✨Chiến dịch Phú Xuân 1786

Chiến dịch Phú Xuân 1786

Chiến dịch Phú Xuân 1786 là loạt trận đánh giữa quân Tây Sơn và chúa Trịnh trong cuộc nội chiến nước Đại Việt cuối thế kỷ 18. Chiến dịch này là một phần của Chiến tranh Tây Sơn-Chúa Trịnh, mở đường cho các cuộc bắc tiến thắng lợi của quân Tây Sơn trong quá trình tiêu diệt thế lực họ Trịnh tại Bắc Hà.

Chiến dịch Phú Xuân bao gồm những việc đánh chiếm toàn bộ lãnh thổ từ sông Gianh trở vào nam tới Thuận Hóa, mà trọng điểm là thành Phú Xuân.

Bối cảnh

Nước Đại Việt ngay sau khi thống nhất một thời gian ngắn sau chiến tranh Lê-Mạc lại bị chia cắt từ đầu thế kỷ 17 tới cuối thế kỷ 18 thành Đàng Ngoài và Đàng Trong. Năm 1771, anh em Tây Sơn nổi dậy chống chúa Nguyễn ở Đàng Trong, chính quyền chúa Nguyễn nghiêng ngả. Chúa Trịnh Sâm ở Đàng Ngoài nhân cơ hội đó phái Hoàng Ngũ Phúc mang quân vào đánh Phú Xuân. Đầu năm 1775, quân Trịnh đánh chiếm Phú Xuân, chúa Nguyễn Phúc Thuần bỏ chạy vào Nam Bộ.

Quân Trịnh tiếp tục đánh thắng quân Tây Sơn khiến Nguyễn Nhạc phải quy phục và nhận làm tiên phong đánh chúa Nguyễn. Từ năm 1776 đến năm 1785, Tây Sơn nhiều lần tấn công chúa Nguyễn ở Nam Bộ, giết 2 chúa Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Phúc Dương và đuổi chúa Nguyễn Ánh chạy sang lưu vong ở Xiêm La.

Sau khi làm chủ Nam Trung Bộ và Nam Bộ, Tây Sơn quay sang phía bắc đánh Trịnh.

Tình hình hai bên

Ngay sau khi hạ được thành Phú Xuân và tiến xuống đánh thắng quân Tây Sơn ở Quảng Nam, quân Trịnh đã có biểu hiện suy yếu. Thu hàng Tây Sơn, quân Trịnh ngưng chiến và sau đó bị dịch bệnh hoành hành, quân bị thương vong khá nhiều. Cuối năm 1775, Hoàng Ngũ Phúc kiến nghị Trịnh Sâm bỏ Quảng Nam rút về Thuận Hóa rồi trở về bắc. Trịnh Sâm chấp thuận.

Thế lực họ Nguyễn ở Quảng Nam thấy quân Trịnh rút đi bèn nổi dậy định chiếm cứ nhưng Nguyễn Nhạc đã điều binh đánh tan lực lượng này và chiếm Quảng Nam. Trịnh Sâm thấy Quảng Nam xa xôi hiểm trở và ngại dùng binh, nhân đấy mới trao cho Nguyễn Nhạc trấn giữ.

Năm 1778, sau khi giết được hai chúa Nguyễn, Nguyễn Nhạc tự xưng làm vua, đặt niên hiệu Thái Đức. Chúa Trịnh dù biết nhưng không hỏi đến. Trấn thủ Thuận Hóa của họ Trịnh là Phạm Ngô Cầu được đánh giá là người tham lam nhút nhát, tham tụng Hồ Sĩ Đống từ Thuận Hoá về kinh, đã nhiều lần xin bổ viên tướng khác thay cho Ngô Cầu, nhưng Trịnh Sâm không nghe theo.

Sang tháng 4 năm đó, Phạm Ngô Cầu sai sứ là Nguyễn Phú Như vào Quy Nhơn mượn tiếng trao đổi vấn đề biên giới, nhưng thực ra muốn dò tình hình Tây Sơn. Phú Như vốn có quen biết với Nguyễn Hữu Chỉnh, bèn mang tình hình Thuận Hóa nói lại. Hữu Chỉnh bèn xin Nguyễn Nhạc ra quân đánh Thuận Hóa. Lúc đó Nguyễn Nhạc mới quyết định.

Diễn biến

Bố trí lực lượng hai bên

Nguyễn Nhạc cử Nguyễn Huệ làm tổng chỉ huy các cánh quân thủy bộ, Vũ Văn Nhậm làm tả quân đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm hữu quân đô đốc, Nguyễn Lữ chỉ huy đội dự bị thủy quân. Theo giáo sĩ La Grand de la Liraye trong cuốn Notes historiques sur la nation annamite, tổng số quân Tây Sơn tham chiến gồm 5.000 tiền quân, 2.000 hậu quân và 3.000 thủy binh, tất cả 1 vạn người.

Phía quân Trịnh có trên 3 vạn quân. Chủ tướng Phạm Ngô Cầu chuyên làm việc buôn bán, không sắm sửa khí giới phòng bị lương thực nên quân Trịnh và dân đều chán nản khinh thường:

  • Đạo quân thủy tiến đánh Phú Xuân
  • Một đạo thủy quân của Nguyễn Lữ tiến thẳng ra sông Gianh rồi chia làm hai: một cánh án ngữ sông Gianh ngăn viện binh quân Trịnh ở Nghệ An vào cứu; cánh kia đánh xuống các đồn quân Trịnh ở Bố Chính, Leo Heo và hợp với cánh quân từ Phú Xuân tiến ra đánh Dinh Cát.
  • Toàn bộ bộ binh tập trung đánh đèo Hải Vân rồi tiến ra Phú Xuân.

Quân Tây Sơn đánh đèo Hải Vân

Biết Phạm Ngô Cầu là người tin vào việc bói toán, Nguyễn Huệ sai một thủ hạ người Hoa giả làm thầy bói tới Phú Xuân ra mắt quận Tạo Phạm Ngô Cầu, khuyên Cầu nên lập đàn giải hạn. Quận Tạo nghe theo, bèn lập đàn chay ở chùa Thiên Mụ trong 7 ngày 7 đêm, bắt quân phục dịch vất vả. Trong khi tướng sĩ phía Trịnh mất cảnh giác thì quân Tây Sơn bắt đầu lên đường ra bắc ngày 28 tháng 4 âm lịch tức 25 tháng 5 năm 1786 và lũy Đồng Hới.

Tuy tại đây có không ít đồn phòng thủ nhưng các cánh quân Trịnh tại đây đều có tinh thần chiến đấu thấp. Khi quân Tây Sơn kéo đến, các tướng sĩ Bắc Hà đều bỏ thành lũy chạy trốn. Khi quân Tây Sơn chiếm được Bố Chính sắp tiến vào Leo Heo thì quân Trịnh tại đây cũng bỏ chạy, nhưng bị dân địa phương bắt nộp cho quân Tây Sơn.

Quân Tây Sơn tiến đánh lũy Đồng Hới (lũy Thầy) do Phái Vị hầu và Ninh Tốn chỉ huy. Tuy thành lũy khá kiên cố nhưng tinh thần quân Trịnh tại đây cũng bạc nhược. Hai tướng Trịnh sợ bị đánh từ cả đường thủy lẫn đường bộ, không dám chống cự bèn theo đường núi trốn thoát về Bắc. Ngày 26 tháng 5 âm lịch tức 21 tháng 6, quân Tây Sơn chiếm đóng lũy Đồng Hới.

Trận chiến ở thành Phú Xuân

Trong khi Phạm Ngô Cầu vẫn đang cầu cúng ở chùa Thiên Mụ thì tàn quân Trịnh ở Hải Vân chạy về báo tin Hoàng Nghĩa Hồ tử trận. Quận Tạo hoảng sợ, biết mình mắc mưu quân Tây Sơn, vội lệnh cho quân sĩ về thành chuẩn bị đối phó, nhưng các tướng sĩ vất vả phục dịch nhiều ngày nên mỏi mệt và tinh thần chiến đấu suy nhược.

Để ly gián các tướng Trịnh giữ Phú Xuân là Phạm Ngô Cầu và Hoàng Đình Thể, Nguyễn Huệ theo kế của Nguyễn Hữu Chỉnh, dùng Chỉnh đứng tên nhân danh người quen cũ, viết thư dụ hàng Hoàng Đình Thể, song lại sai người cố ý đưa thư nhầm cho Phạm Ngô Cầu. Phạm Ngô Cầu đang bối rối và mỏi mệt lại tiếp nhận thư của Nguyễn Hữu Chỉnh gửi Hoàng Đình Thể, bắt đầu nghi ngờ Đình Thể không hết lòng chiến đấu. Bản thân quận Tạo cũng sinh ý định hàng Tây Sơn. Quận Tạo bèn dìm bức thư đó không đưa cho quận Thể.

Không lâu sau quân Tây Sơn kéo đến sát thành Phú Xuân. Đạo thủy quân của Vũ Văn Nhậm chỉ huy tới cửa biển thì gặp một tàu Bồ Đào Nha. Tàu này vốn của thương nhân thường tới làm ăn tại Phú Xuân nên họ ủng hộ Phạm Ngô Cầu chống Tây Sơn. Quân Tây Sơn bèn bao vây đốt phá tàu, thuyền trưởng và các sĩ quan người Bồ Đào Nha bị quân Tây Sơn quăng xuống biển. Tàu bị đốt cháy, được phá làm từng mảnh dùng làm cầu phao, còn các thủy thủ được Tây Sơn thu dụng.

Thắng tàu Bồ Đào Nha, thủy quân Tây Sơn theo sông Hương áp sát thành, trong khi đó bộ binh Tây Sơn cũng tiến đến vây thành.

Trong thành, Phạm Ngô Cầu bàn nên hàng, còn Hoàng Đình Thể muốn đánh. Vì quận Thể quyết chiến, quận Tạo để quận Thể mang quân nghênh chiến, còn mình giữ thành.

Hoàng Đình Thể mang quân lên mặt thành chống cự, tập trung pháo bắn xuống dữ dội. Bộ binh Tây Sơn bị pháo bắn phải giãn vòng vây lùi ra xa. Nguyễn Huệ điều quân bộ lên thuyền thủy binh ở bờ sông Hương, dùng đại bác bắn lên thành chống lại pháo quân Trịnh, nhưng từ mặt nước lên mặt thành quá cao (hơn 2 trượng) nên đại bác Tây Sơn bắn không tới. Một chiến thuyền Tây Sơn bị bắn chìm.

Nguyễn Huệ buộc phải hạ lệnh cho quân Tây Sơn ngưng chiến. Lúc đó là tháng 5 đang mùa nước lũ. Thông thường ban ngày mực nước sông Hương thấp, tới đêm nước dâng cao. Biết quy luật nước lên xuống, Nguyễn Huệ bèn đổi chiến thuật không đánh ban ngày mà đánh ban đêm.

Đêm ngày 20 tháng 5 âm lịch tức 15 tháng 6 năm 1786, nước dâng ngập chân thành Phú Xuân. Nguyễn Huệ hạ lệnh tiến công. Thủy quân Tây Sơn tiến đến nã pháo vào trong thành. Hỏa lực quân Trịnh mất tác dụng. Hoàng Đình Thể không thể dùng pháo binh chống lại quân Tây Sơn được nữa, phải cùng các con và thuộc tướng Vũ Tá Kiên mở cửa thành ra nghênh địch. Trấn thủ Dinh Cát là con rể chúa Trịnh nghe tin thất kinh, bỏ Dinh Cát chạy song sau đó bị bắt cùng 200 thuộc hạ.

Vùng kiểm soát của quân Trịnh ở Nam sông Gianh đã bị cánh quân Nguyễn Lữ tấn công đánh chiếm đồng thời với trận chiến tại thành Phú Xuân. Tới ngày 21/6/1786, quân Tây Sơn chiếm xong Lũy Thầy và tới ngày 22/6/1786 thì chiếm nốt Dinh Cát bỏ trống.

Chiến dịch Phú Xuân 1786 diễn ra trong 28 ngày, quân Tây Sơn tiêu diệt đại bộ phận quân Trịnh ở phía nam sông Gianh – vùng đất mà chính quyền Lê - Trịnh mới mở từ cuộc chiến năm 1774-1775 và khiến chính quyền chúa Trịnh vốn suy yếu càng đẩy nhanh tới tan rã. Nhân đà thắng lợi này, Nguyễn Huệ thúc quân tấn công ra bắc. Lực lượng họ Trịnh nhanh chóng bị đánh bại và chính quyền chúa Trịnh sụp đổ 1 tháng sau đó (21/7/1786).

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến dịch Phú Xuân 1786** là loạt trận đánh giữa quân Tây Sơn và chúa Trịnh trong cuộc nội chiến nước Đại Việt cuối thế kỷ 18. Chiến dịch này là một phần của Chiến
**Chiến dịch Thăng Long** là giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến giữa Tây Sơn và chúa Trịnh trong lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ 18. Chiến dịch Thăng Long 1786 kế tiếp chiến
**Lịch sử chiến tranh Việt Nam và Xiêm La** (Thái Lan ngày nay) được bắt đầu từ thế kỷ 18, khi người Việt tiến vào khu vực đồng bằng sông Cửu Long và gây ảnh
**Chiến tranh Tây Sơn-Trịnh** là cuộc nội chiến cuối thế kỷ 18 trong lịch sử Việt Nam giữa chính quyền chúa Trịnh và chính quyền nhà Tây Sơn của Nguyễn Nhạc. Cuộc chiến diễn ra
Đây là danh sách các trận đánh, chiến dịch, cuộc vây hãm, hành quân, các cuộc giao tranh trong lịch sử Việt Nam, diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam, qua các triều đại và
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1787–1802)** là giai đoạn thứ hai của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Giai đoạn này bắt đầu khi Nguyễn Ánh trở về tái chiếm Gia
**Nguyễn Nhạc** (chữ Hán: 阮岳; 1743 – 1793) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Nhạc**, là vị hoàng đế sáng lập ra Nhà Tây Sơn và ở ngôi hoàng đế từ năm 1778 đến năm
**Trịnh Sâm** (chữ Hán: 鄭森, 9 tháng 2 năm 1739 – 13 tháng 9 năm 1782), thụy hiệu **Thánh Tổ Thịnh vương** (聖祖盛王), là vị chúa thứ 8 của vương tộc Trịnh cầm quyền ở
**Nguyễn Lữ** (chữ Hán: 阮侶; 1754–1787) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Lữ** (chữ Hán: 阮文侶) là một chính trị gia và nhà quân sự Việt Nam ở thế kỷ 18. Ông là 1 trong
Chiến tranh đổ bộ là một khái niệm trong lĩnh vực quân sự, chỉ loại hoạt động quân sự sử dụng các tàu thuyền đi biển để tấn công và đổ quân. Hoạt động này
**Phạm Ngô Cầu** () tức **Tạo Quận công** là một tướng nhà Lê trung hưng, thời chúa Trịnh Sâm trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp Phạm Ngô Cầu dòng dõi Phạm Ngô Thạch
**Trận Ngọc Hồi – Đống Đa** (hay **Chiến thắng Kỷ Dậu**) là tên gọi do các nhà sử học Việt Nam dành cho loạt trận đánh chống ngoại xâm thắng lợi của nước Đại Việt
nhỏ||315x315px nhỏ|255x255px|Đền thờ Ninh Tốn **Ninh Tốn** (chữ Hán: 寧遜, 1744-1795), tự **Khiêm Như** sau đổi là **Hi Chí**, hiệu **Mẫn Hiên**, **Chuyết Sơn cư sĩ**, **Song An cư sĩ**; là nhà thơ, nhà sử
**Fedor von Bock** (3 tháng 12 năm 1880 – 4 tháng 5 năm 1945) là một Thống chế quân đội Đức thời Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông đã đóng một vai trò quan
**Nhà Tây Sơn** (chữ Nôm: 家西山, chữ Hán: 西山朝 / **Tây Sơn triều**) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam tồn tại từ năm 1778 đến năm 1802, được thành lập
**Nguyễn Hữu Chỉnh** (, 1741 - 15 tháng 1 năm 1788), biệt hiệu **Quận Bằng** (鵬郡), là nhà quân sự, chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê trung hưng và Tây
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
**Quân đội Tây Sơn** là tổ chức vũ trang của Nhà Tây Sơn, xuất phát từ lực lượng nghĩa quân của phong trào nông dân từ năm 1771 cho đến ngày sụp đổ năm 1802.
**Phra Bat Somdet Phra Phutthayotfa Chulalok Maharat** (, 20 tháng 3 năm 1736 – 7 tháng 9 năm 1809), tên khai sinh là **Thongduang** (), còn được gọi là **Rama I**, thụy hiệu đầy đủ
**Gia Long** (; 8 tháng 2 năm 1762 – 3 tháng 2 năm 1820), tên húy là **Nguyễn Phúc Ánh** (阮福暎), thường được gọi là **Nguyễn Ánh** (阮暎), là một nhà chính trị, nhà quân sự
**Nguyễn Thiếp** (chữ Hán: 阮浹, 1723 - 1804) tự Khải Xuyên, là danh sĩ cuối đời Hậu Lê và Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông là người xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô,
Đàng Trong và [[Đàng Ngoài (1757).]] **Đàng Trong** (chữ Nôm: 唐冲), hay **Nam Hà** (chữ Hán: 南河) là tên gọi vùng lãnh thổ Đại Việt do chúa Nguyễn kiểm soát, xác định từ sông Gianh
**Hà Nội** là thủ đô, là thành phố trực thuộc trung ương và cũng là một đô thị loại đặc biệt của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hà Nội nằm về
**Trịnh Doanh** (chữ Hán: 鄭楹, 4 tháng 12 năm 1720 – 12 tháng 5 năm 1767), thụy hiệu **Nghị Tổ Ân vương** (毅祖恩王), là vị chúa Trịnh thứ 7 thời Lê Trung hưng trong lịch
**Đặng Tiến Đông** (1738–1794 hay 1797) làm quan thời Lê – Trịnh, sau đầu quân Tây Sơn và trở thành danh tướng của lực lượng này. Thân thế và sự nghiệp của ông hiện vẫn
Từ thời kỳ cổ đại, **Đức** (lúc đó được người La Mã gọi là vùng đất Germania) đã có các bộ lạc người German (tổ tiên trực tiếp của người Đức) chính thức cư ngụ
**George III của Liên hiệp Anh** (George William Frederick; 4 tháng 6 năm 1738 – 29 tháng 1 năm 1820) là Quốc vương Đại Anh và Ireland cho đến khi hai vương quốc hợp nhất
**Thái Bình** là một tỉnh cũ ven biển thuộc vùng đồng bằng sông Hồng. Theo quy hoạch phát triển kinh tế, Thái Bình thuộc vùng duyên hải Bắc Bộ. Theo cuộc Tổng điều tra dân
**Ngô Văn thi** (chữ Hán: 吳文楚, ?– 1795), còn có tên là **Ngô Văn**, **Ngô Văn Thi**, là một danh tướng của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự
**William Wilberforce** (24 tháng 8 năm 1759 – 29 tháng 7 năm 1833), là một chính khách, nhà hoạt động từ thiện người Anh, người lãnh đạo phong trào bãi bỏ chế độ nô lệ.
**Maria Christina** (đôi khi được viết là **_Marie Christine_**) **Johanna Josepha Antonia** (sinh ngày 13 tháng 5 năm 1742 - mất ngày 24 tháng 6 năm 1798), còn được gọi là **Maria Christina của Áo**
nhỏ|phải|Tượng Chưởng Trung Quân Nguyễn Văn Thành được tôn trí thờ sau 1868 tại một ngôi miếu cận Đại Nội Huế**Nguyễn Văn Thành** (chữ Hán: 阮文誠; 1758–1817) thiếu thời đã theo cha chinh chiến, về
**Phục bích** (), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Louis XVI của Pháp** (23 tháng 8 năm 1754 – 21 tháng 1 năm 1793) là quân vương nhà Bourbon, cai trị nước Pháp từ năm 1774 đến 1792, rồi bị xử tử hình năm
**Quân đội Hoàng gia Phổ** () là lực lượng quân sự của Vương quốc Phổ (nguyên là lãnh địa Tuyển hầu tước Brandenburg trước năm 1701). Quân đội Phổ đóng vai trò quan trọng trong
**Võ Đình Tú** (chữ Hán: 武廷秀, ? - 1799), tự **Tuấn Chi** (俊之), hiệu **Thiết Hán** (鐵漢), là một tì tướng của nhà Tây Sơn, được người đương thời liệt vào Tây Sơn thất hổ
** Đế quốc Áo-Hung**, **Nền quân chủ kép**, hoặc gọi đơn giản là _Áo_, là một chính thể quân chủ lập hiến và cường quốc ở Trung Âu. Đế quốc Áo-Hung được thành lập năm
**Lê Trung** (黎忠, ?-1798) là một võ quan cao cấp của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp Thái sư Lê Trung, tên thật là **Lê Văn Trung.** Quê quán của
**Lãnh thổ Colorado** (tiếng Anh: _Colorado Territory_ hay _Territory of Colorado_) từng là một lãnh thổ hợp nhất có tổ chức của Hoa Kỳ, tồn tại từ ngày 28 tháng 2 năm 1861 cho đến
**Lục địa Nam Cực** hay **châu Nam Cực** (, phát âm hay ; còn được gọi là **Nam Cực**) là lục địa nằm xa về phía nam và tây nhất trên Trái Đất, chứa Cực
Di tích cổng Bắc thành Đồng Hới nhỏ|Bản vẽ thành Đồng Hới **Thành Đồng Hới** hay **Thành cổ Đồng Hới**, còn gọi là **Thành cổ Quảng Bình**, là một di tích kiến trúc quân sự
**Đặng Văn Chân** (鄧文真) hay **Đặng Văn Trấn**, một tướng lĩnh cao cấp của phong trào Tây Sơn. ## Tên gọi Đặng Văn Chân được ghi trong sử sách với nhiều tên gọi khác nhau.
nhỏ|Chữ ký của Armand Marc, comte de Montmorin, Bộ trưởng bộ Ngoại giao và Hải quân Pháp, trong Hiệp ước Versailles 1787. Chữ ký còn lại _Evèque d'Avran_, hay [[Pigneau de Béhaine.]] **Hiệp ước Versailles
**Văn tế thập loại chúng sinh** còn được gọi là **Văn chiêu hồn** hay **Văn tế chiêu hồn** là một bài văn tế bằng chữ Nôm soạn vào đầu thế kỷ 19. Tác phẩm được
**Phan Huy Ích** (chữ Hán: 潘輝益; 1751 – 1822), tự **Khiêm Thụ Phủ**, **Chi Hòa**, hiệu **Dụ Am**, **Đức Hiên**, là quan đại thần trải ba triều đại Lê trung hưng, Tây Sơn và Nguyễn.
**Trương Đăng Đồ** (? - 1802) một danh tướng của Tây Sơn, tước Tú Đức hầu. ## Thân thế Trương Đăng Đồ là người làng Mỹ Khê, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi; nay thuộc
Ngày **24 tháng 1** là ngày thứ 24 trong lịch Gregory. Còn 341 ngày trong năm (342 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *41 – Hoàng đế La Mã Caligula, được biết tới với
**Edmund Roberts** (29 tháng 6 năm 1784 - 12 tháng 6 năm 1836) là một nhà ngoại giao người Mỹ. Ông được bổ nhiệm bởi Tổng thống Andrew Jackson, từng là đặc phái viên đầu
**Nguyễn Quang Huy** là một viên tướng của nhà Tây Sơn từng leo lên tới chức Phó Đô đốc. Thuở nhỏ, Nguyễn Quang Huy là một chú bé can đảm, điềm tĩnh, thông minh, nhờ
**Gustav III** (24 tháng 1 năm 1746 – 29 tháng 3 năm 1792), còn được gọi là _Gustavus III_, là Vua Thụy Điển từ năm 1771 cho đến khi bị ám sát vào năm 1792.