Tôn Thất Hiệp còn có tên là Tôn Thất Cáp (尊室鉿, 01 tháng 01, 1809– 12 tháng 04, 1862), là một đại thần nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Thân thế và sự nghiệp
Tôn Thất Hiệp sinh ngày mùng 01 tháng Chạp năm Kỷ Tỵ (1809) tại Phú Xuân. Ông là cháu nội của Lạng Giang Quận công Tôn Thất Hội, một công thần của chúa Nguyễn Phúc Ánh, và là cháu ngoại của Tổng trấn Nguyễn Văn Thành.
Cha ông chưa tra được, chỉ biết mẹ ông bà Nguyễn Thị Viên.
Trước khi vào Gia Định, Tôn Thất Hiệp lần lượt trải các chức vụ:
Năm 1841: Thự lang trung bộ Lại.
Năm 1842: Thự án sát Khánh Hòa.
Năm 1845: Hữu thị lang bộ Hộ.
Năm 1848: Tuần phủ Ninh Bình.
Năm 1853: Tổng đốc An Tịnh.
Năm 1856: Hộ bộ thượng thư.
Sự nghiệp kháng Pháp
Thời điểm vào Nam
Tôn Thất Hiệp vào Nam Kỳ vào lúc nào, đang tồn tại hai ý kiến:
*Một là, ông đã có mặt trước ngày 17 tháng 2 năm 1859, là khoảng thời gian quân Pháp chuẩn bị tấn công thành Gia Định. Sách Việt sử tân biên (Quyển 5, Tập thượng) chép:
:Gia Định thành thất thủ, Hộ đốc Võ Duy Ninh thắt cổ tự vẫn, Án sát Lê Từ cũng tự vận chết...Tôn Thất Hiệp rút quân qua Biên Hòa.
*Hai là, ông được cử vào ngay sau khi thành Gia Định thất thủ (ngày 17 tháng 2 năm 1859), như GS. Nguyễn Phan Quang đã viết:
:Nghe tin Gia Định thất thủ, triều đình Huế vẫn chủ trương để đại quân phòng ngự Đà Nẵng, chỉ phái Thượng thư bộ Hộ Tôn Thất Hiệp mang 1.500 quân vào đóng ở Biên Hòa.
Cách ứng phó
Sách Monographie de la province de Gia Đinh (Chuyên khảo về tỉnh Gia Định), không nói rõ thời điểm Tôn Thất Hiệp vào Nam Kỳ, tác giả chỉ cho biết sau khi thành Gia Định thất thủ, ông đã có mặt tại làng Chí Hòa, cách Sài Gòn, khoảng 5km. Lược kể:
:Ở đó, Tôn Thất Hiệp cho xây đắp Đồn Tiền trên con đường đi Tây Ninh, và Đồn Hữu và Đồn Tả ở hai bên, cách nhau khoảng 400m. Công việc xây đắp này kéo dài trong hai tháng, trong khi quân Pháp kéo về đóng ở Sài Gòn, tướng Hiệp đã không làm gì để ngăn cản. Hai bên chỉ quan sát và thăm dò nhau.
:Cuộc đụng độ đầu tiên xảy ra vào ngày 10 tháng 4 năm 1859 lúc 6 giờ sáng tại Phú Thọ. Quân Việt xuất phát từ sáng sớm ở Đồn Tiền đi đến Chợ Lớn. Họ nghe tiếng quân kỵ mã nhưng không nhìn thấy được, vì sương mai và vì các bụi cỏ cao. Đến khi thấy khoảng 10 lính Pháp hiện ra, quân Việt liền nổ súng. Một lính kỵ mã bị trúng đạn, số lính còn lại bắn trả. Quân Việt rút chạy về Phú Thọ, sau khi chết hết 10 người, trong đó có trưởng toán tuần tiễu tên Thoại và một người làm chức cai tên Cốc. Cuộc giao chiến này kéo dài chưa được 30 phút...
:Sau trận đó đến hết năm, không có cuộc giao tranh nào khác. Tướng Tôn Thất Hiệp nhận thêm quân tiếp viện, nhưng cũng chỉ để củng cố đồn lũy, đề phòng các cuộc tấn công sắp tới. Nhưng quân Pháp trong thời gian này không có khả năng tấn công. Phó đô đốc Rigault de Genouilly bị bệnh phải trở về Pháp vào ngày 1 tháng 11 năm 1859, nhường quyền chỉ huy lại cho Đề đốc Page. Ông này cũng bị gọi sang Trung Hoa với một số quân, nên quyền chỉ huy giao lại cho thiếu tá Daries với khoảng 700 binh sĩ...
:Mãi đến những ngày đầu tháng 4 năm 1860, quân Việt ở Chí Hòa được mật báo sẽ xảy ra một cuộc tấn công của Pháp. Mấy ngày sau, vào sáng ngày 16 tháng 4 đại pháo của quân Pháp bắn về phía Đồn Cây Mai và Đồn Hữu. Quân Việt bắn trả, nhưng một lúc sau khẩu đại pháo duy nhất bảo vệ đồn bị bắn hạ và quân Pháp tấn công vào đồn. Quân Việt chống trả mãnh liệt, nhưng sau khi viên chỉ huy là Trần Tương Tư bị trúng một phát đạn vào đầu, thì quân Việt mới tháo chạy hết về Đồn Tiền. Trận này, quân Việt chết khoảng 50 người chết và bị quân Pháp chiếm lấy đồn.
:Thừa thắng, quân Pháp muốn chiếm ngay Đồn Tiền, nhưng đồn này được phòng thủ khá vững chắc. Một hố rộng bao quanh thành, các vật dẫn hỏa, những cây gỗ lởm chởm nhiều mũi nhọn chất đầy trên mặt đồn, sẵn sàng rơi xuống đầu đối phương khi họ leo lên tấn công.
:Tính cả số quân ở Đồn Hữu chạy sang, thì Đồn Tiền có khoảng 1.500 người. Lúc 8 giờ (tài liệu không ghi ngày tháng), quân Pháp tấn công dưới làn đạn pháo và các chướng ngại vật của Đồn Tiền và Đồn Tả. Sau hai giờ chiến đấu quyết liệt, làm thiệt hại mỗi bên khoảng 20 người, quân Pháp rút về Đồn Hữu.
:Đến 3 giờ chiều, họ trở lại Đồn Cây Mai. Dưới thành Đồn Tiền có 6 xác thủy quân Pháp bị giết ở những lỗ châu mai khi họ tìm cách đột nhập vào đồn. Quân Việt cho mang xác bỏ vào một đảo nhỏ tên Mật Cật ở bên cạnh.
:Cùng ngày tướng Tôn Thất Hiệp cho quân thông báo về Huế tin chiến thắng. Triều đình gởi tiền bạc vào để khen thưởng quân sĩ....
Tương tự, sách Việt sử tân biên (Quyển 5, Tập thượng) chép:
:Lúc này, quân Việt rút về Cây Mai, Kiểng Phước, dưới quyền chỉ huy của Tôn Thất Hiệp và Phạm Thế Hiển. Triều đình thấy chiến sự Nam Kỳ có vẻ nghiêm trọng, liền cử Nguyễn Tri Phương vào Nam với chức kinh lược đại thần để điều khiển mọi việc . Tới nơi, ông thấy Cây Mai và Kiểng Phước vừa thất thủ liền truyền lịnh bắt đóng gông hai tướng bại trận.
Sau khi thất trận Chí Hòa, ông bị án trảm giam hậu. Năm 1862, ông được phục chức Thị lang bộ Binh, để vào Nam Kỳ tiếp tục kháng Pháp. Nhưng đến Bình Thuận thì ông lâm bệnh rồi mất vào tháng Giêng năm Nhâm Tuất (1862) lúc 52 tuổi.
Nhận xét
Trích ý kiến của:
*GS. Nguyễn Phan Quang:
:Theo như nhận định của các nhà nghiên cứu, "một cuộc giải phóng đất nước đã mở ra". Nhưng tướng nhà Nguyễn chỉ huy mặt trận Gia Định là Tôn Thất Hiệp lại chủ trương " án binh bất động" để "làm nản lòng địch". Do vậy, thời cơ đánh bật quân xâm lược ra khỏi bờ cõi bị bỏ qua.
*Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu:
:Hèn lâu, số quân Pháp ở Sài Gòn không quá 300 tên, trong lúc số quân mà Tôn Thất Hiệp cầm trong tay nhiều hơn gấp hai chục lần, chưa kể dân dũng trong tỉnh Gia Định và các tỉnh khác kéo đến tiếp ứng. Vậy mà Tôn Thất Hiệp chỉ lo bao vây không chịu quyết liệt tấn công...
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tôn Thất Hiệp** còn có tên là **Tôn Thất Cáp** (尊室鉿, 01 tháng 01, 1809– 12 tháng 04, 1862), là một đại thần nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự
**Tôn Thất Hiệp** (chữ Hán: 尊室協; 1653-1675) là một hoàng tử, con của chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần. Ông từng là Nguyên soái thống lĩnh quân Đàng Trong đánh nhau với quân Trịnh vào năm
**Tôn Thất Hiệp** (chữ Hán: 尊室洽; ? - ?) là con trai thứ 7 của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Sinh thời, ông được phong tước **Văn quận công** (文郡公), từng giữ chức Chưởng cơ của
**Tôn Thất Trĩ** (1810-1861), là võ quan triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Tháng 2 năm 1861, ông đã tử trận trong trận Đại đồn Chí Hòa. ## Tiểu sử sơ lược **Tôn Thất
**Tôn Thất Thuyết** (chữ Hán: 尊室説; 1839 – 1913), biểu tự **Đàm Phu** (談夫), là quan phụ chính đại thần, nhiếp chính dưới triều Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc và Hàm Nghi của triều
**Tôn Thất** (chữ Hán: 尊室, chữ _Tôn_ đáng ra phải là _Tông_ [宗] (trong tổ tông), nhưng do kỵ tên huý vua Thiệu Trị nên đổi là _Tôn_) vốn là danh hiệu đặt cho nam
**Tôn Thất Đính** (1926–2013) nguyên là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị do Chính phủ Quốc gia
**Nguyễn Hữu Độ** (阮有度, 4/1833 – 18/12/1888) tự **Hi Bùi** (希裴), hiệu **Tông Khê** (宋溪), là một đại thần đời vua Đồng Khánh, từng giữ chức Kinh lược Bắc Kỳ, Tổng đốc Hà–Ninh. Ông là
phải|2 bộ Mãng Bào và mũ Kim Quan làm triều phục của công hầu thời Nguyễn, Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Hà Nội. Trong suốt hơn 140 năm tồn tại (1802-1945) với 13 đời
thumb|Mỹ Lương Công chúa, húy là [[Nguyễn Phúc Tốn Tùy|Tốn Tùy - chị gái Vua Thành Thái, và hai nữ hầu.]] **Hậu cung nhà Nguyễn** là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Nguyễn Văn Tuyên** (chữ Hán: 阮文瑄, 1834 - 1902), tự **Trọng Hiệp** (仲合), hiệu **Kim Giang** (金江), biệt hiệu **Quế Bình Tử** (桂坪子) là một quan đại thần triều Nguyễn, trải bảy đời vua từ
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Tôn Thất Xứng** (1923 – 2018) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên ở trường Võ bị
**Tôn Thất Đàn** (1871 - 1936) (Hán Nôm: 尊室檀), tự **Hinh Nhi** (馨兒), hiệu **Lạc Viên Thị** (樂園氏), là danh thần triều Nguyễn Việt Nam, Hình bộ Thượng thư thời Bảo Đại. ## Tiểu sử
**Tôn Thất Trạch** (chữ Hán: 尊室澤; ? - ?) là con trai thứ 8 của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Sinh thời, ông được phong tước **Hữu quận công** (右郡公), từng giữ chức Chưởng cơ của
**Nguyễn Công Nhàn** (chữ Hán: 阮公閒, ?-1867) là danh tướng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông là người tỉnh Phú Yên Năm 1861, quân Pháp tấn công Định Tường, Nguyễn Công Nhàn bị
**Tôn Thất Hân** (尊室訢; 10 tháng 5 năm 1854 – 3 tháng 9 năm 1944), tự **Lạc Chi** (樂之), hiệu **Liên Đình** (蓮亭), là quan chức triều Nguyễn Việt Nam, Phụ chính Đại thần thời
Giáo sư **Tôn thất Trình** (sinh ở huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế ngày 27/9/1931 – mất ngày 12/7/2021 tại Hoa Kỳ) thuộc hoàng tộc nhà Nguyễn Phước (Phúc theo tiếng Bắc). Ông nội
nhỏ|Chân dung Đỗ Quang**Đỗ Quang** (Chữ Nho: 杜光; 1807-1866), trước có tên là **Đỗ Tông Quang**, sau bỏ chữ _Tông_ vì kị húy vua Thiệu Trị. Ông làm quan trải ba triều vua: Minh Mạng,
**Huỳnh Công Lý** hay **Hoàng Công Lý** (? - 1821) là võ quan cao cấp của nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Năm 1819, ông được cử làm Phó tổng trấn Gia Định thành,
**Tôn Thất Tiết** (chữ Hán: 尊室節; sinh năm 1933 tại Huế) là một nhà soạn nhạc người Pháp gốc Việt thuộc dòng nhạc đương đại. Ông đồng thời cũng là một nhà nghiên cứu âm
**Lê Văn Phú** (?-1854), hiệu: **Lễ Trai**; là một danh thần trải bốn triều vua là Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Lê Văn
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Nguyễn Trí Phương** (1800-1873) là một đại danh thần Việt Nam thời nhà Nguyễn. Ông là vị Tổng chỉ huy quân đội triều đình Nguyễn chống lại quân Pháp xâm lược lần lượt ở các
**Nguyễn Trung Trực** (chữ Hán: 阮忠直; 1838 – 1868) là thủ lĩnh phong trào khởi nghĩa chống Pháp vào cuối thế kỷ 19 ở Nam Bộ Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp ###
**Nguyên Huệ Tông** (chữ Hán: 元惠宗; 25 tháng 5, 1320 – 23 tháng 5, 1370), tên thật là **Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ** (妥懽貼睦爾; ), Hãn hiệu **Ô Cáp Cát Đồ hãn** (烏哈噶圖汗; ), là
**Nguyễn Thiện Thuật** (1844-1926), tên tự là **Mạnh Hiếu**, còn gọi là **Tán Thuật** (do từng giữ chức Tán tương), lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, một trong các cuộc khởi nghĩa của phong
**Quân đội nhà Nguyễn** (chữ Hán: 軍次 / **Quân thứ**) là tên gọi các lực lượng vũ trang chính quy của triều Nguyễn từ thời điểm lập quốc cho đến đời vua Tự Đức. Sau
**Thất hiệp ngũ nghĩa** (七俠五義), trước đó còn có tên **Trung liệt nghĩa hiệp truyện** (忠烈義俠傳) và **Tam hiệp ngũ nghĩa** (三俠五義), là một tiểu thuyết của Trung Quốc viết theo kiểu chương hồi vào
**Nhà Tây Sơn** (chữ Nôm: 家西山, chữ Hán: 西山朝 / **Tây Sơn triều**) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam tồn tại từ năm 1778 đến năm 1802, được thành lập
**Hiệp Hòa** (chữ Hán: 協和; 1 tháng 11 năm 1847 – 29 tháng 11 năm 1883), húy là **Nguyễn Phúc Hồng Dật** (阮福洪佚), sau khi lên ngôi đổi thành **Nguyễn Phúc Thăng** (阮福昇), là vị
**Nguyễn Nhạc** (chữ Hán: 阮岳; 1743 – 1793) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Nhạc**, là vị hoàng đế sáng lập ra Nhà Tây Sơn và ở ngôi hoàng đế từ năm 1778 đến năm
**Anh Duệ Hoàng thái tử** (chữ Hán: 英睿皇太子, 6 tháng 4 năm 1780 - 20 tháng 3 năm 1801), tên thật là **Nguyễn Phúc Cảnh** (阮福景), tục gọi là **Hoàng tử Cảnh** (皇子景), **Đông cung
**Nguyễn Văn Tường** (chữ Hán: 阮文祥; 1824–1886), là đại thần phụ chính của nhà Nguyễn. ## Tên họ và thi cử Ông xuất thân từ một gia đình lao động nghèo thuộc làng An Cư,
**Nguyễn Phúc Dương** (chữ Hán: 阮福暘; 1759? - 1777), hiệu **Tân Chính vương**, là nhà cai trị thứ 10 của chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong vào thời kỳ Lê trung hưng trong lịch
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1771–1785)** là giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Cuộc chiến tranh này bắt đầu khi các lực lượng nổi dậy của 3
**Nguyễn Phúc Nguyên** (chữ Hán: 阮福源; 16 tháng 8 năm 1563 – 19 tháng 11 năm 1635) hay **Nguyễn Hy Tông**, **Nguyễn Tuyên Tổ,** là vị chúa Nguyễn thứ hai của chính quyền Đàng Trong
phải|Bản đồ ấn hành năm 1829 ở Pháp vẽ biên cương nước Việt Nam bao gồm cả Cao Miên và Lào **Ngoại giao Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh những hoạt động ngoại giao giữa
**Nhà Chu** ( ) là vương triều thứ ba trong lịch sử Trung Quốc. Là triều đại tiếp nối nhà Thương, nhà Chu cũng là triều đại cuối cùng thực thi chế độ phong kiến
**Victoria Alexandra của Liên hiệp Anh** (Victoria Alexandra Olga Mary; 6 tháng 7 năm 1868 – 3 tháng 12 năm 1935) là con gái thứ hai của Edward VII của Anh và Alexandra của Đan
**Ông Ích Khiêm** (翁益謙, 1829 - 1884) tự **Mục Chi**, là danh tướng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp **Ông Ích Khiêm** sinh ngày 21 tháng 12 năm
**Lê Văn Hưng** (chữ Hán:黎文興, ?-1794?) là một danh tướng của nhà Tây Sơn. Ông được tôn xưng là một trong Tây Sơn thất hổ tướng. Xuất thân trong một gia đình giàu có, buôn
**Nguyễn Phúc Hồng Thiết** (chữ Hán: 阮福洪蔎; 1848 – 1937), tự **Lục Khanh** (陸卿), hiệu **Liên Nghiệp Hiên** (連業軒), Pháp danh **Thanh Thiện** (青善) là một hoàng thân nhà Nguyễn và là một thi sĩ,
**Nguyễn Phúc Hồng Tập** (阮福洪槢, ? - 1864) gọi tắt là **Hồng Tập**, khi bị tội phải cải sang họ mẹ nên được gọi là **Võ Tập** hay **Vũ Tập** (武槢); là con trai của
**Nguyễn Trường Tộ** (chữ Hán: 阮長祚, 1830? – 1871), còn được gọi là **Thầy Lân**, là một danh sĩ, kiến trúc sư, và là nhà cải cách xã hội Việt Nam ở thế kỷ 19.
**Nguyễn Bặc** (chữ Hán: 阮匐; 924 - 7 tháng 11 năm 979), hiệu **Định Quốc Công** (定國公), là khai quốc công thần nhà Đinh, có công giúp Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp, chấm dứt loạn
**Nguyễn Lữ** (chữ Hán: 阮侶; 1754–1787) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Lữ** (chữ Hán: 阮文侶) là một chính trị gia và nhà quân sự Việt Nam ở thế kỷ 18. Ông là 1 trong
**Cuộc nổi dậy ở Thất Sơn (1841)** là một cuộc khởi binh (không rõ ai là thủ lĩnh) chống lại nhà Nguyễn thời vua Thiệu Trị, xảy ra trên địa bàn vùng Thất Sơn (nay
**Nguyễn Phúc Hồng Bảo** (chữ Hán: 阮福洪保, 1825 - 1854), còn hay gọi **An Phong công** (安豐公), là con trưởng của Nguyễn Hiến Tổ Thiệu Trị hoàng đế, vị Hoàng đế thứ ba của triều
**Trần Xuân Soạn** (陳春撰, 1849-1923), là tướng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Đầu tháng 4 năm 1885, thời vua Hàm Nghi, ông cùng tướng Tôn Thất Thuyết đánh Pháp đóng ở đồn Mang