✨Lê Quý Đôn

Lê Quý Đôn

Lê Quý Đôn (chữ Hán: 黎貴惇, 2 tháng 8 năm 1726 – 11 tháng 6 năm 1784), tên lúc nhỏ là Lê Danh Phương, tự Doãn Hậu (允厚), hiệu Quế Đường (桂堂), là vị quan thời Lê trung hưng, cũng là nhà thơ và được mệnh danh là "nhà bác học lớn của Việt Nam trong thời phong kiến".

Tác phẩm của Lê Quý Đôn thống kê có tới 40 bộ, bao gồm hàng trăm quyển, nhưng một số bị mối mọt ăn mất. nhỏ|Bức tượng Lê Quý Đôn tại thành phố Hồ Chí Minh

Thân thế và sự nghiệp

Ông sinh ngày 5 tháng 7 năm Bính Ngọ (2 tháng 8 năm 1726) tại phường Bích Câu, Thăng Long, việc học hành, làm quan và thực hiện nghiên cứu, sáng tác khoa học chủ yếu cũng tại Thăng Long.

Quê gốc của tổ tiên ông tại làng Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam, nay là thôn Đồng Phú thuộc xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

Ông là con trai cả của ông Lê Phú Thứ (sau đổi là Lê Trọng Thứ), đỗ Tiến sĩ năm Bảo Thái thứ 2 (Giáp Thìn, 1721) và làm quan trải đến chức Hình bộ Thượng thư, tước Nghĩa Phái hầu. Ông Lê Trọng Thứ sinh năm 1694 và có hiệu là Trúc Am. Tổ tiên vốn là họ Lý ở huyện Đông Ngàn, trấn Kinh Bắc. Vì tránh nạn nên gia đình ông dời về ở xã Vị Dương (nay là huyện Thái Thụy, Thái Bình). Về sau gia đình ông lại đến ngụ cư ở xã Diên Hà, huyện Hưng Hà cùng tỉnh. Mẹ Lê Quý Đôn tên Trương Thị Ích, là con gái thứ ba của Trương Minh Lượng, đỗ Tiến sĩ khoa Canh Thìn (1700), trải nhiều chức quan, tước Hoằng Phái hầu.

Ba lần đỗ đầu

Thuở nhỏ, Lê Quý Đôn là người ham học, thông minh, có trí nhớ tốt, được người đương thời coi là "thần đồng". Năm lên 5 tuổi, ông đã đọc được nhiều bài trong Kinh Thi. Năm 12 tuổi, ông đã học "khắp kinh, truyện, các sử, các sách của bách gia chư tử".

Năm 1743 (Quý Hợi, đời vua Lê Hiển Tông), ông dự thi Hương và đỗ đầu (Giải nguyên) lúc 18 tuổi. Sau khi đỗ Giải nguyên năm 1743, vì không muốn trùng tên với Nguyễn Danh Phương (1690 – 1751), một thủ lĩnh nông dân đang nổi lên chống triều đình, nên ông đã đổi tên là Lê Quý Đôn. Sau đó, ông cưới bà Lê Thị Trang ở phường Bích Câu làm vợ. Bà là con gái thứ 7 của Lê Hữu Kiều, Tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1718).

Tuy đỗ đầu khoa thi Hương, nhưng thi Hội mấy lần ông đều không đỗ. Ông ở nhà dạy học và viết sách trong khoảng 10 năm (1743-1752). Sách Đại Việt thông sử (còn gọi là "Lê triều thông sử") được ông làm trong giai đoạn này (Kỷ Tỵ, 1749).52), ông lại dự thi Hội, và lần này thì đỗ Hội nguyên. Vào thi Đình, ông đỗ luôn Bảng nhãn. Vì kỳ thi này không lấy đỗ Trạng nguyên nên kể như cả ba lần thi ông đều đỗ đầu.

Làm quan

Sau khi đỗ đại khoa, năm Quý Dậu (1753), Lê Quý Đôn được bổ làm Thị thư ở Viện Hàn lâm, rồi sung làm Toản tu quốc sử vào mùa xuân năm Giáp Tuất (1754).

Năm Bính Tý (1756), ông được cử đi thanh tra ở trấn Sơn Nam, phát giác "6, 7 viên quan ăn hối lộ". Tháng 5 năm đó, ông được biệt phái sang phủ Chúa coi việc quân sự (chức Tri Binh phiên). Ba tháng sau, ông được cử đi hiệp đồng các đạo Sơn Tây, Tuyên Quang, Hưng Hóa... rồi đem quân đi đánh quân của Hoàng Công Chất.

Năm Đinh Sửu (1757), ông được thăng làm Hàn lâm viện Thị giảng. Trong năm này ông viết Quần thư khảo biện.

Đi sứ nhà Thanh

Năm Kỷ Mão (1759), vua Lê Ý Tông mất, triều đình cử ông làm Phó sứ, tước Dĩnh Thành bá, để cùng với Trần Huy Mật, Trịnh Xuân Chú cầm đầu phái đoàn sang nhà Thanh (Trung Quốc) báo tang và nộp cống (1760). Trên đường sang Yên Kinh (nay là Bắc Kinh), Lê Quý Đôn thấy các quan lại nhà Thanh có thói quen gọi đoàn sứ của Đại Việt là "di quan, di mục" (quan lại mọi rợ), ông lên tiếng phản đối, từ đấy họ mới gọi là "An Nam cống sứ". Việc đáng kể nữa trong chuyến đi sứ này đó là ông đã được các quan lớn triều Thanh như Binh bộ Thượng thư Lương Thi Chinh, Công bộ Thượng thư Quy Hữu Quang và nhiều nho thần khác tìm đến thăm.

Đặc biệt, khi đến làm lễ ở điện Hồng Lô, Lê Quý Đôn gặp đoàn sứ thần Triều Tiên do Hồng Khải Hi (洪启禧 – 홍계희) đứng đầu (còn có Triệu Vinh Tiến 趙榮進 và Lý Huy Trung 李徽中). Sau đó, ông đã làm thơ với họ và cho họ xem ba tác phẩm của mình là Thánh mô hiền phạm lục, Quần thư khảo biệnTiêu Tương bách vịnh. Tài văn chương và ứng đáp của ông làm cho họ "phải tôn trọng", "phải khen ngợi".

Một trong số các bài thơ Lê Quý Đôn giao lưu với các sứ thần Triều Tiên:

Biên soạn sách

Trở về nước (Nhâm Ngọ, 1762), ông được thăng chức Thừa chỉ Viện Hàn lâm, rồi làm Học sĩ ở Bí thư các để duyệt kỹ sách vở, Ngô Thì Sĩ giữ chức Chính tự. Sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục viết rằng:

Bổ dụng Nguyễn Bá Lân và Lê Quý Đôn sung làm học sĩ trong Bí thư các, để duyệt kỷ sách vở, chọn người có văn học là bọn Ngô Thì Sĩ sung giữ chức chính tự trong các.

Năm Quý Mùi (1763), ông viết Bắc sứ thông lục. Trong khoảng thời gian 10 năm (1763-1772), Lê Quý Đôn nhiều lần được cử coi thi Hội.

Năm Giáp Thân (1764), ông dâng sớ xin thiết lập pháp chế, vì thấy một số quan lại lúc bấy giờ "đã quá lạm dụng quyền hành, giày xéo lên pháp luật", nhưng không được chúa nghe. Cũng trong năm đó, ông được cử làm Đốc đồng xứ Kinh Bắc, rồi đổi làm Tham chính xứ Hải Dương (Ất Dậu, 1765), song ông dâng sớ không nhận chức và xin về hưu.

Sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục viết rằng: Cũng theo Phan Huy Chú, năm 1760, cha vợ ông Đôn là Lê Hữu Kiều mất. Năm sau (1761), vợ ông Đôn là Lê Thị Trang (sinh năm 1733) cũng mất vì bệnh lao khi chưa đầy 30 tuổi, và đã có sáu con. Theo nhà nghiên cứu Bùi Hạnh Cẩn, Lê Quý Đôn từ quan là vì thấy nhà chúa mỗi ngày thêm sa đà vào các việc vui chơi, muốn bổ ông đi trấn cõi ngoài để không còn phải nghe những lời can ngăn của ông, chứ không hẳn là vì nỗi buồn riêng về vợ con.

Đầu năm Đinh Hợi (1767), chúa Trịnh Doanh qua đời, Trịnh Sâm lên nối ngôi. Nghe theo lời tâu của Nguyễn Bá Lân, chúa cho triệu Lê Quý Đôn về triều, phong làm chức Thị thư, tham gia biên tập quốc sử, kiêm Tư nghiệp Quốc tử giám, lên vua Lê Hiển Tông đọc. Tháng 9 năm đó, ông được cử làm Tán lý quân vụ trong đội quân của Nguyễn Phan (tước Phan Phái hầu) đi dẹp cuộc nổi dậy của Lê Duy Mật ở Thanh Hóa. Năm Mậu Tý (1768), ông làm xong bộ Toàn Việt thi lục, dâng lên chúa Trịnh. Năm Kỷ Sửu (1769), ông dâng khải xin lập đồn điền khẩn hoang ở Thanh Hóa.

Năm Canh Dần (1770), bàn đến công lao đánh dẹp, ông được thăng làm Hữu thị lang bộ Hộ kiêm Thiêm đô Ngự sử. Mùa thu năm ấy, ông và Đoàn Nguyễn Thục nhận lệnh đi khám duyệt hộ khẩu ở xứ Thanh Hóa. Xong việc trở về, ông tâu xin tha bớt các thuế thổ sản, thủy sản cho các huyện và thuế thân còn thiếu. Chúa Trịnh liền giao cho triều đình bàn và thi hành. Ít lâu sau, ông được thăng Tả thị lang bộ Lại. Khi lãnh trọng trách này, ông có tâu trình lên bốn điều, được chúa khen ngợi, đó là:

Sửa đổi đường lối bổ quan.

Sửa đổi chức vụ các quan.

Sửa đổi thuế khóa nhà nước.

Sửa đổi phong tục của dân.

Sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục viết rằng: Tại đây, ông soạn bộ Phủ biên tạp lục. Ít lâu sau, ông được triệu về làm Thị lang bộ Hộ kiêm chức Đô ngự sử. Năm Mậu Tuất (1778), ông được cử giữ chức Hành tham tụng, nhưng ông từ chối và xin đổi sang võ ban. Chúa Trịnh chấp thuận, cho ông làm Tả hiệu điểm, quyền Phủ sự (quyền như Tể tướng, tạm coi việc phủ chúa), tước Nghĩa Phái hầu. Tháng 4 năm đó, Lê Thế Toại dâng bài khải công kích Lê Quý Đôn. Năm sau (1779), ông lại bị Hoàng Văn Đồng tố cáo, nên bị giáng chức. Tháng 7, năm 1779, thổ tù Hoàng Văn Đồng làm phản, triều đình sai Nguyễn Lệ, Nguyễn Phan đi đánh, Văn Đồng xin hàng. Sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục chép rằng:

"Văn Đồng cáo tố rõ tình trạng sách nhiễu của Quý Đôn và Xuân Hán. Lệ đem việc này tâu về triều, bọn Quý Đôn đều can tội, phải giáng chức".
Năm Tân Sửu (1781), ông lại được giữ chức Tổng tài Quốc sử quán.

Tháng 9 năm Nhâm Dần (1782), chúa Trịnh Sâm qua đời, Trịnh Cán được nối ngôi chúa. Chỉ vài tháng sau, quân tam phủ nổi loạn giết chết Quận Huy (Hoàng Đình Bảo), phế bỏ Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ (vợ chúa Trịnh Sâm, mẹ Trịnh Cán), lập Trịnh Khải làm chúa. Nhớ lại hiềm riêng, Nguyễn Khản nói với chúa Trịnh Khải giáng chức Lê Quý Đôn.

Đầu năm Quý Mão (1783), ông nhận lệnh đi làm Hiệp trấn xứ Nghệ An. Ít lâu sau, ông được triệu về triều làm Thượng thư bộ Công.

Qua đời

Trong bối cảnh kiêu binh gây rối, triều chính rối ren, nhân dân đói khổ,... Lê Quý Đôn lâm bệnh nặng. Sau đó, ông xin về quê mẹ là làng Nguyễn Xá (huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam) để chữa trị, nhưng không khỏi. Ông mất ngày 14 tháng 4 năm Giáp Thìn niên hiệu Cảnh Hưng thứ 45 (tức 11 tháng 6 năm 1784),

Nhận xét

Lê Quý Đôn là một "nhà bác học ham đọc, ham biết và ham viết","một nhà bác học có kiến thức hết sức uyên bác và đa dạng".

  • Phố Lê Quý Đôn ở Thành phố Uông Bí
  • Phố Lê Quý Đôn ở Thành phố Hạ Long
  • Phố Lê Quý Đôn ở Thị xã Quảng Yên
  • Phố Lê Quý Đôn, phường Bạch Đằng, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
  • Phố Lê Quý Đôn, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.
  • Phố Lê Quý Đôn, phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.
  • Phố Lê Quý Đôn, phường Kinh Bắc, tỉnh Bắc Ninh (mới).

Công trình

Tên Lê Quý Đôn được dùng để đặt tên cho nhiều trường học ở khắp nước Việt Nam như:

  • Trường Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn ở Hà Nội
  • Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn, Đà Nẵng
  • Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn, Bình Định
  • Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn, Vũng Tàu
  • Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn, Ninh Thuận
  • Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn, Khánh Hòa
  • Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn, Quảng Trị
  • Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn, Điện Biên
  • Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn, Lai Châu
  • Trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn, Thành phố Hồ Chí Minh
  • Trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn – Đống Đa, Hà Nội
  • Trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn, Thái Bình
  • Trường THPT Lê Quý Đôn − Thành phố Cẩm Phả, Quảng Ninh
  • Trường THPT Lê Quý Đôn – Hải Phòng
  • Trường THPT Lê Quý Đôn – Thành phố Tam Kỳ, Quảng Nam
  • Trường THPT Lê Quý Đôn – Hà Tĩnh
  • Trường THPT Lê Quý Đôn – Hòa Bình
  • Trường THPT Lê Quý Đôn – Thành phố Biên Hòa, Đồng Nai
  • Trường THPT Lê Quý Đôn – quận Hà Đông, Hà Nội
  • Trường THCS Lê Quý Đôn – quận Cầu Giấy, Hà Nội
  • Trường THCS Lê Quý Đôn – Thành phố Vị Thanh, Hậu Giang
  • Trường THPT Lê Quý Đôn – Thành phố Ngã Bảy, Hậu Giang
  • Trường THPT Lê Quý Đôn – Long An
  • Trường THPT Lê Quý Đôn – Đắk Nông
  • Trường THPT Lê Quý Đôn – Bắc Ninh
  • Trường THCS Lê Danh Phương – Hưng Hà, Thành phố Thái Bình
  • Trường THCS Lê Quý Đôn – Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh
  • Trường THCS Lê Quý Đôn – Thành phố Bắc Giang, Bắc Giang
  • Trường THCS Lê Quý Đôn – Hải Dương
  • Trường THCS Lê Quý Đôn – Thành phố Sóc Trăng, Sóc Trăng
  • Trường THCS Lê Quý Đôn – Lào Cai
  • Trường THCS Lê Quý Đôn – huyện Ý Yên, Nam Định
  • Trường THCS Lê Quý Đôn – huyện Mộc Châu, Sơn La
  • Trường THCS Lê Quý Đôn, phường Phúc Lợi, quận Long Biên, Hà Nội
  • Trường Tiểu học Lê Quý Đôn, Thành phố Mỹ Tho, Tiền Giang
  • Trường THPT Lê Quý Đôn – Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk
  • Trường THPT Lê Quý Đôn, Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh
  • Trường Tiểu học Lê Quý Đôn, huyện Đăk Tô, Kon Tum
  • Trường Tiểu học Lê Quý Đôn, quận Long Biên, thành phố Hà Nội *Trường THCS Lê Quý Đôn, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội

Tên ông còn được dùng để đặt cho một tàu buồm huấn luyện của Hải quân Nhân dân Việt Nam: tàu HQ-286 Lê Quý Đôn.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lê Quý Đôn** (chữ Hán: 黎貴惇, 2 tháng 8 năm 1726 – 11 tháng 6 năm 1784), tên lúc nhỏ là **Lê Danh Phương**, tự **Doãn Hậu** (允厚), hiệu **Quế Đường** (桂堂), là vị quan
**Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn, Bình Định** (có tên Tiếng Anh: **_Le Quy Don Binh Dinh High school for Gifted student_**) là một trường trung học phổ thông chuyên công lập,
**Trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn** là một trường trung học phổ thông công lập ở thành phố Thái Bình - tỉnh Thái Bình, thành lập năm 1957. ## Lịch sử **Trường Cấp
**Trường Trung học Phổ thông chuyên Lê Quý Đôn, thành phố Đà Nẵng** là trường trung học phổ thông chuyên công lập tại Thành phố Đà Nẵng. Trường được thành lập năm 1986 với tên
**Trường Trung học Phổ thông Lê Quý Đôn** là một trường trung học phổ thông công lập của Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là trường trung học đầu tiên của Sài Gòn, được thành
**Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn, Vũng Tàu** là một trường trung học phổ thông chuyên tọa lạc tại thành phố biển Vũng Tàu và là trường chuyên duy nhất của tỉnh
**_Lê Quý Đôn_ (286)** là một thuyền buồm được dùng làm tàu huấn luyện của Hải quân Nhân dân Việt Nam. Con tàu được đặt theo tên của Lê Quý Đôn, một vị quan, nhà
**Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn, Nam Nha Trang** (trước đây là **Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn, Khánh Hòa**) là một trường trung học phổ thông công lập
**Trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn – Đống Đa** là một trường trung học phổ thông công lập được thành lập năm 1970 tại Hà Nội, Việt Nam. ## Lịch sử Năm 1970,
Trường Trung học Cơ sở Lê Quý Đôn – Rạch Giá là một trong những ngôi trường tiêu biểu của thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, với bề dày thành tích trong công tác
Lê Quý Đôn là vị quan thời Lê trung hưng, cũng là nhà thơ và được mệnh danh là nhà bác học lớn của Việt Nam trong thời phong kiến. Lê Quý Đôn sống trong
#đổi Trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn, Thành phố Hồ Chí Minh Lê Quý Đôn Lê Quý Đôn
**Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn** (tiếng Anh: _Le Quy Don Highschool for the Gifted_) là một trường trung học phổ thông công lập của Quảng Trị, thuộc hệ thống trường chuyên
**Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn, Khánh Hòa** có thể là: * Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn, phường Nam Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa * Trường Trung học
**Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn, Đông Hải** (trước đây là **Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn, Ninh Thuận**) là trường trung học phổ thông công lập nằm ở
**Giuse Lê Quý Thanh** (1900–1974) là một giám mục người Việt Nam của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách vai trò Giám mục phó Giáo phận Phát Diệm trong suốt hơn 10
Lịch Sử Việt Nam Bằng Tranh Tập 48 - Nhà Bác Học Lê Quí Đôn Lê Quý Đôn sinh ra trong buổi loạn lạc, triều đình nhiễu nhương, nhân dân cơ cực. Vẫn tưởng rằng
**Lê Thánh Tông** (chữ Hán: 黎聖宗 25 tháng 8 năm 1442 – 3 tháng 3 năm 1497), huý **Lê Tư Thành** (黎思誠), là vị Hoàng đế thứ tư trên danh nghĩa và thứ năm trên
**Lê Thái Tổ** (chữ Hán: 黎太祖 10 tháng 9 năm 1385 – 5 tháng 10 năm 1433), tên thật là **Lê Lợi** (黎利) là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo quân sự, người đã
**Quý Kiệt hoàn dân Thì Trung phát phối** (chính văn: 貴傑還民時中發配) là nhan đề học giới đặt cho một văn tự án chấn động Bắc Hà năm 1775. ## Lịch sử Theo _Tứ bình thực
** Lê Trọng Thứ** hay ** Lê Phú Thứ** (1693 – 1783), đôi khi còn gọi là ** Lê Trung Hiến**, là quan đại thần thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông
Thực hiện nhiệm vụ năm học 2021-2022 của trường THPT Chuyên Lê Quý Đôn và kế hoạch công tác Đoàn và phong trào thanh niên của Đoàn trường THPT Chuyên Lê Quý Đôn, Đoàn Trường
Nền kinh tế nước Đại Việt thời Lê Sơ vẫn chủ yếu dựa vào nông nghiệp như các thời đại trước, khi công nghiệp về cơ bản chưa có những bước phát triển đáng kể
**_Toàn Việt thi lục_** (_Sao lục toàn tập thơ Việt_) là bộ hợp tuyển thơ chữ Hán của Việt Nam do Lê Quý Đôn, một nhà "bác học lớn của Việt Nam trong thời phong
**Lê Sát** (chữ Hán: 黎察, ? – 1437) là chính khách, nhà quân sự, thừa tướng Đại Việt thời Lê sơ. Ông là người làng Bỉ Ngũ, thuộc Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa,
**Huy Gia Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 徽嘉皇太后; 1441 - 8 tháng 4, 1505), hay **Trường Lạc Hoàng hậu** (長樂皇后), là phi tần của hoàng đế Lê Thánh Tông, sinh mẫu của hoàng đế Lê
**Khoa học kỹ thuật Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh các thành tựu về sử học, y học và khoa học quân sự miền Bắc nước Đại Việt dưới quyền cai quản của
nhỏ|320x320px|Tiền thông dụng thời Lê Trang Tông **Tiền tệ Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào thời nhà Lê trung hưng (1593-1789) trong
Do nước Đại Việt bị chia cắt từ đầu thế kỷ 17, nông nghiệp Đại Việt thời Lê trung hưng bao gồm 2 nội dung _nông nghiệp Đàng Ngoài_ và nông nghiệp Đàng Trong. Nông
Lê Lợi (tức Lê Thái Tổ) đã cho khắc hai bài thơ lên vách đá, một ở núi Pú Huổi Chỏ (nay thuộc xã Lê Lợi, huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu), một ở núi
Quế Đường Thi Tập - Tập 1 Bìa cứng Năm 1740, Lê Phú Thứ được phục chức, Lê Quý Đôn theo cha về Kinh đô, được học ở những ngôi trường nổi tiếng, ba năm
Quế Đường Thi Tập - Tập 2 Bìa cứng Năm 1740, Lê Phú Thứ được phục chức, Lê Quý Đôn theo cha về Kinh đô, được học ở những ngôi trường nổi tiếng, ba năm
**Lê Chiêu Tông** (chữ Hán: 黎昭宗 18 tháng 11 năm 1506 – 19 tháng 1 năm 1527), tên thật là **Lê Y** (黎椅), là vị hoàng đế thứ 10 của Hoàng triều Lê nước Đại
**Nguyễn Quý Đức** (chữ Hán: 阮貴德, 1648 -1720), húy là **Tộ** (祚), tự **Bản Nhân** (体仁) hiệu **Đường Hiên** (堂軒), là nhà thơ, nhà giáo, nhà sử học, nhà chính trị Việt Nam thời Lê
**Văn học Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** là một bộ phận của văn học Việt Nam, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời nhà Lê trung hưng
- Phủ biên tạp lục là một công trình sử học - địa chí về vùng đất Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn, từ 1558-1775. Đó là một khảo cứu có giá trị của
- Phủ biên tạp lục là một công trình sử học - địa chí về vùng đất Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn, từ 1558-1775. Đó là một khảo cứu có giá trị của
nhỏ|phải|Bộ sách Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục, Kiến văn tiểu lục, Đại Việt thông sử. **Phủ biên tạp lục** (chữ Hán: 撫邊雜錄) là bộ sách gồm 8 quyển được chia làm
**Văn học Việt Nam thời Tiền Lê** được nhiều nhà nghiên cứu xem là giai đoạn sơ khởi của nền văn học viết Việt Nam (để phân biệt với văn học dân gian, văn học
**Lê Nhân Tông** (chữ Hán: 黎仁宗 28 tháng 5 năm 1441 – 25 tháng 10 năm 1459) tên húy là **Lê Bang Cơ** (黎邦基), là vị hoàng đế thứ ba của Hoàng triều Lê nước
**Lê Tranh** (chữ Hán: 黎錚; 27 tháng 3, 1467 - 6 tháng 8, 1500), là một Hoàng tử và là nhà thơ thời nhà Hậu Lê. ## Tiểu sử Phúc vương Tranh (福王錚) sinh ngày
**Dương Thụy** (sinh năm 1975) là nhà văn nữ của Việt Nam, được biết đến qua những bài viết trên báo Hoa Học Trò và hiện nay là cây bút khá nổi bật trên văn
thumb|Sứ thần triều cống và chức sắc [[Chăm pa, Lan Xang, Ayutthaya, Taungoo, Demak, Khơme, Lan Na, Ba Tư, Lưu Cầu,... yết kiến triều đình nhà Lê ở Thanh Hóa (tranh thế kỷ 16)]] **Thương
Glory Downtown là dự án nhà phố thương mại shophouse có vị trí tại đường Lê Quý Đôn, phường Trần Lãm, TP.Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Dự án nằm gần các trung tâm hành chính;
**Lê Quý Đạm** (sinh 1960) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, Thạc sĩ, nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật, Cục trưởng Cục Quân khí,
**_Án lệ 46/2021/AL_** về việc xác định tình tiết định khung hình phạt "Đối với trẻ em mà người phạm tội có trách nhiệm giáo dục" trong tội "Dâm ô đối với trẻ em" là
💥 Vòng cổ, Vòng tay Mặt Đá Pha Lê Đen Đơn Giản Sang Trọng Phong Cách Hip Hop P74💥 🚚 FREESHIP ĐƠN 50K ✅ MÔ TẢ SẢN PHẨM: 🔸Màu sắc: như hình 🔸Danh mục sản
BỘ ĐÔI MỚI SIÊU SIÊU HOT#MÁY #ĐỐT #PLASMA đốt nốt ruồi, mụn thịt,tàn nhang ... cầm tay mini thế hệ mới và #KEM #BÔI sau đốt siêu siêu hiệu quả nhà em đây ạ Máy
BỘ ĐÔI MỚI SIÊU SIÊU HOT#MÁY #ĐỐT #PLASMA đốt nốt ruồi, mụn thịt,tàn nhang ... cầm tay mini thế hệ mới và #KEM #BÔI sau đốt siêu siêu hiệu quả nhà em đây ạ Máy
**Lê Trung Nghĩa**(?-1786) là quan thời Lê Trung Hưng lãnh đạo quân dân Thanh Hoá chống lại quân Tây Sơn ## Tiểu sử Lê Trung Nghĩa không rõ sinh năm nào người làng Tu, thôn