✨Lễ tế giao
Vua [[Bảo Đại ngồi trong ngự liễn (kiệu) trên đường tới Đàn Nam Giao làm lễ tế năm 1942]] Lễ tế giao (chữ Hán: / ), thường gọi lễ tế Nam Giao (chữ Hán: ), là nghi lễ tế trời do vị quân chủ của một nước theo văn hóa Trung Hoa Khổng giáo tiến hành. Đây là nghi thức được xếp vào hàng Đại tự (lễ lớn) và là lễ tế linh thiêng bậc nhất của các triều đại phong kiến – quân chủ ở Đông Á.
Tên gọi
Giao (郊) nguyên nghĩa là "chỗ cách xa nước một trăm dặm", sau chỉ vùng đất phía ngoài thành, ngoại ô. Vào tiết đông chí, vua làm lễ tế trời ở khu đất phía nam thành (nam giao), tiết hạ chí thì tế đất ở khu đất phía bắc thành (bắc giao), nên tế trời, đất gọi chung là tế giao.
Tại Trung Hoa
Buổi phục dựng lễ tế trời ở Thiên Đàn, Bắc Kinh năm 2011 Lế tế giao bắt nguồn từ nhà Chu, hình thành bởi sự kết hợp giữa tín ngưỡng dân gian Trung Hoa và lễ nghi do Chu Công đặt định. Người Trung Hoa cổ đại cho rằng Hạo Thiên Thượng đế là vị thần tối cao cai quản cõi trời (Thiên đình) vì thế Hoàng đế là người đứng đầu thế giới loài người phải thay mặt toàn thể dân chúng mà làm lễ tế trời.
Kinh Lễ, chương Tế pháp viết: "...Đến Thất đại mới lập ra việc tế tự, tế giao, thờ phụng tổ tông...". "Thất đại" chỉ đời Nhà Chu (sau Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đường, Ngu, Hạ, Thương). Nhà Chu dùng thuyết thiên mệnh để tạo ra sự chính danh cho các vị quân chủ của mình và đặt ra khái niệm Thiên tử (con của Trời) để phân biệt với vua của các nước chư hầu. Sách Chu lễ quy định nhiều nghi thức chỉ dành cho Thiên tử nhà Chu trong đó có việc tế trời vào tiết đông chí trên gò đất hình tròn (viên khâu), tế đất vào tiết hạ chí trên nền đất hình vuông (phương trạch) ở phía ngoài kinh thành (giao) nên gọi nghi lễ này là tế giao (giao tự).
Thời Xuân Thu Chiến Quốc, khi Nước Tần trở nên hùng mạnh, đã lập đàn tế ở Ung Thành, làm lễ tế Bạch Đế để thể hiện địa vị thống trị thiên hạ của mình một cách hợp pháp, dù thiên tử Nhà Chu vẫn tồn tại. Lưu Bang sau khi lên ngôi Hoàng đế tiếp tục tu sửa và mở rộng đàn tế này. Di chỉ đàn tế Ung Thành ở quận Phượng Tường, Thiểm Tây đã được phát lộ bởi các nhà khảo cổ Trung Quốc vào năm 2015.
Các triều đại phong kiến Trung Quốc sau đó tiếp tục duy trì nghi lễ tế trời như một đặc quyền dành cho Hoàng đế (hay Thiên tử). Nghi lễ này ảnh hưởng tới các nước chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa khiến các triều đại Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản đều tiến hành lễ tế giao theo quy chế được quy định ở Trung Quốc với một số thay đổi nhỏ tùy theo quốc gia.
Đàn tế
Nơi tiến hành các nghi lễ tế được gọi là đàn (坛). Vì thế đàn tế trời được gọi là thiên đàn hoặc nam giao đàn (đàn Nam Giao), thường có dạng hình tròn, tượng trưng cho bầu trời. Các đàn tế trời ở Đông Á đều chịu ảnh hưởng của triết lý trời tròn trong văn hóa Trung Hoa nên luôn có dạng hình tròn. Hầu hết đàn tế trời tại Đông Á chỉ còn là di chỉ khảo cổ được khai quật từ lòng đất. Tuy nhiên, một số đàn tế trời của các triều đại phong kiến cuối cùng ở các nước vẫn còn tương đối nguyên vẹn, có thể kể đến như:
- Thiên đàn ở Bắc Kinh, Trung Quốc
- Đàn Nam Giao triều Nguyễn ở Huế, Việt Nam
- Viên Khâu Đàn ở Seoul, Hàn Quốc
Tại Nhật Bản
Mô hình phỏng dựng kinh đô Nagaoka, phía ngoài thành là nơi Thiên hoàng Kanmu tế giao [[Nhật hoàng Akihito làm lễ Đại Thường tế khi lên ngôi vào năm 1990. Một biến thể của Lễ tế giao]] Nghi lễ tế trời được du nhập từ Trung Hoa vào Nhật Bản dưới thời Nhà Đường, hoàng đế sẽ làm lễ tế vào ngày Đông chí. Theo sách Tục Nhật Bản Kỷ (tiếng Nhật: 続日本紀), Thiên hoàng Shōmu đã thực hiện nghi thức tế trời trong buổi lễ triều hạ (bá quan vào chầu và chúc mừng) vào ngày mùng một Tết năm 725.
Tuy nhiên, các tôn giáo được du nhập từ bên ngoài như Nho giáo và Phật giáo đã được hợp nhất với các tín ngưỡng bản địa Nhật Bản (tiêu biểu là Thần đạo) nên những quan niệm cũng có nhiều sai khác so với Trung Hoa. Nữ thần Mặt Trời Amaterasu vốn là một vị thần tự nhiên bản địa được coi là vị thần tối cao, là thần tổ của Thiên Hoàng cũng như cả đất nước Nhật Bản. Các Thiên hoàng cho xây dựng đền thờ và trực tiếp làm lễ tế. Vì vậy các nghi lễ tế giao do nhà vua thực hiện ở Nhật Bản dần dần được bản địa hóa thành nghi lễ tế Nữ thần Mặt Trời tại Thần cung Ise. Đến thời Heian, các Thiên hoàng nắm quyền lực tuyệt đối cũng là lúc Phật giáo thâm nhập sâu rộng vào xã hội Nhật Bản. Thuyết "Bản địa thuỳ tích" (本地垂迹説/ Honji Suijaku Setsu) được Hoàng thất Nhật Bản tuyên truyền ở thời kì này cho rằng Phật là Bản địa, nguyên gốc (本) của Thần còn Thần là Thuỳ tích, dấu vết (迹) tức là hiện thân tạm thời của Phật. Theo thuyết này thì Nữ thần Mặt Trời chính là hoá thân của Đại Nhật Như Lai (Dainichi Nyorai). Thần và Phật vốn là đồng nhất, Phật vốn ở Ấn Độ, song vì phổ độ chúng sinh mà rời gót đến Nhật Bản thành Thần. Sách Nhật Bản Thư Kỷ (tiếng Nhật: 日本書紀) đã ghi chép lại rằng vào năm thứ 2 đời Thiên hoàng Monmu (tức năm 698) đã ra lệnh cho xây tại Ise, quận Watarai một ngôi chùa thờ chung cả Thần lẫn Phật, gọi là chùa Đại Thần Cung (大神宮寺/ Jinguji/ Đại Thần Cung Tự). Các nghi lễ tế trời dần mang màu sắc cúng Phật.
Thiên hoàng Kanmu là người đã tập trung được rất nhiều quyền hành, khẳng định quyền lực tối cao của Thiên hoàng tại Nhật Bản. Năm 784 ông cho dời đô đến Nagaoka (tỉnh Kyoto ngày nay) nhằm hạn chế ảnh hưởng của các thế lực Phật giáo đã bám rễ ở vùng Nara và cho phổ biến kinh điển Nho giáo Trung Hoa trong dân chúng như kinh Xuân Thu. Vì thế, Thiên hoàng đã thực hiện lễ tế nam giao vào ngày Đông chí năm 785 tại vùng ngoại ô kinh đô, tức là Ly cung Katano (交野離宮/ Giao Dã ly cung), quận Katano, tỉnh Kawachi (nay thuộc địa phận tỉnh Osaka) để khẳng định quyền lực hoàng đế của mình như Thiên tử Trung Hoa.
Quan niệm hiện đại về tế thần ở Nhật Bản bắt đầu từ thời Minh Trị, khi chủ nghĩa dân tộc kiểu phương Tây trỗi dậy ở Nhật Bản và được cổ xúy bởi Hoàng thất. Các nghi lễ tế trời vẫn được thực hiện bởi Thiên hoàng nhưng các vị thần được tế hoàn toàn thuộc về Thần đạo, đặc trưng cho tính dân tộc Nhật Bản. Hằng năm, Thiên hoàng làm các lễ tế trời tạ ơn được mùa gọi là Tân Thường tế (新嘗祭/ Niiname-sai). Tế Thường (嘗) vốn là nghi lễ tế vào mùa thu của nhà Chu ở Trung Quốc. Trong đó lễ tế Thường đầu tiên của một Nhật hoàng, gọi là Đại Thường tế (大嘗祭/ Daijō-sai) là một phần của Lễ đăng quang của Thiên hoàng Nhật Bản thời hiện đại.
Tại Triều Tiên
Các nghi thức tế lễ để tạ ơn trời đất sau mỗi mùa vụ đã xuất hiện từ khá sớm trong cộng đồng cư dân nông nghiệp cổ ở Triều Tiên. Nghi thức tế trời do một vị vua tiến hành chỉ thực sự được chuẩn hóa và thực hiện bởi triều đình kể từ Nhà Cao Ly. Nghi lễ tế trời được gọi là Tế thiên hành sự (chữ Hán:祭天行事, tiếng Triều Tiên: 제천행사). Vua Cao Ly Thành Tông là người đầu tiên cho làm Đàn Viên Khâu (圜丘壇) và thực hiện lễ tế viên khâu (圜丘祭). Các vua Cao Ly tự xưng là Đông Di Thiên Tử (東夷天子), chấp nhận vị trí "di" đối với Thiên tử Trung Hoa nhưng vẫn là vua một nước nên từ đó về sau các vua Cao Ly vẫn đều đặn tiến hành lễ tế tuy nhiên sử sách Cao Ly không ghi lại nhiều, cũng không rõ vị trí của Đàn Viên Khâu.
Sang Nhà Triều Tiên, đàn Viên Khâu và nghi thức tế lễ được khôi phục lại từ năm thứ ba sau khi Triều Tiên Thế Tổ lên ngôi (1457). Tuy nhiên việc tế trời diễn ra được bảy năm thì bị dừng lại. Tầng lớp quan lại và trí thức Nho giáo cho rằng Vua Triều Tiên chỉ xưng vương, sử dụng niên hiệu của nhà Minh nên không thể đứng ra tế trời, chỉ có Hoàng đế Nhà Minh mới đủ tư cách để làm lễ tế giao Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại chi tiết đầu tiên nhắc tới đàn tế giao vào năm 1154, vua Lý Anh Tông cho đắp đàn Viên Khâu phía nam La Thành.
Từ thời Lê trở đi, việc tế Nam Giao được triều đình rất coi trọng, vua trực tiếp tế Nam Giao. Trong khi hành lễ tế Nam Giao bất kỳ một sơ sẩy nào cũng được coi là điểm gở. Trong lịch sử tế Nam Giao, có 2 lần sự cố xảy ra trong khi hành lễ. Sự cố thứ nhất là vào năm 1403, khi Hồ Hán Thương dâng rượu tế Nam Giao, tay run đánh đổ rượu xuống đất đã huỷ bỏ lễ tế Nam Giao năm ấy. Sự cố thứ 2 vào năm 1572, vua Lê Anh Tông khi làm lễ tế Nam Giao đã đánh đổ lư hương nên phải đổi niên hiệu từ "Chính trị" sang niên hiệu "Hồng Phúc".
Ngô Sĩ Liên và Nghiên Nhân Thọ làm chức Đô ngự sử đã dựa theo học thuyết chính thống của Nho giáo mà khuyên vua Lê Thánh Tông không nên tế giao vì Đại Việt vốn chỉ là phiên thần của Trung Quốc, phải là thiên tử Trung Hoa mới có quyền tế giao. Vua Lê Thánh Tông nói rằng việc tế giao là theo lệ cũ của tổ tông và đã mắng hai người rất gay gắt, cho họ là "bọn gian thần bán nước". Điều này thể hiện rõ tư tưởng đế vương, ngang hàng với hoàng đế Trung Hoa của các vua Đại Việt.
Khi Vua Lê còn đang ở hành cung Vạn Lại, chống nhau với nhà Mạc đã cho lập đàn Nam Giao để tế trời nhằm khẳng định sự chính thống của triều đại mình, rằng các Vua Lê mới là thiên tử được thừa kế đất nước, không phải Vua Mạc.
Đến thời Lê Trung Hưng, chúa Trịnh nắm thực quyền, thế lực lấn át vua Lê, tuy nhiên vào lễ tế Giao thiêng liêng bậc nhất thì vua Lê vẫn là người có địa vị cao nhất, vì chỉ bậc thiên tử mới được đứng ra chủ tế. Sang thời Tây Sơn vẫn duy trì việc tế Nam Giao ở kinh đô Phú Xuân. Đàn Nam Giao triều Tây Sơn còn là nơi công bố, niêm yết khi thay đổi niên hiệu. Năm 1801, vua Quang Toản bỏ Phú Xuân chạy ra Bắc thành (Thăng Long) cho đắp gò Viên Khâu ở ngoài cửa Liễu Thị, xây đàn Phương Trạch ở trên Tây hồ, đến ngày đông chí, hạ chí thì tế thiên địa ở hai nơi ấy..
Từ khi Đàn Nam Giao được xây dựng xong (1806) cho đến khi nhà Nguyễn chấm dứt (1945), hằng năm triều Nguyễn đều tổ chức lễ tế Nam Giao vào mùa Xuân. Lễ tế Nam Giao lần đầu tiên được Vua Gia Long tổ chức vào ngày 27 tháng 3 năm 1807, hợp tế Trời và Đất, từ đó về sau các vua Nguyễn đều tế chung Trời Đất (tế Giao) nhưng mục đích chính là tế Trời. Từ năm 1886 đến năm 1890, triều đình Huế không tổ chức lễ tế Giao. Bắt đầu từ năm 1891, cứ 3 năm Triều đình tổ chức lễ tế Nam Giao một lần. Lễ tế Giao cuối cùng của triều Nguyễn là vào ngày 23 tháng 3 năm 1945. Như vậy, đã có tất cả 98 buổi đại lễ Nam Giao được tổ chức dưới triều Nguyễn.
Lễ Tế Giao năm Kỷ Hợi 1839 (năm Minh Mạng thứ 20) có sự tham gia của trên 4000 người (có năm lên tới 7000-8000 người): Trung đạo 1300 người, Tiền đạo 630 người, Hậu đạo 630 người, bày hàng ở đàn sở và Trai Cung 640 người, bày ở 2 đường tả hữu 300 người, ứng trực đàn sở 300 người, thủy sư trên các thuyền 300 người. Trong lễ tế Nam Giao, có thể đích thân nhà vua đứng làm chủ tế, hoặc giao cho quan Khâm mệnh Đại thần thay mặt làm chủ tế
Điển chế cũng được áp dụng trong việc thực hiện trình tự trai giới rất nghiêm ngặt. Các quan đã thề trai giới rồi, mà phạm những quy định về giữ chay sạch trai giới trong thời gian này như: đi phúng đám tang, hỏi thăm người ốm, phê phán giấy tờ xử án, giết người và đi dự yến tiệc, đều bị phạt lương 1 tháng. Kể cả những viên quan có nhiệm vụ cử người đang có tang hoặc đang bị tội tham gia vào việc tế tự cũng bị tội liên đới, phạt 1 tháng lương; bản thân những viên quan được cử tham gia cũng bị phạt ở mức tương đương. Những người đã thề giữ trai giới nhưng lại không thực hiện đúng quy định cũng bị phạt 1 tháng lương.
Áo tế giao
Khi tế Giao, hoàng đế triều Nguyễn mặc áo thêu hình rồng năm móng, mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú, mây, núi, chim trĩ, sóng nước, rong tảo... Trong nhiều loại trang phục cung đình, duy nhất chỉ có chiếc áo này mới được trang trí những hình ảnh mang nhiều ý nghĩa biểu trưng như vậy. Vì thế, chiếc áo mà hoàng đế triều Nguyễn mặc khi tế Giao không chỉ là trang phục mà còn là vật biểu trưng cho vai trò của hoàng đế trong mối liên hệ giữa trời đất và con người. Trong số trang phục cung đình thời kỳ quân chủ Việt Nam, đây là chiếc áo tế Giao duy nhất còn lại cho đến ngày nay. Vì vậy, Áo tế Giao triều Nguyễn được công nhận là Bảo vật quốc gia năm 2015.
Đức bà Từ Cung trước khi mất (năm 1980) đã hiến tặng cho Nhà nước Việt Nam nhiều bộ trang phục hoàng gia, trong đó có bảo vật là chiếc áo tế Giao. Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế là đơn vị tiếp nhận.
Sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ của triều Nguyễn mô tả những quy định về chiếc Long Cổn như sau: "Áo Cổn bằng sa mỏng bóng, toàn sợi tơ nhuộm màu thiên thanh, thêu mặt trời, mặt trăng, ngôi sao, núi, rồng, chim trĩ, dải rủ xuống thì thêu rồng mây, hoặc dùng sa mỏng trắng bóng toàn sợi tơ màu tuyết trắng. Cửa tay áo thêu rồng mây. Cổ áo bằng đoạn đậu 8 sợi tơ bóng màu quan lục, thêu chữ á (亞), trong lót lụa sắc trắng. Dải thùy lưu thêu rồng mây, sóng nước".
Nghi lễ
Thời vua Gia Long, đến ngày tế, vua đội mũ Cửu long, mặc áo bào vàng, đai ngọc, xiêm vàng, lên đàn làm lễ. Các quan dự tế đều mặc triều phục. Thời vua Minh Mạng, từ năm 1831 trở đi, nhà vua cho chế ngự phục, mặc áo cổn, đội mũ miện làm lễ. Các vương công và các quan từ chánh tam phẩm trở lên đều mặc cổn miện.
Trình tự nghi thức tế Giao cũng tương tự như các nghi thức tế đại tự khác của triều Nguyễn. Trong quá trình tế, ngoài phần tấu nhạc còn có múa Bát dật văn và Bát dật võ. Tất cả đều áo mũ sẵn sàng chia nhau đứng ở cấp thứ ba, phía Nam đàn Nam Giao, hai bên Đông, Tây cùng hướng vào nhau.
Khi làm lễ, ở tuần rượu lễ đầu (sơ hiến lễ), khi người giữ chuông đánh 3 tiếng chuông lớn, âm nhạc cử lên; vũ sư ở hai bên Đông, Tây đều giơ cờ tinh lên dẫn vũ sinh tới trên thềm, chia ra hai bên trái, phải đứng sau hàng ca công, đều quay mặt về phía Bắc, dàn làm 8 hàng múa can, thích. Ca công tấu bản nhạc xong thì người giữ khánh đánh 3 tiếng khánh lớn, vũ sư dẫn vũ sinh lui về chỗ cũ.
Ở tuần rượu lễ thứ nhì (á hiến lễ), vũ sư ở hai bên Đông và Tây đều giơ cờ tiết lên dẫn vũ sinh tới hàng, múa vũ, thược, trình tự cũng như tuần rượu đầu. Tuần rượu sau cùng, cũng múa như tuần thứ nhì, rồi đều lui đứng chỗ cũ. Làm lễ xong, vua trở về Trai cung, trăm quan làm lễ khánh thành, rồi vua hồi loan. Lúc này mới cử nhã nhạc, trăm quan quỳ đưa ở bên đường. Khi kiệu trở về, ở Trai cung nổi chuông cho đến khi vua ra đến cửa Bắc của đàn. Khi vua về đến Kinh thành, phát chín tiếng ống lệnh, nổi chuông nổi trống cho đến khi vua vào đến Tử Cấm Thành. Sẽ có một lễ cáo ở Thái Miếu như lúc đầu về việc tế Trời đã hoàn tất.
Kết thúc lễ tế Giao, ngoài chín nhạc chương tấu trong quá trình làm lễ, còn có một nhạc chương được tấu khi lễ thành và tiễn vua hồi cung.
Đoàn Ngự giá
Hiện nay
Lễ tế Nam giao đã dần dần được phục dựng để đưa vào các Festival Huế từ những năm 2002, 2004, 2006, 2008.
mỗi tuần thu hút 43 500 người đến dự bốn lễ thờ phượng tiếng Anh và hai lễ thờ phượng tiếng Tây Ban Nha, là đại giáo đoàn lớn nhất