✨Võ học Đàng Ngoài thời Lê trung hưng

Võ học Đàng Ngoài thời Lê trung hưng

nhỏ|600x400px|Võ quan vinh quy đồ (武官榮歸圖) Võ học Đàng Ngoài thời Lê trung hưng phản ánh việc đào tạo và thi cử võ bị của chính quyền Lê-Trịnh trong lịch sử Việt Nam.

Trước thế kỷ 18

Khoa cử Việt Nam thực hiện cơ bản theo các triều đại phong kiến Trung Quốc. Đối với nền võ học, Trung Quốc đã hình thành từ thời Võ Tắc Thiên, còn Võ học Việt Nam phát triển chậm hơn. Dù đào tạo võ đã hình thành từ các đời trước, việc đưa võ học phát triển khá hoàn bị thành những kỳ thi và danh hiệu chính thức thì chỉ bắt đầu từ thời chúa Trịnh Cương. Ông được xem là người hoàn thiện nền võ học thời phong kiến Việt Nam.

Từ thời Lý, việc đào tạo quân đội một cách có hệ thống đã được sử sách phản ánh. Từ đó qua thời Trần đến thời Lê sơ và thời Mạc, việc đào tạo quân lính vẫn được thực hiện, nhưng chỉ dừng lại ở luyện tập và thực hành như đánh võ, bắn cung, đánh khiên,… sang đầu thời Lê trung hưng thêm môn bắn súng. Việc học tập nâng cao trình độ lý thuyết quân sự và tổ chức thi cử chưa được áp dụng.

Từ thời Trịnh Cương

Quy chế thi võ học

Năm Bảo Thái thứ 2 (1721), chúa Trịnh Cương quyết định mở Võ học sử (trường Võ học) tại Thăng Long và đặt chức quan giáo thụ dạy võ học, chính thức khởi đầu cho sự nghiệp đào tạo võ học, và từ đây bắt đầu có các nhà khoa bảng võ nghiệp Đại Việt.

Theo lệnh của Trịnh Cương, đình thần định rõ nội dung học và phép thi võ gồm đủ các môn võ nghệ, luyện tập chiến lược trong võ kinh. Kỳ thi hàng tháng gọi là tiểu tập, kỳ thi mỗi quý gọi là đại tập. Các võ sinh qua được 12 kỳ thi tiểu tập và 4 kỳ đại tập sẽ được tuyển chính thức và được giáo thụ trực tiếp giảng dạy đề cử bổ dụng.

Để khuyến khích võ học, Trịnh Cương ra lệnh cho các binh sĩ được phép ứng thí như những thí sinh tự do khác. Năm 1723, triều đình cho mở khoa thi sơ cử và năm 1724 cho thi khoa Bác cử. Với việc định kỳ 3 năm mở một kỳ thi, võ học Việt Nam chính thức ra đời. Lệ thi 3 năm 1 lần, chia làm hai loại: Thi ở các trấn gọi là Sở cử vào các năm tý, ngọ, mão, dậu và thi ở kinh đô gọi là Bác cử vào các năm thìn, tuất, sửu, mùi. Khoa sở cử do chúa Trịnh tự mình xét duyệt và vua Lê tham dự.

Quy cách tổ chức thi rất quy củ, vào tuần đầu tháng 4, Bộ Binh khải lên chúa Trịnh xin chiếu lệ mở khoa thi, chúa Trịnh chuẩn khải và tháng 10 thi hành. Những người được chỉ định trông thi gồm:

  • 1 võ quan làm đề hiệu
  • 2 giám thứ
  • 2 giám khảo
  • 4 phúc khảo
  • 4 đồng khảo

Số quan trông thi được lựa chọn từ 2 ban văn võ, các luật lệ trường thi tuân theo thể lệ thi Hương của ban văn.

Khoa thi võ học đầu tiên tổ chức tại nhà võ học ở trường Giảng Võ kinh thành Thăng Long. Mỗi khoa thi chia làm 3 trường. Trường thứ nhất hỏi 10 câu trong bộ Võ kinh thất hư, trường nhì thi võ nghệ, trường 3 thi văn sách, hỏi thao lược binh gia.

Người trúng tuyển trong cả ba trường trong các kỳ thi Sở cử gọi là Cống sĩ, đỗ thấp hơn gọi là Biền sinh; chỉ trúng 2 trường gọi là Sinh viên. Người trúng tuyển cả ba trường trong kỳ thi Bác cử gọi là Tạo sĩ, người chỉ trúng 2 trường gọi là Tạo toát. Học vị Tạo sĩ bên ban võ cũng như học vị tiến sĩ bên ban văn.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|600x400px|_Võ quan vinh quy đồ_ (**武官榮歸圖**) **Võ học Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh việc đào tạo và thi cử võ bị của chính quyền Lê-Trịnh trong lịch sử Việt Nam. ## Trước
**Văn học Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** là một bộ phận của văn học Việt Nam, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời nhà Lê trung hưng
Tranh vẽ cảnh vua Lê thiết triều của Samuel Baron - thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVII. **Hành chính Đàng Ngoài thời Lê trung hưng**, hay còn gọi là **hành chính Đại Việt thời
thumb|Võ sĩ Đàng Trong thế kỷ 17 trong tranh cuộn Trà ốc tân lục Giao Chỉ độ hàng đồ quyển 朱印船交趾渡航図巻 **Quân đội Đàng Trong thời Lê trung hưng** là tổng thể tổ chức quân
nhỏ|Diễu binh ở phủ chúa Trịnh **Quân đội nhà Lê trung hưng** là tổng thể tổ chức quân sự của triều đình nhà Hậu Lê bắt đầu từ vua Lê Trang Tông đến hết triều
**Nhà Lê trung hưng** (chữ Nôm: 茹黎中興, chữ Hán: 黎中興朝, Hán Việt: _Lê trung hưng triều_, 1533–1789) là giai đoạn sau của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê (giai đoạn đầu là nhà Lê
Sách “binh chế chí” trong bộ “lịch triều hiến chương loại chí” của nhà bác học phan huy chú ghi lại câu tục ngữ truyền tụng trong dân gian cuối thời lê trung hưng “đánh
**Lê Quý Đôn** (chữ Hán: 黎貴惇, 2 tháng 8 năm 1726 – 11 tháng 6 năm 1784), tên lúc nhỏ là **Lê Danh Phương**, tự **Doãn Hậu** (允厚), hiệu **Quế Đường** (桂堂), là vị quan
**Khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài** là phong trào nổi dậy của nông dân miền Bắc nước Đại Việt giữa thế kỷ 18 thời vua Lê chúa Trịnh, hay thời Lê mạt, bắt đầu từ
phải|Ải Lê Hoa trong bản đồ châu Thủy Vĩ thời kỳ 1397 - 1688, trên vùng biên giới Đại Việt - Đại Minh 1428-1644, và biên giới Đại Việt - Đại Thanh 1644-1688. **Ải Lê
Đàng Trong và [[Đàng Ngoài (1757).]] **Đàng Trong** (chữ Nôm: 唐冲), hay **Nam Hà** (chữ Hán: 南河) là tên gọi vùng lãnh thổ Đại Việt do chúa Nguyễn kiểm soát, xác định từ sông Gianh
** Lê Trọng Thứ** hay ** Lê Phú Thứ** (1693 – 1783), đôi khi còn gọi là ** Lê Trung Hiến**, là quan đại thần thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông
**Trịnh Doanh** (chữ Hán: 鄭楹, 4 tháng 12 năm 1720 – 12 tháng 5 năm 1767), thụy hiệu **Nghị Tổ Ân vương** (毅祖恩王), là vị chúa Trịnh thứ 7 thời Lê Trung hưng trong lịch
**Đặng Tiến Đông** (1738–1794 hay 1797) làm quan thời Lê – Trịnh, sau đầu quân Tây Sơn và trở thành danh tướng của lực lượng này. Thân thế và sự nghiệp của ông hiện vẫn
**Đoàn Thị Điểm** (段氏點, 1705-1749), hiệu: **Hồng Hà Nữ Sĩ** (紅霞女士), là nữ sĩ Việt Nam thời Lê trung hưng. Bà là tác giả tập _Truyền kỳ tân phả_ (chữ Hán), và tác giả của
Trong lịch sử Việt Nam, giai đoạn **cuối triều Lê sơ** (1516 – 1526) tương ứng với các triều vua Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tông và Lê Cung Hoàng xảy ra khủng hoảng kinh
**Văn học Việt Nam thời Tiền Lê** được nhiều nhà nghiên cứu xem là giai đoạn sơ khởi của nền văn học viết Việt Nam (để phân biệt với văn học dân gian, văn học
**Nạn kiêu binh** hay **loạn kiêu binh** (_Kiêu binh chi loạn_, 驕兵之亂) là tên dùng để chỉ sự việc loạn lạc thời Lê Trung Hưng trong lịch sử Việt Nam, do những quân lính gốc
**Nguyễn Công Cơ** (Chữ Hán: 阮公基; 1675 - 5/12/1733), tên huý **Tự Cẩm**, hiệu **Cảo Hiên**, tự **Nghĩa Trai**, là một nhà khoa bảng, nhà ngoại giao và danh thần dưới thời Lê Trung Hưng,
**Hồ Sĩ Đống** (1739-1785), tự **Long Phủ**, hiệu **Dao Đình**; sau đổi tên là **Hồ Sĩ Đồng**, tự **Thông Phủ**, hiệu **Trúc Hiên**. Ông là nhà thơ và là đại quan nhà Lê trung hưng
**Phạm Đình Trọng** (chữ Hán: 范廷重; 1715 - 1754) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông có công đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài giữa thế
**Võ Trường Toản** chưa rõ năm sinh - mất ngày 26 tháng 9 năm 1792; nhằm ngày 9 tháng 6 năm Nhâm Tý), hiệu **Sùng Đức** do chúa Nguyễn Phúc Ánh phong tặng (sau đổi
**Nguyễn Tông Quai** (阮宗乖; trước đây có sách viết là **Nguyễn Tông Khuê** 阮宗奎, 1692 – 2 tháng 4 năm 1767),, hiệu **Thư Hiên** (舒翰); là nhà giáo, nhà thơ và là đại quan nhà
**Đặng Thế Khoa** (1593-1656) là quan nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Đặng Thế Khoa người làng Lương Xá, huyện Chương Mỹ, Hà Nội. Ông là con Nghĩa quốc
**Đại học Công nghệ Quốc phòng Trung Quốc** (tên tiếng Anh: **National University of Defense Technology** (**NUDT**; ) trực thuộc Quân ủy Trung ương Trung Quốc, là một trường đại học trọng điểm quốc gia
**Lê Dụ Tông** (chữ Hán: 黎裕宗 1679 – 27 tháng 2 năm 1731) là vị Hoàng đế thứ 11 của Nhà Lê Trung hưng và thứ 22 của triều Hậu Lê trong lịch sử Việt
**Lê Thánh Tông** (chữ Hán: 黎聖宗 25 tháng 8 năm 1442 – 3 tháng 3 năm 1497), huý **Lê Tư Thành** (黎思誠), là vị Hoàng đế thứ tư trên danh nghĩa và thứ năm trên
**Mậu dịch Nanban** (tiếng Nhật: 南蛮貿易, _nanban-bōeki_, "Nam Man mậu dịch") hay "thời kỳ thương mại Nanban" (tiếng Nhật: 南蛮貿易時代, _nanban-bōeki-jidai_, "Nam Man mậu dịch thời đại") là một giai đoạn trong lịch sử Nhật
**Trịnh Cương** (chữ Hán: 鄭棡, 9 tháng 7 năm 1686 – 20 tháng 12 năm 1729), còn có tên khác là **Trịnh Chù**, thụy hiệu là **Hy Tổ Nhân vương** (禧祖仁王), là vị chúa Trịnh
**Âm nhạc thời Trung cổ** là những tác phẩm âm nhạc phương Tây được viết vào thời kỳ Trung cổ (khoảng 500–1400). Thời kỳ này bắt đầu với sự sụp đổ của Đế chế La
**Lê Tương Dực** (chữ Hán: 黎襄翼; 16 tháng 7 năm 1495 – 8 tháng 5 năm 1516) tên thật là **Lê Oanh** (黎瀠), là vị hoàng đế thứ chín của Hoàng triều Lê sơ nước
**Nguyễn Hữu Chỉnh** (, 1741 - 15 tháng 1 năm 1788), biệt hiệu **Quận Bằng** (鵬郡), là nhà quân sự, chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê trung hưng và Tây
**Bùi Khắc Nhất** (chữ Hán: 裴克一; 1533 - 08/11/1609) quê ở Bột Thái, huyện Hoằng Hóa, ngày nay thuộc xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Ông đỗ Bảng Nhãn năm Ất Sửu
**Hành chính Việt Nam thời Tây Sơn** ánh bộ máy cai trị từ trung ương tới địa phương của nhà Tây Sơn từ năm 1778 đến năm 1802, không chỉ giới hạn trong phạm vi
**Lê Văn Hưng** (chữ Hán:黎文興, ?-1794?) là một danh tướng của nhà Tây Sơn. Ông được tôn xưng là một trong Tây Sơn thất hổ tướng. Xuất thân trong một gia đình giàu có, buôn
**Phạm Công Trứ** (chữ Hán: 范公著, 1600 - 28 tháng 10 năm 1675) là tể tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Phạm Công Trứ người làng Liêu Xuyên, tổng Liêu Xá,
**Đoan Nam Vương** **Trịnh Tông** (chữ Hán: 鄭棕; 10 tháng 10 năm 1763 - 23 tháng 7 năm 1786), còn có tên khác là **Trịnh Khải** (鄭楷) là vị chúa Trịnh thứ 10 thời Lê
**Phạm Đình Kính** (chữ Hán: 范廷鏡; 1669-1737), tên khai sinh là **Phạm Kim Kính**, là một vị quan thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Phạm Đình Kính là người tài cao, đức
**Đại hội đại biểu Đảng bộ trực thuộc Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam nhiệm kỳ 2020 -2025**, là các đại hội Đảng bộ các tỉnh thành trực thuộc Trung ương Việt Nam và
**Nguyễn Trù** (chữ Hán:阮儔, 1668-1738), tự **Trung Lượng**, hiệu **Loại Phủ**, **Loại Am**, người phường Đông Tác (Trung Tự), huyện Thọ Xương thuộc kinh thành Thăng Long, là một đại thần dưới triều Lê Trung
nhỏ|phải|Quang cảnh Phủ chúa Trịnh do Samuel Baron vẽ năm 1685. **Phủ chúa Trịnh** (chữ Hán: 鄭王府 / **Trịnh vương phủ**) - vốn có danh xưng chính thức là **Chính phủ** (chữ Hán: 政府) hoặc
**Nguyễn Cảnh Kiên** (阮景健 21 tháng 8 1553 - 4 tháng 8 1619) là một vị tướng thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, làm quan tới chức Tả Đô đốc Thượng tướng
**Âm nhạc thời Phục Hưng** là âm nhạc được viết tại Châu Âu trong thời kỳ Phục Hưng. Các nhà nhạc sử học – với những bất đồng đáng kể – đều thống nhất cho
Thiếu tướng **Lê Thiết Hùng** (1908 – 1986) nhà hoạt động cách mạng, được xem là vị tướng được phong quân hàm đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. ## Thiếu thời Ông
**Đỗ Thế Giai** (chữ Hán: 杜世佳, 1709 - 1766) là một đại thần nhà Lê trung hưng. Ông được một số báo mạng cho là người duy nhất thời Lê được phong vương (_Đỗ đại
Vua [[Bảo Đại ngồi trong ngự liễn (kiệu) trên đường tới Đàn Nam Giao làm lễ tế năm 1942]] **Lễ tế giao** (chữ Hán: / ), thường gọi **lễ tế Nam Giao** (chữ Hán: ),
**Dòng họ Đặng ở Lương Xá** là một dòng họ có lịch sử lâu đời ở Việt Nam, định cư ở thôn Lương Xá thuộc tỉnh Hà Tây từ khoảng thế kỷ 15. ## Lịch
**Nguyễn Khả Trạc** (chữ Hán: 阮可濯, 1598-1672), tên thật **Nguyễn Văn Trạc** (阮文濯), là người đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ. Ông theo Nho học, sau làm quan đến chức Công bộ thượng thư,
**Lê Nhân Tông** (chữ Hán: 黎仁宗 28 tháng 5 năm 1441 – 25 tháng 10 năm 1459) tên húy là **Lê Bang Cơ** (黎邦基), là vị hoàng đế thứ ba của Hoàng triều Lê nước
**Ngô Trí Hòa** (1564-1625) là danh thần nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Tên tuổi của ông không chỉ được ghi trong sử sách mà còn được biết đến qua các văn