✨Ninh Tốn

Ninh Tốn

nhỏ||315x315px nhỏ|255x255px|Đền thờ Ninh Tốn Ninh Tốn (chữ Hán: 寧遜, 1744-1795), tự Khiêm Như sau đổi là Hi Chí, hiệu Mẫn Hiên, Chuyết Sơn cư sĩ, Song An cư sĩ; là nhà thơ, nhà sử học, và là đại thần thời Lê trung hưng và Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam.

Thân thế và sự nghiệp

Ông là người Côi Trì, nay thuộc xã Yên Mỹ huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.

Theo bia "Côi Trì bi ký" do Ninh Tốn soạn năm 1769, thì tổ tiên ông thuộc dòng dõi Ninh Hữu Hưng, về ở Ninh Xá, huyện Chí Linh (Hải Dương).

Tuy nhiên, Bia "Dã Hiên Tiên Sinh Mộ Biểu", sách Ninh Tướng Công Hành Trạng và Gia phả họ Ninh tại Côi Trì viết tổ tiên ông là Ninh công tự Doãn Chung từ thôn Ninh Xá huyện Vọng Doanh (nay thuộc xã Yên Ninh huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định) tới "chiếm xạ" (?) tại Côi Trì vào khoảng năm Hồng Đức triều Hậu Lê khai khẩn đất rồi định cư luôn ở đó.

Cha Ninh Tốn là Ninh Ngạn (hiệu Dã Hiên, Hy Tăng), một ẩn sĩ, là tác giả của hai tập sách: Vũ Vu thiển thuyết (Lời bàn nông cạn về thú ở ẩn) và Phong vinh tập (Tập thơ văn Vịnh gió). Bác của Ninh Tốn là Ninh Địch, đỗ Hoàng giáp khoa Mậu Tuất (1718) đời Lê Dụ Tông.

Từ nhỏ, Ninh Tốn đã nổi tiếng là thông minh, được cha cho trọ học ở kinh đô Thăng Long.

Năm 1762, ông đỗ Hương cống (tức cử nhân) lúc 19 tuổi. Sau đó, ông tiếp tục theo học với Tiến sĩ Vũ Huy Đỉnh. Ở đây ông kết thân với hai bạn học là Phạm Nguyễn Du và Vũ Huy Tấn.

Làm quan thời vua Lê chúa Trịnh (1770-1787)

Năm Canh Dần (1770), lúc 27 tuổi, Ninh Tốn có đến chơi rồi đề thơ ở núi Vân Lỗi (thuộc Thanh Hóa). Một hôm, chúa Trịnh Sâm đi xem xét phong tục, ngự chơi núi ấy, thấy bài thơ trên, liền mến tài thơ mà triệu ông vào giữ chức Thiêm tri binh phiên.

Năm Ất Mùi (1775), ông vâng lệnh vào triều nhận chức Hiệu thảo thự Sơn Nam hiến sứ.

Theo Việt sử thông giám cương mục thì năm này, ông cùng với Ngô Thì Sĩ, Phạm Nguyễn Du, Nguyễn Sá lo việc biên soạn Quốc sử.

Năm 1776, ông có tờ khải về các tệ nạn ở vùng ven biển ven sông, cùng nạn các lại dịch lấy cớ vì việc công để thu lúa, thu thủy sản, làm cho dân khổ. Nhờ vậy, nên có lệnh cấm nghiêm.

Năm Đinh Dậu (1777), ông làm Nhập thiêm sai công phiên, nhiều lần được theo xa giá đi công cán.

Trong những chuyến đi ấy, ông đã sáng nhiều thơ, sau gom lại thành tập "Tây hộ mạn hứng" (Những cảm hứng tản mạn trên đường hộ giá phía Tây), được Ngô Thì Nhậm, Phạm Nguyễn Du đánh giá cao.

Năm Mậu Tuất (1778), ông đỗ Hội nguyên tiến sĩ năm 35 tuổi, được cử làm Phụng tá quân hải lộ.

Năm 1779, ông được thăng tứ phẩm. Cha ông là Hy Tăng được phong Hàn lâm viện thị độc, mẹ là Lê Thị Liệu được tặng Nghi nhân.

Năm Canh Sửu (1781), lúc ông 38 tuổi, được giữ chức Thiêm sai tri binh phiên, làm ở Viện cơ mật kiêm Quốc sử quốc luật toản tu, Đông các đại học sĩ, Thự Hình bộ hữu thị lang. Nhân lúc mang cáo sắc phong trở về làng, ông đi chơi núi Chuyết Sơn và làm tập Chuyết Sơn thi tự.

Năm 1786, ông làm Hiệp trấn ở Động Hải (thuộc huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình).

Khi quân Tây Sơn đoạt thành Phú Xuân (1786), tiến đánh ra các đồn Cát Thanh, Động Hải thì ông bỏ đồn mà chạy . Nhưng sau đó vẫn được giao chức Tham tri chính sự kiêm Bồi tụng cùng với Ngô Trọng Khuê.

Năm 1787, quân Tây Sơn do Võ Văn Nhậm chỉ huy đánh ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉnh tâu với vua Lê Chiêu Thống, cho Nguyễn Như Thái làm Thống lĩnh, Ninh Tốn làm Tham tán quân vụ, đem quân họp với quân của Lê Duật, chống lại.

Vốn là người Côi Trì, am hiểu rõ vị trí chiến lược của Tam Điệp nên ông khuyên Nguyễn Như Thái nhanh chóng chiếm giữ để ngăn quân Tây Sơn. Nhưng mới tới Phủ Lý thì quân của Võ Văn Nhậm đã vượt qua Tam Điệp. Lê Duật bị Ngô Văn Sở giết chết ở Cao Lũng, Nguyễn Như Thái bị tên bắn chết sau khi thua trận ở sông Giản (thuộc Ninh Bình), còn Ninh Tốn nhờ trốn vào nhà dân nên được thoát nạn .

Làm quan thời Tây Sơn (1788-1790)

Năm 1788, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ ra Bắc Hà diệt Vũ Văn Nhậm, rồi cho sắp đặt lại quan chức. Ninh Tốn được phong chức Hàn lâm trực học sĩ, để cùng với Nguyễn Thế Lịch, Nguyễn Bá Lân, Phan Huy Ích giúp Ngô Văn Sở và Ngô Thì Nhậm, cai quản đất Bắc.

Có các nhận định khác nhau về việc Ninh Tốn ra phục vụ Tây Sơn. Các tác giả của sách Thơ văn Ninh Tốn cho rằng đó là sự thức thời, tuy nhiên sách Đại Nam Liệt Truyện viết "Ninh Tốn trước trốn tránh không chịu ra, Huệ bắt em là Hương Công lôi ra chém đi để cho Tốn sợ, sau Ninh Tốn mới ra".

Theo sử liệu thì Ninh Tốn làm quan nhà Lê trải đến chức Hữu Thị lang, tước Trường nguyên bá.

Năm 1789, Khi nhà Lê mất, ông tiếp tục phục vụ nhà Tây Sơn, giữ chức Thượng thư Bộ Binh, tước hầu.

Và nhờ năm Canh Tuất (1790), ông có đề tựa tập thơ Hoa trình học bộ tập của thầy học là Vũ Huy Đĩnh và đề tựa cuốn sách y học Thai sản điều lý phương pháp tự của bạn là Hoàng Phong Ôn Phủ (tức Nguyễn Thế Lịch), mà người đời sau biết được vào năm đó (47 tuổi) ông đã xin về nghỉ ở quê.

Theo Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam thì Ninh Tốn mất năm 1790. Tuy nhiên, theo Gia phả họ Ninh, thì ông mất ngày 5 tháng 5 năm Ất Mão (1795).

Tác phẩm

Tác phẩm chính của Ninh Tốn là bộ Chuyết Sơn thi tập (Tập thơ Chuyết Sơn), trong đó bao gồm cả tập Tây hộ mạn hứng. Đây là bộ sách do con cháu ông sưu tập, hiện chỉ còn 275 bài thơ và 7 bài gồm văn sách, phú, tựa, văn bia...Tất cả đều bằng chữ Hán. Phần lớn, chúng được sáng tác dưới thời Lê-Trịnh. Còn những sáng tác dưới thời Tây Sơn, theo nhóm tác giả sách Thơ văn Ninh Tốn, thì chắc mất mát nhiều, vì con cháu không dám lưu giữ.

Hiện ở Thư viện Hán Nôm (Hà Nội) còn giữ được 3 tập của ông, đó là: Chuyết Sơn thi tập, mang ký hiệu: A.1292. Chuyêt Sơn thi tập đại toàn, mang ký hiệu: A.1407. *Tiền Lê tiến sĩ Ninh Tốn thi tập, mang ký hiệu: A.350.

Trong ba cuốn trên có nhiều bài trùng lập.

Năm 1984, một nhóm biên soạn (Hoàng Lê chủ biên) thuộc Viện Hán Nôm (Hà Nội) đã tuyển chọn ra 107 bài thơ và 1 bài tựa Hoa trình học bộ tự để in thành tác phẩm Thơ văn Ninh Tốn (Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội, 1984).

Sơ lược nội dung và giá trị nghệ thuật

Thơ Ninh Tốn bao gồm nhiều thể loại và nhiều đề tài khác nhau, trong đó có thể tạm chia làm ba loại chính: Thơ đề vịnh phong cảnh, con người, di tích lịch sử, nhân vật lịch sử. Thơ họa đáp, tặng tiễn bạn bè. *Thơ tự thuật và cảm xúc trữ tình.

Nhìn chung trong thơ văn Ninh Tốn, có mấy điểm đáng chú ý như sau: Khởi đầu, Ninh Tốn, vốn là người lạc quan, tích cực (bài "Tự thuật" [làm lúc trẻ], "Du học kinh sư" [Du học ở kinh đô]...). Sau khi trải qua nhiều cơn lốc xoáy của thời đại Lê mạt-đầu Nguyễn, nhà thơ đã không khỏi day dứt khi nghĩ đến chuyện hành tàng, xuất xử, họa phúc, an nguy, và lẽ phế hưng, thành bại của các triều...Cho nên trong thơ ông lúc này đã hé lộ ý muốn về ở ẩn ("Tự thuật" [làm khi đã có tuổi], "Hiệp đồng phủ thuận đạo hải đồn ngẫu hứng" [Ngẫu hứng khi làm Hiệp đồng ở đồn Động Hải]...)... Ông không những vui buồn cùng người dân, mà cả đến ước mơ và hy vọng cũng vậy ("Tặng Ngọc Động Đinh huynh chi huyện" [Tặng ông họ Đinh ở Ngọc Động đi làm quan huyện], "Bính Thân xuân khiển Doãn tác man niết" [Năm Bính Thân được phê chuẩn làm Án sát Sơn Nam]...). Ông luôn mong ước được sống trong một triều đại thịnh vượng, mà ở đó vua tôi đều là người tài đức, đều biết yêu thương và chăm sóc việc làm ăn của dân ("Vọng Hùng Vương cố đô" [Trông kinh đô cũ thời vua Hùng], "Chương Dương mộ bạc" [Chiều đậu thuyền ở bến Chương Dương], "Ký kiến" [Ghi những điều trông thấy], "Sơn cư xuân mộ" [Chiều xuân ở núi], "Kinh thái hòa cung" [Qua cung thái hòa], "Bát tràng" [Lò bát]...). *Một điểm nổi bật nữa, đó là ông đã đánh giá lại những nhân vật phụ nữ trong lịch sử, như chuyện nàng Bích với nhà sư Huyền Quang ("Vân Bích nương" [Thương tiếc nàng Bích]), chuyện công chúa Huyền Trân với tướng Trần Khắc Chung (dưới mắt ông, Huyền Trân không hư hỏng về nhân cách, mà chỉ là một nạn nhân của một xã hội cưỡng hôn)...Và họ Ninh cũng đã công khai ca ngợi tài năng của phái đẹp ("Mã thượng mỹ nhân" [Người đẹp trên ngưa], "Ký tài nữ Thụy Liên" [Gửi bậc tài nữ Thụy Liên]). Thái độ này rất hiếm thấy trong giới nhà nho lúc bấy giờ.

Nói gọn, bên cạnh những giá trị nghệ thuật, người đọc còn phần nào nhận thức được cái xã hội cuối Lê, đầu Nguyễn; phần nào hiểu được giới nho sĩ và nông dân cùng với những ước mơ, những khát vọng chân chính của họ. Bởi những giá trị ấy, các danh sĩ đương thời như Phạm Nguyễn Du, Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm, Vũ Huy Tấn, Đoàn Nguyễn Tuấn, Nguyễn Thế Lịch, Vũ Huy Đĩnh, Hi Tứ, Nguyễn Quýnh...đều có thơ từ khen tặng .

Nói đến Ninh Tốn và thơ văn của ông, Từ điển Văn học (bộ mới) đã đánh giá như sau: :Phần lớn các bài thơ đều toát lên một sức sống, một dáng dấp lạc quan, vui tươi. Điều đó, một mặt phản ánh lòng yêu đời, cá tính sôi nổi, đầy tự tin, ưa hành động của con người tác giả; mắt khác cũng phản ánh phần nào cái không khí hồ hỡi, cởi mở của triều đại Tây Sơn mà tác giả ngày càng gắn bó và đem sức mình ra phục vụ. Một điểm đặc sắc nữa là trong tập có hơn ba mươi bài nói về phụ nữ, một số lượng đáng kể so với các nhà thơ đương thời. Qua đó có thể thấy được lòng trân trọng đối với phụ nữ của ông. :Về nghệ thuật: lời thơ của ông giản dị, trong sáng, ít điển cố, có lúc pha chút khôi hài; thể hiện một phong cách mới cả về nội dung lẫn hình thức. Riêng mặt này, Tiến sĩ Nguyễn Quýnh, người cùng thời, cũng đã khen rằng: Ninh Tốn là kẻ lão luyện trong văn mặc, sở trường cả thơ phú, trước thuật.

Giới thiệu thơ

*Xem thêm: Chiêu Dương mộ bạc (Chiều đậu thuyền ở bến Chương Dương)

Ghi công

Ninh Tốn được thờ ở Nhà thờ Ninh Tốn, xã Yên Mỹ, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Đây là một di tích lịch sử quốc gia của Việt Nam. Tên của ông cũng được đặt cho những con đường ở trung tâm thành phố Ninh Bình, ở thành phố Tam Điệp tỉnh Ninh Bình, tại Thị trấn Củ Chi Thành phố Hồ Chí Minh, tại thành phố Đà Nẵng.

Sách tham khảo

Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí (2 tập). Nhà xuất bản Văn học, 1984. Phạm Đình Hổ, Vũ trung tùy bút. Nhà xuất bản Trẻ & Hội nghiên cứu giảng dạy văn học TP. HCM hợp tác ấn hành, 1989. Nhiều người soạn, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (tập 3). Nhà xuất bản Văn học, 1978. Nhiều người soạn (Hoàng Lê chủ biên), Thơ văn Ninh Tốn. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1984. Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế. Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản KHXH, 1992. Tạ Ngọc Liễn, Danh nhân văn hóa trong lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Thanh Niên, 2008.

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ||315x315px nhỏ|255x255px|Đền thờ Ninh Tốn **Ninh Tốn** (chữ Hán: 寧遜, 1744-1795), tự **Khiêm Như** sau đổi là **Hi Chí**, hiệu **Mẫn Hiên**, **Chuyết Sơn cư sĩ**, **Song An cư sĩ**; là nhà thơ, nhà sử
_Đối với các định nghĩa khác, xem_ _Ninh Bình (định hướng)._ **Ninh Bình** là tỉnh nằm ở cửa ngõ phía Nam của thủ đô Hà Nội và thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng, miền Bắc,
[[Chùa Nhất Trụ ở Cố đô Hoa Lư]] Điện Tam Thế ở [[Chùa Bái Đính]] [[Đền Trần (Nam Định)|Đền Trần ở Nam Định]] [[Chùa Địch Lộng ở Gia Viễn]] [[Đền Trần Thương ở Hà Nam]]
**Tôn giáo tại Việt Nam** khá đa dạng, gồm có Phật giáo (cả Đại thừa, Nguyên thủy và một số tông phái cải biên như Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương,
**Ninh** là một họ của người Đông Á. Họ này có mặt ở Việt Nam (chữ Hán: 寧, Hán-Việt: _Ninh_) và Trung Quốc (chữ Hán: 甯 hoặc 寧, bính âm: _Ning_). Trong _Bách gia tính_
**Hà Nam Ninh** là một tỉnh cũ của Việt Nam, tồn tại từ năm 1975 đến năm 1991. Địa giới hành chính tỉnh Hà Nam Ninh tương ứng với tỉnh Ninh Bình ngày nay. ##
Các đoàn [[chèo, nhà hát chèo Việt Nam]] **Đoàn Chèo Quảng Ninh** (tồn tại từ 1963 - 2018) nguyên là tên một đơn vị hoạt động nghệ thuật chèo chuyên nghiệp, hoạt động từ năm
**Liêu Ninh** (, ) là một tỉnh nằm ở Đông Bắc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Liêu Ninh là tỉnh đông thứ mười bốn về số dân, đứng thứ mười bốn về
**Quảng Ninh** là một tỉnh ven biển thuộc vùng Đông Bắc Bộ Việt Nam. Theo quy hoạch phát triển kinh tế, Quảng Ninh vừa thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía bắc, và vừa thuộc
**Tòa Thánh Tây Ninh** còn được gọi là **Đền Thánh** là một công trình tôn giáo của đạo Cao Đài, tọa lạc tại đường Phạm Hộ Pháp trong khuôn viên Nội ô Tòa Thánh Tây
**Cam Ninh** (chữ Hán: 甘寧) là tướng nhà Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời trẻ Cam Ninh có tên tự là **Hưng Bá** (興霸), người Ba quận, Lâm Giang.
**Tây Ninh** là một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. Tây Ninh nằm ở vị trí cầu nối giữa Thành phố Hồ Chí Minh và thủ đô Phnôm Pênh, vương quốc Campuchia và
**Công viên động vật hoang dã quốc gia tại Ninh Bình** là một dự án xây dựng khu bảo tồn động vật hoang dã Quốc gia đầu tiên tại Việt Nam. Địa điểm của dự
**Nguyễn An Ninh** (15 tháng 9 năm 1900 - 14 tháng 8 năm 1943) là nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu tôn giáo và là nhà cách mạng ở đầu thế kỷ 20 trong
Tượng thần Thiên Tôn ở [[động Thiên Tôn]] **Thần Thiên Tôn** là vị thần trong truyền thuyết rất được sùng bái ở vùng cố đô Hoa Lư, Ninh Bình. Đây là vị thần được thờ
**Động Thiên Tôn** là một động ở phường Ninh Mỹ, thành phố Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, Việt Nam. Động ở chân _núi Voi_, cách _ngã ba Thiên Tôn_ trên Quốc lộ 1 cỡ gần
**Bắc Ninh** là một tỉnh ở Việt Nam, với vị trí nằm trong Vùng thủ đô Hà Nội, Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng. Bắc Ninh là
**Ninh Thuận** là một tỉnh cũ ven biển gần cực nam vùng duyên hải Nam Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Thủ phủ của tỉnh là thành phố Phan Rang – Tháp Chàm nằm
Trước đền [[Đinh Bộ Lĩnh trên quê hương Gia Viễn]] Các di tích thờ Vua Đinh ở Ninh Bình (màu đỏ) [[Đền Vua Đinh Tiên Hoàng ở cố đô Hoa Lư]] Ninh Bình là quê
Cổng vào nhà hát Chèo Ninh Bình Một cảnh trong vở Tiếng hát đại ngàn **Nhà hát Chèo Ninh Bình** là đơn vị hoạt động nghệ thuật chèo chuyên nghiệp, gồm 2 đoàn chèo. Nhà
**Ninh Hữu Hưng** (甯有興) là người được nhiều làng nghề ở Việt Nam tôn xưng là vị tổ xưa nhất của nghề mộc Việt Nam, do đó được coi như vị tổ nghề xây dựng
**Hội đồng Quốc phòng và An ninh Việt Nam**, được lập ra theo Điều 89 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013, có nhiệm vụ tham mưu cho Chủ tịch
Phong cảnh non nước đặc trưng ở Vân Long Chim bay trên khu bảo tồn Vân Long Du thuyền trên đầm Vân Long **Vân Long** là khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước lớn
Tế lễ tại đền Vua Đinh trong [[Lễ hội Hoa Lư ở Cố đô Hoa Lư]] thế=|nhỏ|250x200px|Phủ Tiên Hương ngày lễ hội phải|Lễ rước trên sông tại [[lễ hội Tràng An năm 2011]] Thực hành
**Đền Bà Chúa Kho** ở Bắc Ninh là một di tích lịch sử đã được Nhà nước Việt Nam công nhận. Đền bà Chúa Kho Bắc Ninh là một đền thờ Mẫu nằm tại vùng
**Tôn Thất Thuyết** (chữ Hán: 尊室説; 1839 – 1913), biểu tự **Đàm Phu** (談夫), là quan phụ chính đại thần, nhiếp chính dưới triều Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc và Hàm Nghi của triều
Bệnh viện Y dược cổ truyền Quảng Ninh là đơn vị sự nghiệp Y tế, trực thuộc Sở Y tế tỉnh Quảng Ninh, là tuyến khám bệnh, chữa bệnh bằng y, dược cổ truyền cao
**Ga Ninh Bình** là nhà ga đầu mối chính trên tuyến đường sắt Bắc - Nam thuộc địa phận tỉnh Ninh Bình, tiếp nối sau ga Cát Đằng và trước ga Cầu Yên. Ga toạ
**Văn miếu Bắc Ninh** là một trong 6 văn miếu của Việt Nam. Tại đây thờ Khổng tử, và 12 bia "Kim bảng lưu phương" lưu danh 677 vị đại khoa quê hương Kinh Bắc
Người Chăm theo tôn giáo chính là **Agama Cham** (tức là Chăm giáo). Tôn giáo Agama Cham (Chăm giáo) có hai môn phái gồm _Môn phái tín ngưỡng tôn giáo_ và _môn phái tín ngưỡng
**Tôn Khánh Thành** (chữ Hán: 孙庆成, ? - 1812) là tướng lãnh nhà Thanh, từng tham chiến tại Việt Nam. Ông là người Hán Quân Chính Bạch kỳ, nguyên quán Quảng Ninh, Liêu Ninh. _Thanh
Lễ hội [[Đồng Kỵ|làng Đồng Kỵ 2009]] Danh sách này liệt kê các lễ hội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Hàng năm, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh diễn ra hơn 547 lễ hội
**An ninh trên cơ sở năng lực tiềm tàng** (_tiếng Anh: Capability-based security_) là một khái niệm trong việc thiết kế các hệ thống an ninh máy tính. ## Nguyên lý thiết kế _An ninh
phải|nhỏ|Huy hiệu của NSA **Cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ**/**Cục An ninh Trung ương** (tiếng Anh: _National Security Agency_/C_entral Security Service_, viết tắt _NSA_/_CSS_) là cơ quan thu thập các tin tức tình
nhỏ|phải|Bãi biển Ninh Chử lúc bình minh **Ninh Chử** (nhiều tài liệu ghi nhầm là _Ninh Chữ_) là một bãi biển ven vịnh Phan Rang thuộc thôn Ninh Chử, xã Khánh Hải, tỉnh Khánh Hòa.
**Tôn Tư Khắc** (chữ Hán: 孫思克, 1628 – 1700), tên tự là **Tẫn Thần** (藎臣), hiệu là **Phục Trai** (復齋), thuộc Hán quân Chính Bạch kỳ, nguyên quán Quảng Ninh, Liêu Ninh , con trai
**Tổng cục An ninh** là một cơ quan cũ trực thuộc Bộ Công an Việt Nam có nhiệm vụ điều hành công tác An ninh, hiện nay không còn hoạt động. ## Lược sử *
**Chợ Rồng Ninh Bình** là chợ đầu mối giao thương hàng hóa trên địa bàn tỉnh Ninh Bình và khu vực. Đây là chợ có quy mô cấp I, nằm cạnh quốc lộ 10 thuộc
**Tôn Đắc Công** (, ? – 1634), nguyên quán Quảng Ninh, Liêu Ninh , tướng lĩnh nhà Minh, đầu hàng nhà Hậu Kim được quy về Tương Bạch kỳ. Sau khi Thanh Thái Tông Hoàng
**Nội ô Tòa Thánh Tây Ninh** hay **Thánh địa Cao Đài** là một khuôn viên hình thang rộng khoảng 1 km² có hàng rào bao bọc xung quanh với 12 cổng tam quan được xây
thế=Các tín đồ đạo Cao Đài cúng đàn Đại lễ vía Đức Chí Tôn năm 2022.|nhỏ|330x330px|Các tín đồ [[đạo Cao Đài cúng đàn Đại lễ vía Đức Chí Tôn năm 2022.]] thế=Triển lãm trước Tòa
**Khu bảo tồn thiên nhiên Đồng Sơn - Kỳ Thượng** là một khu rừng đặc dụng ở tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam. ## Tổng quát Khu bảo tồn thiên nhiên Đồng Sơn - Kỳ Thượng
**Tôn Quyền** (; 5 tháng 7 năm 182– 21 tháng 5, 252), tự là **Trọng Mưu** (仲谋), thụy hiệu **Ngô Đại Đế** (吴大帝, tức là "Hoàng đế lớn của Ngô"), là người sáng lập của
**Cơ quan tình báo** là một tổ chức chính phủ thực hiện các hoạt động nằm vùng, gián điệp, thu thập thông tin có độ nhạy cảm cao vì an ninh nội bộ của một
**Phạm Duy Tốn **(chữ Hán: 范維遜; 1883 –25 tháng 2 năm 1924) là nhà văn xã hội tiên phong của nền văn học mới Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20. Trước khi trở thành
**Báo và Phát thanh – Truyền hình Ninh Bình** (tiếng Anh: _Ninh Binh Newspaper and Radio – Television_, viết tắt: **NBTV**) là một đài truyền hình địa phương, trực thuộc Ủy ban Nhân dân tỉnh
**Tôn Thất Hiệp** còn có tên là **Tôn Thất Cáp** (尊室鉿, 01 tháng 01, 1809– 12 tháng 04, 1862), là một đại thần nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự
**Giáo phận Bắc Ninh** (tiếng Latin: _Dioecesis Bacninhensis_) là một giáo phận Công giáo Rôma tại Việt Nam. Năm 2008, giáo phận có diện tích 24.600 km², tương ứng với địa giới các tỉnh Bắc Ninh,
**Tôn Xuân Lan** (tiếng Trung: 孙春兰, sinh tháng 5 năm 1950) là một nữ chính khách Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Bà hiện đang giữ chức vụ Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng
**Ninh Bình** là một tỉnh thuộc vùng nam đồng bằng Bắc Bộ. Phía bắc giáp thành phố Hà Nội và tỉnh Hưng Yên, phía nam giáp tỉnh Thanh Hóa và vịnh Bắc Bộ, phía đông