✨Phủ chúa Trịnh

Phủ chúa Trịnh

nhỏ|phải|Quang cảnh Phủ chúa Trịnh do Samuel Baron vẽ năm 1685. Phủ chúa Trịnh (chữ Hán: 鄭王府 / Trịnh vương phủ) - vốn có danh xưng chính thức là Chính phủ (chữ Hán: 政府) hoặc Soái phủ (chữ Hán: 帥府) hoặc Nội phủ (chữ Hán: 内府) - đã từng là một công trình kiến trúc đồ sộ vào bậc nhất thời Lê trung hưng. Được xây dựng trong thời gian một thế kỷ rưỡi (1592 - 1749), công trình này là một tòa thành, được xây bằng gạch, bao bọc nhiều cung điện, lầu các mà các đời chúa Trịnh đã lần lượt cho xây dựng. Ngoài ra, các chúa còn cho xây nhiều cung điện ngoài phủ.

Lịch sử

Thời kỳ Lê Trung hưng, còn được gọi là thời Lê-Trịnh. Trong suốt thời phong kiến Việt Nam, thời kỳ này là thời kỳ duy nhất: vừa có vua lại vừa có chúa. Chúa Trịnh nắm thực quyền, còn vua Lê chỉ là bù nhìn. Khác hẳn với các triều đại trước, phủ Chúa là nơi giải quyết mọi việc lớn nhỏ trong nước, triều đình vua Lê chỉ có danh mà không có thực. Tại triều đình Thăng Long, các chúa Trịnh ngày càng lấn át, ức chế vua Lê.

Năm 1599, Trịnh Tùng tự lập làm Đô nguyên soái, Tổng quốc chính, Thương phụ, Bình An vương. Uy quyền ngày một cao, Trịnh Tùng muốn làm đúng danh vị tước vương, bèn sai người xin với nhà vua; nhà vua bất đắc dĩ phải y cho. Vua Lê Thế Tông sai Thái tể Hoàng Đình Ái đem sách thư tiến phong Trịnh Tùng làm Bình An vương, ban thêm cho ngọc toản, tiết mao và hoàng việt (ba thứ này đều tượng trưng đặc quyền của vua chúa thời phong kiến). Trịnh Tùng được mở phủ Chúa, đặt quan thuộc. Từ đấy chính sự quyền bính đều do phủ Chúa tự quyết đoán, mọi việc từ của cải, thuế khóa, quân lính đến dân chúng đều hết thảy về phủ Chúa.

Từ đó, triều đình vua Lê phải đặt dưới quyền điều khiển của họ Trịnh và phủ Chúa mới thực sự là trung tâm của bộ máy nhà nước phong kiến. Hệ thống tổ chức chính quyền lúc ban đầu đại khái vẫn dựa theo quan chế thời Hồng Đức, có thay đổi ít nhiều cho thích hợp với tình thế mới. Phủ chúa Trịnh (Vương phủ) được xây dựng từ năm 1592 đến năm 1749. Từ năm 1718, Trịnh Cương lại đặt thêm lục phủ (tương đương với lục bộ) là: Bộ Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công bên phủ chúa, để rút hết quyền hành của lục bộ bên triều đình.

Vị trí

Tra cứu các bản đồ cổ, so sánh các địa danh của Thăng Long thế kỷ 17-18 với bản đồ Hồng Đức (có từ trước khi có phủ chúa Trịnh-năm 1490 thời Lê sơ) và thư tịch cổ thì phủ Chúa Trịnh nằm ở phía Tây Nam hồ Gươm. Nhưng về vị trí cụ thể của phủ thì hiện nay đang có những giả thuyết khác nhau. Giả thuyết được nhiều người tán thành nhất: phủ Chúa là một hình chữ nhật tương ứng với các phố ngày nay: hai bề dọc là hai đoạn đầu phố Bà Triệu và phố Quang Trung, hai bề ngang là hai đoạn giữa phố Hai Bà Trưng và Trần Hưng Đạo, ngõ-xóm Hạ Hồi (Hà Hồi); trên phần đất khoảng các làng Vũ Thạch Tiểu, Vũ Thạch Hạ, Hồi Thuần tổng Tả Nghiêm, Phụ Khánh tổng Tiền Nghiêm huyện Thọ Xương phủ Phụng Thiên Thăng Long. Nằm ở phía nam hồ Tả Vọng, có ba cửa: Chính môn ở phía Nam, Tuyên Vũ môn ở phía Đông, Diệu Công môn ở phía Tây. Xung quanh phủ có tường thành xây bằng gạch bao bọc. Bên trong có nhiều cung điện, lầu gác lộng lẫy, xa hoa. Khu vực nội phủ rộng lớn, ứng với các khu vực ngày nay bao gồm: Khu bệnh viện Việt Đức, qua phố Tràng Thi, Thư viện quốc gia, Tòa án nhân dân tối cao, phố Hỏa Lò tới giáp phố Thợ Nhuộm. Phía trên (phía trái mặt Đông phủ) có hồ Tả Vọng (Hồ Gươm), phía dưới là hồ Hữu Vọng (nằm về phía phải mặt Đông phủ (phía cửa Tuyên Vũ), quãng từ các phố Lý Thường Kiệt, Ngô Quyền, Vọng Đức, xuống tới các phố Lò Đúc, Hàn Thuyên (vốn là vùng mặt nước hồ) và Hàng Chuối bây giờ) với ngụ ý hai hồ hướng về phủ chúa. Theo miêu tả và các hình minh hoạ trong sách du ký của các lái buôn phương Tây ở Thăng Long thời đó, Phủ chúa Trịnh dường như nằm ở ven sông Hồng. Trên sông, lực lượng thủy quân của vua Lê chúa Trịnh cũng luyện tập thường xuyên. Đến Thăng Long cùng lúc với Dampier, Phan Đỉnh Khuê (Trung Quốc) nhận xét: Trên bãi cát dọc sông, suốt khoảng 50 -60 dặm, có nhiều chiến thuyền. Đối chiếu các nguồn tư liệu, có thể đưa ra giả thuyết: Quần thể Phủ chúa Trịnh được xây trên một diện tích rất rộng, trong đó khu chính ở phía Tây Nam hồ Hoàn Kiếm ngày nay. Sau đó có thêm nhiều công trình kiến trúc, tiến dần sang phía Đông và Đông Nam, sát bờ sông Hồng (trải dài trên một quãng từ Bảo tàng Lịch sử Việt Nam đến Bệnh viện Việt - Xô ngày nay).

Kiến trúc

nhỏ|Tranh giáo sĩ Phương Tây vẽ cảnh Thăng Long - Kẻ Chợ - tòa lầu cao to nổi bật được cho là lầu Ngũ Long của chúa Trịnh Xung quanh phủ và ven các hồ lân cận, nhà chúa cho xây dựng khá nhiều nguyệt đài, thủy tạ, như dựng Tả Vọng đình trên Gò Rùa (nền Tháp Rùa ngày nay); dựng cung Khánh Thụy; đắp núi Ngọc Bội để tôn vinh võ công ở bờ phía Tây hồ. Nhà chúa cũng thường cho lập các trại thủy binh trên hồ. Ở cửa ô Tây Long (Bảo tàng Lịch sử ngày nay), vào thế kỷ thứ XVII, chúa Trịnh Doanh cho xây lầu Ngũ Long mang hình năm con rồng, (vào năm 1644). Lâu cao 300 thước, được dát bằng mảnh sứ và có đá cẩm thạch quấn quanh, đến năm 1787 lầu này bị đốt cháy cùng với toàn bộ quần thể phủ Chúa...

Chúa Trịnh còn cho xây dựng ngoài phủ những chuồng voi ước chừng có từ 150 -200 con, hàng ngày được dẫn xuống sông để uống nước và tắm rửa, rồi những kho thuốc súng và Bãi duyệt binh mà Dampier miêu tả: Đằng trước phủ chúa có một bãi rộng hình vuông cho quân lính luyện tập. Ở một bên có chỗ cho các quan ngồi xem quân lính luyện tập. Ở một bên khác có một kho súng ống và đạn đại bác. Bãi cát duyệt binh này đã là một địa điểm chính trong những ngày lễ Tế cờ và thi đấu võ. Lịch triều hiến chương ghi: Sau những ngày lễ Tế cờ, thi (Bắc cử) ở bãi cát giữa sông.... có thi nghề múa đao của các quân.

Cấu trúc nội phủ đúng là một cõi tráng lệ chẳng kém gì cung vua: Để bước vào phủ, trước tiên phải đến Chính môn.

Gần đây, có tài liệu nghiên cứu nói rằng: Chính môn nằm ở gần chùa Chân Tiên để thờ Tống Thiên Thần Vương, người giúp Trịnh Liễu đặt quý địa (mà chùa Chân Tiên vào thời tồn tại phủ chúa Trịnh nằm ở làng Phụ Khánh tổng Tiền Nghiêm, khoảng di tích nhà tù Hỏa Lò ngày nay tức là góc phố Hai Bà Trưng-Thợ Nhuộm, lệch về phía tây bắc gần phố Cửa Nam thời nay hơn; về sau thời Pháp thuộc, cuối thế kỷ 19, chùa được di chuyển xuống phía đông nam đến đất làng Thể Giao, cuối phố Bà Triệu bây giờ để lấy đất xây nhà tù Hỏa Lò). Nhưng theo nhà sử học Trịnh Quang Vũ, thì: ...Vương phủ trải dài từ khu vực phố Cửa Nam, Hàng Bông ngày nay qua phố Phủ Doãn, Quang Trung, ra tận hồ Hale (hồ Thiền Quang) và xuyên xuống phố Bà Triệu, chia ra ba cửa chính: Chính Nam (phố Bà Triệu), Tuyên Vũ Môn (có Ngũ Long Lầu, cao 70m, là Bưu điện Hà Nội nay) và Diệu Đức (thông ra Cửa Nam kinh thành Thăng Long). Tổng số có 52 cung, phủ, điện, đài, vườn ngự uyển, hồ, trại lính.... Vậy có thể thấy rằng, Phủ chúa Trịnh có 3 cửa: cửa phía nam gọi là Chính Nam hay Chính Môn (khoảng phố Bà Triệu), cửa Diệu Đức Môn (phía tây, là cửa chính thông ra Cửa Nam của kinh thành Thăng Long-nơi vua Lê ở, là hướng giao lưu chính với Hoàng thành Thăng Long) cửa này có lẽ mới gần chùa Chân Tiên ở thôn Phụ Khánh tổng Tiền Nghiêm, cửa phía đông Tuyên Vũ Môn (quay ra khoảng giữa hai hồ Tả Vọng và Hữu Vọng, gần lầu Ngũ Long).

Qua Chính môn (Chính Nam), vào cửa thứ hai là Cáp môn, có xá nhân canh giữ. Tiếp đến là phủ Tiết chế, khu quân lính. Từ Cáp môn có Tiền mã quân túc trực tới đại điện. Sân điện rộng lớn nằm ở chính giữa. Thềm gác 2 tầng bày nghi trượng, vũ khí, chiêng trống, nghi vệ. Phía sau là tòa Trung Đường, Nghị sự đường, Hậu đường, Tĩnh đường.

Nội cung có lầu Ngũ Phượng, nơi tuyên phi ngự và có các hoa viên. Đường nối qua các cung là hành lang có điểm hậu mã quân túc trực, bao lơn lượn vòng kiểu cách tuyệt đẹp. Sau nội cung có Thái Miếu.

Theo lời mô tả của S.Baron, thương gia Anh Quốc đến Thăng Long năm 1680, thì: Phủ Chúa ở Trung tâm thành phố Kẻ Chợ. Những dinh thự dành cho người nhà chúa được xây 2 tầng có nhiều cửa mở thoáng đãng. Các cửa đồ sộ, chạm trổ công phu và tất thảy đều làm từ gỗ lim. Các tư thất và cung dành cho phụ nữ đều lộng lẫy, xa hoa, có chạm trổ, sơn son thiếp vàng. Sân trước khu dinh thự có chuồng voi lớn và ngựa tốt, trong sân có nhiều vườn cảnh, khóm cây; lối đi có những chòi tháp nhỏ, ao cá và tất cả những gì chúa giải trí, vui chơi, mặc dù họa hoằn chúa mới đến đây thưởng lãm.

Vườn Ngự uyển ở sau cùng của Vương phủ có nhiều hồ lớn, quanh bờ trồng nhiều cây cảnh kỳ lạ được thu thập từ muôn phương. Đường uốn lượn quanh co, giữa đất bằng có núi non ghép cảnh; lâu đài bên hồ có thạch kiều, liễu rủ; trong vườn có nhiều chim thú lạ.Phủ chúa Trịnh quả đúng là cõi tiên nơi trần tục, khiến Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác miêu tả đầy thán phục trong Thượng kinh ký sự: Đi tới cổng phủ, quan truyền mệnh dẫn qua hai lần cửa nữa rồi rẽ về phía trái. Tôi ngẩng đầu nhìn, thấy bốn bề tám phía chỗ nào cũng có cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, trăm hoa đua nở, gió thoảng hương trời. Hành lang, lan can quanh co, tiếp nối song song. Người giữ cửa truyền báo lệnh công đi lại tíu tít như mắc cửi. Vệ sĩ canh gác cửa cung, ra vào phải có phù hiệu.... Vòng quanh ước chừng một dặm, nơi nào cũng lầu đài, đình, gác, rèm châu cửa ngọc, ánh nước mây lồng, suốt lối toàn hoa cỏ kỳ lạ, gió thoảng hương trời, thú đẹp chim quý, nhảy nhót bay hót, giữa đất bằng nhô lên ngọn núi cao, cây to bóng mát, nhịp cầu sơn vẽ bắc ngang lạch nước quanh co, lại có lan can toàn bằng đá màu. Tôi vừa đi vừa ngắm, thực chẳng khác gì cõi tiên vậy.

Phủ chúa Trịnh ngày thường đã là bậc kỳ quan kiến trúc nhưng đến ngày lễ hội thì vẻ đẹp xa hoa của nơi đây mới thực sự bộc lộ hết. Nguyễn Án viết trong cuốn Tang thương ngẫu lục: Mỗi năm đến tết Trung thu, từ trước mấy tháng, chúa phát gấm trong cung ra để làm hàng trăm, hàng nghìn cái đèn lồng, cái nào cũng tinh xảo tuyệt vời, mỗi cái giá đến mấy chục lạng vàng. Đến ngày chúa ngự ra chơi Bắc cung, cung có cái ao gọi là Long Trì rộng nửa dặm. Trong ao trồng rất nhiều hoa sen, hoa súng. Ven ao đắp đất trồng đá làm núi, chỗ cao chỗ thấp, dàn đặt có hình thế. Có những chỗ khuỷu để cho nhạc công ngồi đàn sáo. Bờ ao trồng hàng mấy trăm cây phù dung, treo đèn ở trên. Sóng trăng rập rờn, trông xa tựa hàng vạn ngôi sao sáng...

Bị phóng hỏa

Năm 1787, khi họ Trịnh thất bại trong việc khôi phục lại địa vị, Trịnh Bồng chạy khỏi kinh thành, Lê Chiêu Thống ngầm cho người đốt phủ chúa đi. Đám cháy lan khắp hai phần ba kinh thành và cháy trong mười ngày liền

Về việc này và việc Lê Chiêu Thống nghe lời Nguyễn Hữu Chỉnh cho vét hết chuông đồng, tượng đồng ở các chùa, đền trong nước đem đúc tiền dùng vào việc quân, sách Lê Quý kỷ sự chép: Người đương thời có câu mỉa mai: "Thiên hạ thất tự chung, chung thất, nhi đỉnh an tại! Hoàng thượng phần vương phủ, phủ phần, tức điện diệc không!" Nghĩa là: "Thiên hạ mất chuông chùa, chuông đã mất, vạc dựa vào đâu! Hoàng thượng thiêu phủ Chúa, phủ bị thiêu, điện trơ ra đó!"

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|phải|Quang cảnh Phủ chúa Trịnh do Samuel Baron vẽ năm 1685. **Phủ chúa Trịnh** (chữ Hán: 鄭王府 / **Trịnh vương phủ**) - vốn có danh xưng chính thức là **Chính phủ** (chữ Hán: 政府) hoặc
**Chúa Trịnh** (chữ Nôm: 主鄭, chữ Hán: 鄭王 / **Trịnh vương**; 1545 – 1787) là một vương tộc phong kiến kiểm soát quyền lực lãnh thổ Đàng Ngoài suốt thời Lê Trung hưng. Về danh
**Trịnh Tùng** (chữ Hán: 鄭松, 19 tháng 12 năm 1550 – 17 tháng 7 năm 1623), thụy hiệu **Thành Tổ Triết Vương** (成祖哲王), là vị chúa chính thức đầu tiên của dòng họ Trịnh dưới
**Trịnh Sâm** (chữ Hán: 鄭森, 9 tháng 2 năm 1739 – 13 tháng 9 năm 1782), thụy hiệu **Thánh Tổ Thịnh vương** (聖祖盛王), là vị chúa thứ 8 của vương tộc Trịnh cầm quyền ở
**Trịnh Căn** (chữ Hán: 鄭根, 18 tháng 7 năm 1633 Lúc nhỏ, Trịnh Căn chưa được xem là một ứng cử viên cho việc kế thừa ngôi Chúa, bởi bác cả của ông là Sùng
**Điện Đô vương Trịnh Cán** (chữ Hán: 奠都王鄭檊, 1775 – 17 tháng 12, 1782) là vị chúa Trịnh thứ 9 của vương tộc Trịnh cầm quyền ở miền Bắc Đại Việt thời nhà Lê trung
**Đoan Nam Vương** **Trịnh Tông** (chữ Hán: 鄭棕; 10 tháng 10 năm 1763 - 23 tháng 7 năm 1786), còn có tên khác là **Trịnh Khải** (鄭楷) là vị chúa Trịnh thứ 10 thời Lê
**Chiến tranh Tây Sơn-Trịnh** là cuộc nội chiến cuối thế kỷ 18 trong lịch sử Việt Nam giữa chính quyền chúa Trịnh và chính quyền nhà Tây Sơn của Nguyễn Nhạc. Cuộc chiến diễn ra
**Án Đô vương Trịnh Bồng** (chữ Hán: 鄭槰; 25 tháng 8 năm 1749 - 13 tháng 2 năm 1791), là vị chúa Trịnh thứ 11 thời Lê Trung hưng và cũng là vị chúa Trịnh
**Trịnh Giang** (chữ Hán: 鄭杠, 14 tháng 10 năm 1711 – 30 tháng 12 năm 1762), còn có tên khác là **Trịnh Khương** (鄭橿), hay **Trịnh Cường**, thụy hiệu là **Dụ Tổ Thuận vương** (裕祖順王),
**Trịnh Doanh** (chữ Hán: 鄭楹, 4 tháng 12 năm 1720 – 12 tháng 5 năm 1767), thụy hiệu **Nghị Tổ Ân vương** (毅祖恩王), là vị chúa Trịnh thứ 7 thời Lê Trung hưng trong lịch
**Trịnh Cương** (chữ Hán: 鄭棡, 9 tháng 7 năm 1686 – 20 tháng 12 năm 1729), còn có tên khác là **Trịnh Chù**, thụy hiệu là **Hy Tổ Nhân vương** (禧祖仁王), là vị chúa Trịnh
**Thanh vương** **Trịnh Tráng** (chữ Hán: 鄭梉, 6 tháng 8 năm 1577 – 28 tháng 5 năm 1657), thụy hiệu **Văn Tổ Nghị vương** (文祖誼王), là chúa Trịnh thứ 2 thời Lê Trung hưng chính
**Chiến dịch Phú Xuân 1786** là loạt trận đánh giữa quân Tây Sơn và chúa Trịnh trong cuộc nội chiến nước Đại Việt cuối thế kỷ 18. Chiến dịch này là một phần của Chiến
**Tây Định Vương Trịnh Tạc** (chữ Hán: 西定王鄭柞, 11 tháng 4 năm 1606 – 24 tháng 9 năm 1682), thụy hiệu **Hoằng Tổ Dương vương** (弘祖陽王), là vị chúa Trịnh thứ 3 thời Lê Trung
**Trịnh Thị Ngọc Lung** (chữ Hán: 鄭氏玉瓏, 1612-1706), là một vương phi của chúa Trịnh. Bà là chính phi của Tây định Vương Trịnh Tạc. Bà là mẹ nuôi của Lê Gia Tông và Định
**Trịnh Thị Ngọc Trinh** (chữ Hán: 鄭氏玉楨), là một hoàng hậu nhà Lê trung hưng. Vợ vua Lê Kính Tông, mẹ vua Lê Thần Tông. Bà là hoàng hậu họ Trịnh đầu tiên thời Lê
**Trịnh Vịnh** (chữ Hán: 鄭栐, 1654 - 1683) là vương thế tử của chúa Trịnh Căn đời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, tuy nhiên ông qua đời trước khi được truyền ngôi.
**Trịnh Lệ** (chữ Hán: 鄭棣, ? - ?), là Vương thân họ Trịnh dưới triều Lê Trung Hưng trong lịch sử Việt Nam. Trịnh Lệ là con trai thứ hai của đức Nghị Tổ Ân
**Trịnh Thị Ngọc Trúc** (1595 - 1660, chữ Hán: 鄭氏玉竹) còn được biết đến là **Lê Thần Tông Trịnh hoàng hậu** (黎神宗鄭皇后), là một Hoàng hậu của nhà Lê trung hưng, vợ của Lê Thần
**Trịnh Cối** (chữ Hán: 鄭檜, ? - 1584) là một nhà chính trị thời chiến tranh Lê-Mạc. Do là con cả của thượng tướng Trịnh Kiểm, ông được cha trao binh quyền trước khi chết.
**Chùa Mía** (tên chữ: **Sùng Nghiêm tự**, 崇嚴寺) là một ngôi chùa ở xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội. Xưa kia, vùng này là Cam Giá, tên Nôm là Mía,
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Đặng Thị Huệ** (chữ Hán: 鄧氏惠, ?-?), thông gọi **Đặng Tuyên phi** (鄧宣妃), là một cung tần của chúa Trịnh Sâm, và là mẹ của vị chúa tiếp theo Trịnh Cán. Trong hậu phủ chúa
**Trịnh Bính** (30 tháng 6 năm 1670 - 3 tháng 2 năm 1703) là một thế tử trong phủ chúa Trịnh dưới thời Lê Trung Hưng trong lịch sử Việt Nam, tuy nhiên đã qua
**Trịnh Kiểm** (chữ Hán: 鄭檢, 14 tháng 9, 1503 – 24 tháng 3, 1570), tên thụy **Thế Tổ Minh Khang Thái vương** (世祖明康太王), là nhà chính trị, quân sự có ảnh hưởng của Đại Việt
**Giuse Maria Trịnh Như Khuê** (11 tháng 12 năm 1898 – 27 tháng 11 năm 1978) là một hồng y thuộc Giáo hội Công giáo Rôma và là hồng y tiên khởi của Việt Nam. Khẩu
**Nguyễn Thị Ngọc Diễm** (chữ Hán: 阮氏玉琰, 1721-1784), là thứ phi của chúa Trịnh Doanh, mẹ Trịnh Sâm, bà nội của Trịnh Khải và Trịnh Cán. ## Tiểu sử ### Thân thế Bà có tên
**Chiến dịch Thăng Long** là giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến giữa Tây Sơn và chúa Trịnh trong lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ 18. Chiến dịch Thăng Long 1786 kế tiếp chiến
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1771–1785)** là giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Cuộc chiến tranh này bắt đầu khi các lực lượng nổi dậy của 3
Nhân dịp CLB Tuổi Trẻ họ Đặng dòng Lương Xá, Chúc Sơn, mời Ban Thanh niên Trịnh tộc dự lễ niệm 2 năm thành lập, Ban Thanh niên Trịnh tộc Việt Nam đăng bài viết
**Tôn Thất Hiệp** (chữ Hán: 尊室協; 1653-1675) là một hoàng tử, con của chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần. Ông từng là Nguyên soái thống lĩnh quân Đàng Trong đánh nhau với quân Trịnh vào năm
**Chùa Hàm Long** (chữ Hán: 寺含龍) hay **Long Hạm tự** (chữ Hán: 龍頷寺) là một ngôi chùa cổ tại khu phố Thái Bảo, phường Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh, chùa nằm
**Nguyễn Thị Ngọc Vinh** (chữ Hán: 阮氏玉榮, 1724 - 13 tháng 1, 1764), còn có tên khác là **Nguyễn Thị Bản**, là Chính phi của chúa Nghị Tổ Ân vương Trịnh Doanh, mẹ đích của
**Trinh Thuận Công chúa **(貞順公主, 1385 - 1460) là công chúa nhà Triều Tiên, trưởng nữ của Triều Tiên Thái Tông và Nguyên Kính Vương hậu Mẫn thị (閔氏). Định Tông năm thứ nhất, 1399,
**Sùng Nghĩa vương Trịnh Kiều** (崇義王鄭橋, 1601 - 1642) là Thế tử của phủ chúa Trịnh dưới thời nhà Lê Trung Hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Trịnh Kiều là con trai
**Chùa Bút Tháp** (**Ninh Phúc tự** 寧福寺) nằm ở bên đê hữu ngạn sông Đuống, thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ngoài ra, nhân dân trong vùng còn
**Trịnh Kinh** (chữ Hán phồn thể: 鄭經; giản thể: 郑经; bính âm: Zhèng Jìng) (1642 – 1681), tên **Cẩm**, tự **Hiền Chi**, **Nguyên Chi**, hiệu **Thức Thiên**, biệt danh **Cẩm Xá**, là con trưởng của
**Trịnh Thành Công** () (2 tháng 8 năm 1624 - 23 tháng 6 năm 1662), nguyên huý là **Sâm**, tự là **Minh Nghiễm **hay** Đại Mộc**, hay còn được biết đến với tên gọi khác
**Cố Luân Khác Tĩnh Công chúa** (, ; 4 tháng 7 năm 1679 - 4 tháng 4 năm 1735), Công chúa nhà Thanh, Hoàng nữ thứ sáu của Khang Hy Đế, xếp thứ tự là
**Lại Thị Ngọc Trân** (chữ Hán: 賴氏玉軫), thụy hiệu **Từ Phúc** (慈福), tục gọi **Đức bà Chợ Huyện**, là phu nhân chánh thất của Thế Tổ Minh Khang thái vương Trịnh Kiểm, vị chúa Trịnh
**Trịnh Hoài Đức** ( 1765 - 1825), còn có tên là An (安), tự **Chỉ Sơn **, hiệu **Cấn Trai**; là một công thần của triều Nguyễn, là một nhà thơ, nhà văn và là
**Chùa Hưng Long** tọa lạc tại thôn Đông Phù, xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội ngày nay, trước đây còn có tên gọi là chùa Long Hưng, chùa Hưng Hóa, chùa
**Hòa Thuận Ông chúa** (), biệt xưng **Hòa Thuận Quý chúa** (和顺贵主), tên thật là **Lý Hương Di** (), là Vương nữ nhà Triều Tiên, con gái trưởng của Triều Tiên Anh Tổ Lý Khâm.
**Trịnh** là một họ của người thuộc vùng Văn hóa Đông Á. Họ này tương đối phổ biến ở Việt Nam và Trung Quốc (giản thể: 郑, Bính âm: Zhèng, Wade-Giles: Cheng) và Triều Tiên
**Chùa Liên Phái** là một ngôi chùa ở thủ đô Hà Nội, Việt Nam. Chùa nằm trong ngõ Liên Phái, phố Bạch Mai, thuộc phường Cầu Dền, quận Hai Bà Trưng. Liên Phái là tên
**Chùa Bích Động** là một ngôi chùa cổ được xây dựng trên dãy núi đá vôi Trường Yên thuộc xã Ninh Hải, thành phố Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Đây là một di tích lịch
**Chùa Trấn Quốc** nằm trên một hòn đảo phía Đông Hồ Tây. Chùa có lịch sử gần 1500 năm và được coi là lâu đời nhất ở Thăng Long - Hà Nội. Dưới thời nhà
Sữa tắm nước hoa tinh chất ngọc trai thảo dược dưỡng ẩm trắng da Thebol 900g + Sữa tắm trắng da hạt masage Thebol 226g + Dung dịch vệ sinh phụ nữ chiết xuất từ
**Chùa Cổ Lễ** là một quần thể kiến trúc đạo Phật và tín ngưỡng Việt Nam mang các yếu tố kiến trúc gô-tích ở xã Cổ Lễ, tỉnh Ninh Bình, ngay sát quốc lộ 21A,