc quân sự (chức Tri Binh phiên). Ba tháng sau, ông được cử đi hiệp đồng các đạo Sơn Tây, Tuyên Quang, Hưng Hóa... rồi đem quân đi đánh quân của Hoàng Công Chất.
Năm Đinh Sửu (1757), ông được thăng làm Hàn lâm viện Thị giảng. Trong năm này ông viết Quần thư khảo biện.
Đi sứ nhà Thanh
Năm Kỷ Mão (1759), vua Lê Ý Tông mất, triều đình cử ông làm Phó sứ, tước Dĩnh Thành bá, để cùng với Trần Huy Mật, Trịnh Xuân Chú cầm đầu phái đoàn sang nhà Thanh (Trung Quốc) báo tang và nộp cống (1760). Trên đường sang Yên Kinh (nay là Bắc Kinh), Lê Quý Đôn thấy các quan lại nhà Thanh có thói quen gọi đoàn sứ của Đại Việt là "di quan, di mục" (quan lại mọi rợ), ông lên tiếng phản đối, từ đấy họ mới gọi là "An Nam cống sứ". Việc đáng kể nữa trong chuyến đi sứ này đó là ông đã được các quan lớn triều Thanh như Binh bộ Thượng thư Lương Thi Chinh, Công bộ Thượng thư Quy Hữu Quang và nhiều nho thần khác tìm đến thăm.
Đặc biệt, khi đến làm lễ ở điện Hồng Lô, Lê Quý Đôn gặp đoàn sứ thần Triều Tiên do Hồng Khải Hi (洪启禧 – 홍계희) đứng đầu (còn có Triệu Vinh Tiến 趙榮進 và Lý Huy Trung 李徽中). Sau đó, ông đã làm thơ với họ và cho họ xem ba tác phẩm của mình là Thánh mô hiền phạm lục, Quần thư khảo biện và Tiêu Tương bách vịnh. Tài văn chương và ứng đáp của ông làm cho họ "phải tôn trọng", "phải khen ngợi".
Một trong số các bài thơ Lê Quý Đôn giao lưu với các sứ thần Triều Tiên:
Biên soạn sách
Trở về nước (Nhâm Ngọ, 1762), ông được thăng chức Thừa chỉ Viện Hàn lâm, rồi làm Học sĩ ở Bí thư các để duyệt kỹ sách vở, Ngô Thì Sĩ giữ chức Chính tự. Sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục viết rằng:
Bổ dụng Nguyễn Bá Lân và Lê Quý Đôn sung làm học sĩ trong Bí thư các, để duyệt kỷ sách vở, chọn người có văn học là bọn Ngô Thì Sĩ sung giữ chức chính tự trong các.
Năm Quý Mùi (1763), ông viết Bắc sứ thông lục. Trong khoảng thời gian 10 năm (1763-1772), Lê Quý Đôn nhiều lần được cử coi thi Hội.
Năm Giáp Thân (1764), ông dâng sớ xin thiết lập pháp chế, vì thấy một số quan lại lúc bấy giờ "đã quá lạm dụng quyền hành, giày xéo lên pháp luật", nhưng không được chúa nghe. Cũng trong năm đó, ông được cử làm Đốc đồng xứ Kinh Bắc, rồi đổi làm Tham chính xứ Hải Dương (Ất Dậu, 1765), song ông dâng sớ không nhận chức và xin về hưu.
Sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục viết rằng: Cũng theo Phan Huy Chú, năm 1760, cha vợ ông Đôn là Lê Hữu Kiều mất. Năm sau (1761), vợ ông Đôn là Lê Thị Trang (sinh năm 1733) cũng mất vì bệnh lao khi chưa đầy 30 tuổi, và đã có sáu con. Theo nhà nghiên cứu Bùi Hạnh Cẩn, Lê Quý Đôn từ quan là vì thấy nhà chúa mỗi ngày thêm sa đà vào các việc vui chơi, muốn bổ ông đi trấn cõi ngoài để không còn phải nghe những lời can ngăn của ông, chứ không hẳn là vì nỗi buồn riêng về vợ con.
Đầu năm Đinh Hợi (1767), chúa Trịnh Doanh qua đời, Trịnh Sâm lên nối ngôi. Nghe theo lời tâu của Nguyễn Bá Lân, chúa cho triệu Lê Quý Đôn về triều, phong làm chức Thị thư, tham gia biên tập quốc sử, kiêm Tư nghiệp Quốc tử giám, lên vua Lê Hiển Tông đọc. Tháng 9 năm đó, ông được cử làm Tán lý quân vụ trong đội quân của Nguyễn Phan (tước Phan Phái hầu) đi dẹp cuộc nổi dậy của Lê Duy Mật ở Thanh Hóa. Năm Mậu Tý (1768), ông làm xong bộ Toàn Việt thi lục, dâng lên chúa Trịnh. Năm Kỷ Sửu (1769), ông dâng khải xin lập đồn điền khẩn hoang ở Thanh Hóa.
Năm Canh Dần (1770), bàn đến công lao đánh dẹp, ông được thăng làm Hữu thị lang bộ Hộ kiêm Thiêm đô Ngự sử. Mùa thu năm ấy, ông và Đoàn Nguyễn Thục nhận lệnh đi khám duyệt hộ khẩu ở xứ Thanh Hóa. Xong việc trở về, ông tâu xin tha bớt các thuế thổ sản, thủy sản cho các huyện và thuế thân còn thiếu. Chúa Trịnh liền giao cho triều đình bàn và thi hành. Ít lâu sau, ông được thăng Tả thị lang bộ Lại. Khi lãnh trọng trách này, ông có tâu trình lên bốn điều, được chúa khen ngợi, đó là:
Sửa đổi đường lối bổ quan.
Sửa đổi chức vụ các quan.
Sửa đổi thuế khóa nhà nước.
Sửa đổi phong tục của dân.
Sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục viết rằng: Tại đây, ông soạn bộ Phủ biên tạp lục. Ít lâu sau, ông được triệu về làm Thị lang bộ Hộ kiêm chức Đô ngự sử. Năm Mậu Tuất (1778), ông được cử giữ chức Hành tham tụng, nhưng ông từ chối và xin đổi sang võ ban. Chúa Trịnh chấp thuận, cho ông làm Tả hiệu điểm, quyền Phủ sự (quyền như Tể tướng, tạm coi việc phủ chúa), tước Nghĩa Phái hầu. Tháng 4 năm đó, Lê Thế Toại dâng bài khải công kích Lê Quý Đôn. Năm sau (1779), ông lại bị Hoàng Văn Đồng tố cáo, nên bị giáng chức. Tháng 7, năm 1779, thổ tù Hoàng Văn Đồng làm phản, triều đình sai Nguyễn Lệ, Nguyễn Phan đi đánh, Văn Đồng xin hàng. Sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục chép rằng:
"Văn Đồng cáo tố rõ tình trạng sách nhiễu của Quý Đôn và Xuân Hán. Lệ đem việc này tâu về triều, bọn Quý Đôn đều can tội, phải giáng chức".Năm Tân Sửu (1781), ông lại được giữ chức Tổng tài Quốc sử quán.
Tháng 9 năm Nhâm Dần (1782), chúa Trịnh Sâm qua đời, Trịnh Cán được nối ngôi chúa. Chỉ vài tháng sau, quân tam phủ nổi loạn giết chết Quận Huy (Hoàng Đình Bảo), phế bỏ Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ (vợ chúa Trịnh Sâm, mẹ Trịnh Cán), lập Trịnh Khải làm chúa. Nhớ lại hiềm riêng, Nguyễn Khản nói với chúa Trịnh Khải giáng chức Lê Quý Đôn.
Đầu năm Quý Mão (1783), ông nhận lệnh đi làm Hiệp trấn xứ Nghệ An. Ít lâu sau, ông được triệu về triều làm Thượng thư bộ Công.
Qua đời
Trong bối cảnh kiêu binh gây rối, triều chính rối ren, nhân dân đói khổ,... Lê Quý Đôn lâm bệnh nặng. Sau đó, ông xin về quê mẹ là làng Nguyễn Xá (huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam) để chữa trị, nhưng không khỏi. Ông mất ngày 14 tháng 4 năm Giáp Thìn niên hiệu Cảnh Hưng thứ 45 (tức 11 tháng 6 năm 1784),
Nhận xét
Lê Quý Đôn là một "nhà bác học ham đọc, ham biết và ham viết", là "một nhà bác học có kiến thức hết sức uyên bác và đa dạng".
- Phố Lê Quý Đôn ở Thành phố Uông Bí
- Phố Lê Quý Đôn ở Thành phố Hạ Long
- Phố Lê Quý Đôn ở Thị xã Quảng Yên
- Phố Lê Quý Đôn, phường Bạch Đằng, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
- Phố Lê Quý Đôn, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Phố Lê Quý Đôn, phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.
- Phố Lê Quý Đôn, phường Kinh Bắc, tỉnh Bắc Ninh (mới).
Công trình
Tên Lê Quý Đôn được dùng để đặt tên cho nhiều trường học ở khắp nước Việt Nam như:
- Trường Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn ở Hà Nội
- Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn, Đà Nẵng
- Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn, Bình Định
- Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn, Vũng Tàu
- Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn, Ninh Thuận
- Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn, Khánh Hòa
- Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn, Quảng Trị
- Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn, Điện Biên
- Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn, Lai Châu
- Trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn, Thành phố Hồ Chí Minh
- Trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn – Đống Đa, Hà Nội
- Trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn, Thái Bình
- Trường THPT Lê Quý Đôn − Thành phố Cẩm Phả, Quảng Ninh
- Trường THPT Lê Quý Đôn – Hải Phòng
- Trường THPT Lê Quý Đôn – Thành phố Tam Kỳ, Quảng Nam
- Trường THPT Lê Quý Đôn – Hà Tĩnh
- Trường THPT Lê Quý Đôn – Hòa Bình
- Trường THPT Lê Quý Đôn – Thành phố Biên Hòa, Đồng Nai
- Trường THPT Lê Quý Đôn – quận Hà Đông, Hà Nội
- Trường THCS Lê Quý Đôn – quận Cầu Giấy, Hà Nội
- Trường THCS Lê Quý Đôn – Thành phố Vị Thanh, Hậu Giang
- Trường THPT Lê Quý Đôn – Thành phố Ngã Bảy, Hậu Giang
- Trường THPT Lê Quý Đôn – Long An
- Trường THPT Lê Quý Đôn – Đắk Nông
- Trường THPT Lê Quý Đôn – Bắc Ninh
- Trường THCS Lê Danh Phương – Hưng Hà, Thành phố Thái Bình
- Trường THCS Lê Quý Đôn – Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh
- Trường THCS Lê Quý Đôn – Thành phố Bắc Giang, Bắc Giang
- Trường THCS Lê Quý Đôn – Hải Dương
- Trường THCS Lê Quý Đôn – Thành phố Sóc Trăng, Sóc Trăng
- Trường THCS Lê Quý Đôn – Lào Cai
- Trường THCS Lê Quý Đôn – huyện Ý Yên, Nam Định
- Trường THCS Lê Quý Đôn – huyện Mộc Châu, Sơn La
- Trường THCS Lê Quý Đôn, phường Phúc Lợi, quận Long Biên, Hà Nội
- Trường Tiểu học Lê Quý Đôn, Thành phố Mỹ Tho, Tiền Giang
- Trường THPT Lê Quý Đôn – Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk
- Trường THPT Lê Quý Đôn, Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh
- Trường Tiểu học Lê Quý Đôn, huyện Đăk Tô, Kon Tum
- Trường Tiểu học Lê Quý Đôn, quận Long Biên, thành phố Hà Nội *Trường THCS Lê Quý Đôn, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
Tên ông còn được dùng để đặt cho một tàu buồm huấn luyện của Hải quân Nhân dân Việt Nam: tàu HQ-286 Lê Quý Đôn.