✨Liêu Ninh

Liêu Ninh

Liêu Ninh (, ) là một tỉnh nằm ở Đông Bắc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Liêu Ninh là tỉnh đông thứ mười bốn về số dân, đứng thứ mười bốn về kinh tế Trung Quốc với 43,7 triệu dân, tương đương với Algérie và GDP đạt 2.532 tỉ NDT (382,6 tỉ USD) tương ứng với Cộng hòa Nam Phi. Năm 2015, GDP Liêu Ninh đạt 2.867 tỉ NDT (460,3 tỉ USD).

Tỉnh Liêu Ninh là một bộ phận của vành đai kinh tế Bột Hải tại Trung Quốc. Thủ phủ tỉnh Liêu Ninh đặt tại Thẩm Dương. Liêu Ninh giáp với tỉnh Cát Lâm ở phía đông bắc, giáp với khu tự trị Nội Mông Cổ ở phía tây bắc, giáp với tỉnh Hà Bắc ở phía tây nam, giáp với Triều Tiên qua Áp Lục Giang ở phía đông nam, phía nam là Bột Hải và Hoàng Hải. Liêu Ninh là yếu đạo giữa vùng Đông Bắc Trung Quốc và Trung Quốc bản thổ, cũng là nơi thông ra biển của vùng Đông Bắc Trung Quốc và khu vực đông bộ của Nội Mông Cổ.

Từ nguyên

Giản xưng của Liêu Ninh là "Liêu" (辽, liáo), bắt nguồn từ dòng Liêu Hà chảy qua tỉnh. Tên gọi của tỉnh có nghĩa là "Liêu Hà vĩnh viễn an ninh"

Người Cô Trúc nguyên là thị tộc Mặc Thai, có quan hệ họ hàng gần với tổ tiên của các vua nhà Thương và cũng mang họ Tử. Sau đó, người của thị tộc Mặc Thai định cư tại khu vực ngày nay thuộc Triều Dương, tỉnh Liêu Ninh. Ngày Bính Dần tháng 3 thời Thương Thang được phong thành Cô Trúc, theo Hạ Thương Chu đoạn đại công trình thì sự kiện này ước chừng diễn ra khoảng năm 1600 TCN. Theo sử sách Trung Quốc, một người họ hàng của Trụ Vương nhà Thương là Cơ Tử (箕子) đã di cư ra khỏi Trung Nguyên và lập ra Cơ Tử Triều Tiên (箕子朝鲜) ở Tây Bắc của bán đảo Triều Tiên. Lãnh thổ của Cơ Tử Triều Tiên có khả năng bao gồm cả một bộ phận tỉnh Liên Ninh ngày nay.

Bên cạnh Cơ Tử Triều Tiên, vào thời Tây Chu, trên địa bàn tỉnh Liêu Ninh còn có các chính quyền nước Yên, nước Cô Trúc, Sơn Nhung và Đông Hồ. Một bộ phận học giả Hàn Quốc thì nhận định trong thời gian này, Liêu Ninh cũng là lãnh thổ chính của Cổ Triều Tiên. Các hiện vật khảo cổ của văn hóa đồ đồng Liêu Ninh (辽宁青铜文化) được tìm thấy chủ yếu tại tỉnh Liêu Ninh và bán đảo Triều Tiên. Dao găm là hiện vật đặc trưng nhất của nền văn hóa này, và các hiện vật của nền văn hóa đồ đồng Liêu Ninh có hàm lượng kẽm cao hơn so với các nền văn hóa đồ đồng lân cận. phía tây tỉnh Liêu Ninh ngày nay từng thuộc về [[yên (nước)|nước Yên]] Sơn Nhung của thị tộc Vô Chung là một nước chư hầu cổ đại tồn tại trong thời Xuân Thu, có nguồn gốc dân du mục cai trị khu vực phía bắc Trung Quốc ngày nay trải dài từ phía tây tỉnh Liêu Ninh đến phía đông tỉnh Hà Bắc. Khoảng thế kỷ VII TCN, người Sơn Nhung nhiều lần tiến xuống phía nam, công phạt các nước Trịnh, Yên, Tề, kết quả đến thời Yên Hoàn hầu thì nước Yên buộc phải dời đô tới Lâm Dịch để tránh bị Sơn Nhung xâm chiếm, tàn phá. Thời Yên Trang công (trị vì 690 TCN-658 TCN), người Sơn Nhung từng mở chiến dịch quân sự lớn xâm lược Yên. Với sức mạnh quân sự yếu kém, Trang công không thể địch nổi Sơn Nhung, phải sai sứ sang nước Tề cầu viện. Tề Hoàn công lấy lý do cứu Yên xuất quân chinh phạt Sơn Nhung, nhân cơ hội đó cũng đánh chiếm và tiêu diệt các nước của người du mục phương bắc khác là Cô Trúc, Lệnh Chi (令支), Vô Chung (无终). Khi rút quân về nam, Tề Hoàn công giao lại lãnh thổ 3 nước này cho Yên Trang công. Từ đó lãnh thổ nước Yên được mở rộng thêm.

Liêu Ninh cùng với Cát Lâm từng là lãnh thổ [[Cổ Triều Tiên]] Thời Yên Chiêu vương, tướng Tần Khai (秦开) của nước Yên đã khởi binh tập kích, đại phá Đông Hồ. Trong cuộc chiến này, Tần Khai đã vượt Liêu Thủy, tấn công bắc bộ Cơ Tử Triều Tiên. Đông Hồ phải lui trên 1.000 dặm, kết quả vùng lãnh thổ phía đông của Yên được mở rộng trên 1.000 dặm. Nước Yên cho sửa sang, xây đắp trường thành phía bắc. Trường thành này khởi đầu từ phía tây tại Tạo Dương (nay là vùng đông bắc Tuyên Hóa, Trương Gia Khẩu, tỉnh Hà Bắc), kéo dài về phía đông tới Tương Bình (nay là phía bắc Liêu Dương, tỉnh Liêu Ninh).

Năm 226 TCN, sau khi chiếm được một nửa nước Yên từ trước đó, quân Tần công phá Kế thành, Yên vương Hỉ cùng thái tử Đan dẫn quân lui về Liêu Đông, tướng Tần là Lý Tín (李信) xuất quân truy đuổi. Yên vương giết thái tử Đan rồi dâng thủ cấp để cầu hòa. Tại vùng đất quân Tần chiếm được, vua Tần cho thành lập các quận Ngư Dương, Hữu Bắc Bình, Liêu Tây. Năm sau lại lập quận Thượng Cốc, Quảng Dương. Năm 222 TCN, vua Tần sai Vương Bí tấn công Yên ở Liêu Đông. Quân yên đại bại, Yên vương Hỉ bị bắt, nước Yên diệt vong. Tần thành lập Liêu Đông quận trên vùng Liêu Đông của nước Yên cũ.

Thời Tần, Hán

Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, triều đình đã thiết lập trên đất Liêu Đông ngày nay ba quận là Liêu Đông, Liêu Tây và Hữu Bắc Bình. Đến thời Tây Hán thì vùng đất Liêu Ninh phụ thuộc vào U châu. Thế kỷ I TCN, địa bàn tỉnh Liêu Đông ngày nay phân thuộc Hữu Bắc Bình quận (右北平郡), Liêu Tây quận (遼西郡), Liêu Đông quận (遼東郡) và Huyền Thổ quận (玄菟郡) của U châu (幽州) Nhà Hán Vệ Mãn được cho là một vị tướng của nước Yên, sau đó, ông đã quy phục Chuẩn Vương của Cổ Triều Tiên. Chuẩn Vương đã chấp thuận và bổ nhiệm Vệ Mãn giữ chức vụ chỉ huy tại vùng biên giới phía tây của Cổ Triều Tiên, trên địa phận tỉnh Liêu Ninh ngày nay. Mặc dù vậy, Vệ Mãn đã nổi dậy và tiêu diệt Cổ Triều Tiên. Năm 194 TCN, ông đã lập nên Vệ Mãn Triều Tiên và quyết định đặt kinh đô ở Vương Hiểm thành (王險城) và được một số học giả nhận định là nằm bên Liêu Hà. Trong giai đoạn này, Vệ Mãn Triều Tiên đã mở rộng kiểm soát trên một lãnh thổ rộng lớn và kiểm soát thương mại giữa Nhà Hán và các quốc gia tại Mãn Châu. Cháu trai của Vệ Mãn là Hữu Cừ Vương (右渠王) đã cho phép nhiều người Hán lưu vong sống tại Vệ Mãn Triều Tiên. Năm 109 TCN, Hán Vũ Đế đã xâm lược Vệ Mãn Triều Tiên. Sau vài lần thất bại trong việc đè bẹp quân đội Vệ Mãn Triều Tiên, Hán Vũ Đế đã cố gắng thuyết phục các hoàng tử của Vệ Mãn giết Hữu Cừ Vương.

Sau khi tiêu diệt Vệ Mãn Triều Tiên, Nhà Hán lập nên Hán tứ quận trên các lãnh thổ chiếm được, tương ứng với các khu vực bán đảo Liêu Đông và tây bắc bán đảo Triều Tiên ngày nay, trong đó trên địa bàn tỉnh Liêu Ninh ngày nay có Liêu Đông quận và Huyền Thổ quận, cộng thêm hai quận Liêu Tây và Hữu Bắc Bình đã thành lập từ trước đó. Huyền Thổ nằm ở bên trong Trường Thành, trên khu vực Thẩm Dương và Phủ Thuận ngày nay, nhân khẩu khoảng trên 40.000 người.

Căn cứ theo các tài liệu Tam quốc sử kýTam quốc di sự, một vương tử của Phù Dư Quốc, mang tên Chu Mông đã buộc phải rời khỏi đất nước của mình do sự tranh giành quyền kế vị diễn ra giữa các vương tử của Phù Dư; và ông là người đã thành lập ra quốc gia Cao Câu Ly (năm 37 TCN) trên vùng đất mang tên là Tốt Bản, lấy vương đô là Hội Thăng Cốt thành (纥升骨城) thuộc huyện Hoàn Nhân của tỉnh Liêu Ninh ngày nay.

Ban đầu, Cao Câu Ly phát triển từ một liên minh các bộ lạc Uế Mạch và nhanh chóng phát triển từ vùng đất mà họ kiểm soát (lưu vực Hồn Hà thuộc tỉnh Liêu Ninh ngày nay). Sau khi có được nguồn nhân lực và vật lực dồi dào từ việc chinh phạt các bộ tộc láng giềng, Chu Mông xua quân tấn công các quận Lạc Lãng, Huyền Thổ và Liêu Đông ở khu vực Tây Bắc Triều Tiên, Mãn Châu và bán đảo Liêu Đông ngày nay; và trở thành một thế lực độc lập với các quận Nhà Hán. Đến năm 3 SCN, Cao Câu Ly đã thiên đô đến Quốc Nội thành (nay thuộc Tập An, tỉnh Cát Lâm) do chịu áp lực từ Nhà Hán.

Cuối thời Đông Hán, triều đình suy yếu nên đã xảy ra tình trạng cát cứ. Công Tôn Độ đã cát cứ ở Liêu Đông khi cuộc chiến quân phiệt nổ ra. Sau đó Công Tôn Độ mang quân đánh về hai phía đông tây, đánh nước Cao Câu Ly và bộ tộc Ô Hoàn, đều thắng lợi. Công Tôn Độ công khai bày tỏ ý định tranh bá đồ vương. Bước đầu, Công Tôn Độ chia quận Liêu Đông làm ba: Liêu Đông, Liêu Tây và Trung Liêu, bổ nhiệm người của mình làm Thái thú 3 quận đó, còn ông tự xưng là Châu mục Bình châu, Liêu Đông hầu. Công Tôn Độ là người đặt nền móng cát cứ của họ Công Tôn ở Liêu Đông.

Thời Tam Quốc

Sau khi đánh bại quân Tào Ngụy vào năm 237, Công Tôn Uyên tự xưng là Yên vương. Năm 238, Ngụy Minh Đế Tào Duệ sai Tư Mã Ý mang đại quân đánh Yên. Tháng 6 năm đó quân Ngụy tấn công Liêu Đông. Cuối cùng, Công Tôn Uyên tử trận bên bờ sông Lương Thủy. Tư Mã Ý mang quân vào thành Tương Bình, giết 7000 đàn ông từ 15 tuổi trở lên, thu thập xác chất thành đống cao, hơn 2.000 quan văn võ do Công Tôn Uyên bổ nhiệm đều bị chém hết. Sau đó, chính quyền Tào Ngụy đã phế Hậu Thành huyện, thiết lập 4 huyện Cao Câu Ly, Cao Hiển, Liêu Dương và Vọng Bình thuộc Huyền Thổ quận.

Sau khi Tào Ngụy chiếm được Liêu Đông, mối quan hệ hữu hảo giữa Tào Ngụy và Cao Câu Ly nhanh chóng tan vỡ và Cao Câu Ly xua quân tấn công các khu vực phía tây của Liêu Đông. Năm 244), U châu thứ sử Vô Khâu Kiệm từ trị sở của Huyền Thổ quận (nay thuộc Thẩm Dương) đã đưa 10.000 quân tấn công và tàn phá Hoàn Đô sơn thành (nay thuộc cực nam của Cát Lâm) của Cao Câu Ly. Đông Xuyên Vương của Cao Câu Ly phải bỏ chạy khỏi kinh đô. Tháng 6 năm 245, Vô Khâu Kiệm đưa quân Ngụy trở lại U châu, Đông Xuyên Vương lại trở về Hoàn Đô sơn thành, song Vô Khâu Kiệm lại cử Vương Kì (王頎) đi đánh và lần này Đông Xuyên Vương buộc phải chạy về phía Đông và nương nhờ tại lãnh thổ của các bộ tộc Ốc Trở. Tuy nhiên, sau đó quân Tào Ngụy đã bị Cao Câu Ly đẩy lui và không lâu sau đó, người Cao Câu Ly đã khôi phục được lãnh thổ cũ, gồm một bộ phận ở đông bộ tỉnh Liêu Ninh hiện nay.

Thời Tây Tấn, Ngũ Hồ thập lục quốc

Năm 265, Tây Tấn được thành lập. Trong khi đó, Cao Câu Ly xây dựng lại kinh đô của họ tại Hoàn Đô và bắt đầu xua quân tấn công các quận Liêu Đông và Huyền Thổ. Năm 302, Cao Câu Ly thôn tính Huyền Thổ quận, và sau đó thì thế lực của nước này chạm đến bán đảo Liêu Đông.

Khi người Hồ tràn vào Trung Nguyên, Vương Tuấn đã cát cứ U châu và Ký châu. Bên cạnh thế lực của Vương Tuấn và Cao Câu Ly, trên địa bàn Liêu Ninh khi đó còn có ba thế lực thuộc Đông bộ Tiên Ti là Đoàn bộ, Vũ Văn bộ và Mộ Dung bộ.

Vương Tuấn nhận thấy rằng thiên hạ rồi sẽ đại loạn nên đã hướng ra bên ngoài kết viện, ông ta gả một con gái cho thủ lĩnh Đoàn Vụ Mục Trần của Đoàn bộ Tiên Ti và đề nghị triều đình nhà Tấn phong cho Đoàn Vụ Mục Trần là Liêu Tây công, ban cho Đoàn Vụ Mục Trần Liêu Tây quận. Chính quyền này do đó cũng được gọi là "Liêu Tây công quốc", đô thành đặt tại Lệnh Chi (令支) (nay thuộc Thiên An, Hà Bắc). Sử sách đương thời viết rằng Đoàn bộ Tiên Ti "cứ hữu đất Liêu Tây, xưng thần với Tấn. Xứ này có hơn 3 vạn nóc nhà, có tới bốn hoặc năm vạn con ngựa".

Trong số ba bộ tộc Đông bộ Tiên Ti thì Vũ Văn bộ là mạnh nhất. Vũ Văn bộ có lẽ hình thành từ những năm Hán Mạt hoặc Tam Quốc sơ. Sau thời Tây Tấn, Vũ Văn bộ có lãnh thổ trải rộng từ Nhu Nguyên (thượng du Loan Hà thuộc tỉnh Hà Bắc) đến Liễu Thành (nay là Triều Dương của Liêu Ninh). Còn Mộ Dung bộ đã thiên cư đến Liêu Tây vào đầu thời Tào Ngụy, đã có công trong chiến dịch thảo phạt Công Tôn Uyên của Tư Mã Ý, thủ lĩnh Mạc Hộ Bạt (莫护跋) sau đó đắp thành tại vùng đất nay là Triều Dương của tỉnh Liêu Ninh, đổi tên thành Mộ Dung Yên. Mộ Dung Thiệp Quy được triều đình Trung Nguyên phong là Tiên Ti thiền vu, thiên cư đến Liêu Đông và bắt đầu Hán hóa. Về sau, Mộ Dung bộ và Vũ Văn bộ thường xảy ra giao chiến.

Sau khi bị quân Tấn đánh bại, Mộ Dung bộ đã trở thành chư hầu của nhà Tấn vào năm 289. Do có loạn ở Trung Nguyên, nhiều nạn dân người Hán đã đến các vùng lãnh địa tương đối an toàn của Mộ Dung bộ, do được đối xử tốt với nên hầu hết đã lựa chọn ở lại, sức mạnh của Mộ Dung bộ vì thế cũng tăng lên. Năm 337, thủ lĩnh Mộ Dung bộ là Mộ Dung Hoảng tự xưng Yên Vương, lịch sử gọi là Tiền Yên.

Mùa đông năm 338, Tiền Yên và Hậu Triệu liên minh đánh Đoàn bộ. Sau khi đánh thắng Đoàn bộ, Hậu Triệu lại đem quân đánh Tiền Yên song thất bại và Tiền Yên đã giành được quyền kiểm soát các thành trước đây của Đoàn bộ. Năm 341, Mộ Dung Hoảng dời đô từ Cức Thành đến một thành mới được xây dựng là Long Thành (龍城, nay thuộc Liêu Ninh). Năm 342, Tiền Yên đã tấn công kinh đô Cao Câu Ly ở Hoàn Đô sơn thành. Quân Tiền Yên đã bắt một số thành viên vương tộc Cao Câu Ly đem về nước. Năm 344, Mộ Dung Hoảng cùng phó tướng Mộ Dung Hàn đã tiến đánh Vũ Văn bộ, quân Tiền Yên đã đại thắng và buộc tù trưởng Vũ Văn Dật Đậu Quy (宇文逸豆歸) phải chạy trốn. Quân Tiền Yên buộc Vũ Văn bộ phải di chuyển xuống phía nam và hợp nhất họ thành thần dân của Tiền Yên.

Vào mùa xuân năm 350, nhân lúc Hậu Triệu suy yếu, Mộ Dung Tuấn bắt đầu tấn công nước này, quân Tiền Yên nhanh chóng chiếm được Kế Thành (薊城, nay thuộc Bắc Kinh). Mộ Dung Tuấn sau đó dời đô từ Long Thành (龍城, nay thuộc Cẩm Châu, Liêu Ninh) đến Kế Thành.

Tiền Yên sau đó bị nước Tiền Tần tiêu diệt, toàn bộ địa bàn tỉnh Liêu Ninh thuộc nước Tiền Tần. Sau thất bại trước Đông Tấn trong trận Phì Thủy, Tiền Tần suy yếu và sụp đổ. Mộ Dung Thùy, một thân vương của Tiền Yên đã nổi loạn và lập ra nước Hậu Yên, lãnh thổ Hậu Yên cả địa phận Liêu Ninh. Về sau, Hậu Yên lại suy yếu, lãnh thổ bị thu nhỏ dần và hoàng đế Hậu Yên phải chuyển đến Long Thành (龍城, nay thuộc Cẩm Châu, Liêu Ninh). Vào mùa xuân năm 398, sau một cuộc nổi loạn của tướng Đoàn Tốc Cốt (段速骨), Mộ Dung Bảo đã bị vây trong Long Thành, Lan Hãn tận dụng thời này đã tiếm quyền trong một thời gian ngắn. Mộ Dung Thịnh sau đó đã tiến hành chính biến lật đổ nhạc phụ, tái lập Hậu Yên và xưng đế. Năm 407, Long Thành lại xảy ra chính biến, hoàng đế Mộ Dung Hi bị giết và con trai nuôi của Mộ Dung Bảo là Mộ Dung Vân lên thay thế, lập ra nước Bắc Yên.

nhỏ|phải|Phần phía đông Liêu Ninh từng chịu sự chi phối của [[Cao Câu Ly từ năm 404 cho đến tận những năm tồn tại cuối cùng của mình (668)]] Năm 404, thừa cơ Hậu Yên suy yếu, Cao Câu Ly đã đưa quân chiếm đóng Liêu Đông.

Mộ Dung Vân lên làm vua Yên, lại lấy họ cũ là Cao Vân. Năm 418, Bắc Ngụy Minh Nguyên Đế đã thực hiện một cuộc tấn công bất ngờ chống lại Bắc Yên, bao vây Hòa Long (tức Long Thành), quân Bắc Ngụy bắt khoảng 10.000 hộ tại Bắc Yên và rút lui. Vào mùa thu năm 432, Thái Vũ Đế của Bắc Ngụy lại tấn công Bắc Yên, hướng về kinh đô Hòa Long của Bắc Yên. Năm 436, Bắc Yên bị Bắc Ngụy thôn tính, vua Phùng Hoằng của Bắc Yến di tản dân chúng của mình sang Cao Câu Ly. Trường Thọ Vương của Cao Câu Ly đã cho người dân của Phùng Hoằng định cư tại Bình Quách (平郭, nay thuộc Dinh Khẩu, Liêu Ninh), và sau đó tại Bắc Phong (北豐, nay thuộc Thẩm Dương, Liêu Ninh). Tuy nhiên, do có mâu thuẫn, quốc vương Cao Câu Ly sau đó đã cho giết chết Phùng Hoằng.

Nam-Bắc triều

Sau khi Bắc Ngụy diệt Bắc Yên, vùng Liêu Đông do Cao Câu Ly kiểm soát. Tuy vậy, Cao Câu Ly cũng xưng thần với Bắc Ngụy và đến năm 491, Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế đã sách phong cho Trường Thọ Vương của Cao Câu Ly làm Xa kị đại tướng quân, thái phó, Liêu Đông quận khai quốc công, Cao Câu Ly vương, thừa nhận việc Cao Câu Ly khống chế Liêu Đông.

Năm 444, Bắc Ngụy đã thành lập Doanh châu (營州) trị sở đặt ở Long Thành huyện (nay thuộc Triều Dương của Liêu Ninh), châu này quản lý các khu vực của tỉnh Liêu Ninh khi đó thuộc Bắc Ngụy. Sau khi Bắc Ngụy bị chia tách thành hai nước ở phía đông và Tây, Doanh châu thuộc Đông Ngụy rồi Bắc Tề. Sau khi Bắc Tề bị Bắc Chu tiêu diệt, vùng đất phía tây tỉnh Liêu Ninh thuộc về Bắc Chu. Sau khi để mất Liêu Đông, Bắc Yên đã lập Liêu Đông quận ở phía tây tỉnh Liêu Ninh ngày nay, đến thời Bắc Tề thì quận này bị phế.

Khu vực phía bắc của Bắc Ngụy và Cao Câu Ly trên địa bàn Liêu Ninh ngày nay ban đầu có người Nhu Nhiên. Cùng với sự phát triển của tộc Tiên Ti khi họ khống chế triều Bắc Ngụy, kiểm soát miền Bắc Trung Quốc, tộc Khiết Đan cũng trở nên hùng mạnh và được ghi nhận lần đầu trong lịch sử.

Thời Tùy

Dưới thời nhà Tùy, khu vực tỉnh Liêu Ninh do triều đình Trung Quốc kiểm soát được phân thành Liêu Đông quận, Liễu Thành quận và Yên quận. Trong đó, Liêu Đông quận được lập vào năm 612, trị sở đặt tại Tân Dân của Thẩm Dương hiện nay; Liễu Thành quận bắt nguồn từ Xương Lê quận của Doanh châu từ thời Bắc Ngụy.

Các hoạt động quân sự của Cao Câu Ly ở Liêu Tây đã chọc tức triều đình nhà Tùy. Mặt khác, Bình Nguyên Vương và Anh Dương Vương của Cao Câu Ly cũng cương quyết duy trì mối quan hệ bình đẳng với nhà Tùy. Năm 597, Anh Dương Vương đã cùng với người Mạt Hạt tấn công vùng biên giới đông bắc của nhà Tùy. Năm 598, Tùy Dạng Đế đã lệnh cho hoàng tử Dương Lượng (楊諒) và Chu La Hầu (周罗睺) đem 30 vạn thủy binh tiến đánh Cao Câu Ly, kết quả là quân Tùy bại trận. Sau khi Tùy Văn đế qua đời, Tùy Dạng Đế tiếp tục thực hiện mưu đồ xâm chiếm Cao Câu Ly bằng các chiến dịch năm 612, 613, 614 song cũng đều thất bại. Trong cuộc tấn công năm 612, 9 đạo quân Tùy với 30 vạn 5 nghìn người đã tấn công Cao Câu Ly tại khu vực Liêu Hà và chọc thủng các phòng tuyến của Cao Câu Ly. Cuộc tấn công xâm lược năm 614 của Tùy bị bãi bỏ sau khi Cao Câu Ly đồng ý giao nộp Hộc Tư Chính (斛斯政), một phản tướng của nhà Tùy chạy sang Cao Câu Ly cho Dạng Đế xử tử.

Thời Đường

nhỏ|phải|Sơ đồ mô tả [[chiến tranh Cao Câu Ly-Đường năm 645]] Năm Trinh Quán thứ 11 (643) thời Đường Thái Tông, do bị liên minh Cao Câu Ly và Bách Tế tấn công, Tân La đã thỉnh cầu cứu viện của Nhà Đường. Nhân cơ hội này, Đường Thái Tông đã hạ lệnh tấn công Liêu Đông. Năm 645, Đường Thái Tông cho 17 vạn quân tấn công Cao Câu Ly, Lý Tích (李勣) xuất quân theo đường bộ còn Trương Lượng (张亮) xuất quân theo đường thủy, đích thân Đường Thái Tông đến Liêu Đông đốc chiến. Phía Cao Câu Ly cử 10 vạn quân đến Liêu Đông thành và An Thị thành ven Liêu Hà chống lại. Sau khi chiếm được Liêu Đông thành, quân Đường tiếp tục tấn công An Thị thành (nay thuộc Hải Thành của Liêu Ninh) từ tháng 6 đến tháng 9 song không hạ được thành này và phải rút lui. Sau khi Thái Tông qua đời năm 649, Đường Cao Tông tiếp tục những cuộc tấn công xâm lược Cao Câu Ly vào năm 661 và 662, nhưng tất cả đều bị Cao Câu Ly đánh bại. Mặc dù vậy những cuộc chiến tranh với Nhà Đường đã khiến Cao Câu Ly hao binh tổn tướng khá nhiều.

Sau khi tiêu diệt Bách Tế vào năm 660, liên quân Đường-Tân La đã tấn công Cao Câu Ly. Trong chiến dịch này, quân Đường huy động tới 35 vạn quân và Tân La chỉ bị yêu cầu cung cấp tiếp tế. Năm 668, Cao Câu Ly chính thức bị tiêu diệt. Lúc đầu, Nhà Đường phân đất này thành 9 đô đốc phủ, 42 châu, 100 huyện và đặt An Đông đô hộ phủ tại Bình Nhưỡng để cai quản. Sau chiến tranh Tân La-Đường, Tân La kiểm soát được vùng đất phía nam sông Đại Đồng của bán đảo Triều Tiên. Nhà Đường buộc phải chuyển phủ lị của An Đông đô hộ phủ đến Liêu Dương ngày nay, nơi bộ máy này tiếp tục giám sát các công việc của những người tị nạn Cao Câu Ly và nhiều phần lãnh thổ của vương quốc Cao Câu Ly trước đây.

Năm 699, triều Đường cử một vương tử Cao Câu Ly cũ là Cao Đức Vũ, con trai thứ ba của quốc vương Cao Câu Ly cuối cùng là Bảo Tạng Vương đến bán đảo Liêu Đông, đặt cho ông tước hiệu "Triều Tiên vương" và phong chức đô úy một quận của An Đông đô hộ phủ. Giống như cha mình, Cao Đức Vũ lên kế hoạch nổi loạn chống lại Nhà Đường và hồi sinh Cao Câu Ly. Triều Đường vào thời điểm đó đang phải trải qua một số khủng hoảng, đặc biệt là khởi nghĩa An Lộc Sơn cùng với áp lực từ vương quốc Bột Hải do Đại Tộ Vinh lập ra vào năm 698 từ các du dân Cao Câu Ly và người Mạt Hạt. Tiểu Cao Câu Ly được Cao Đức Vũ thành lập và trở thành vùng đệm giữa Đường và vương quốc Bột Hải.

Khu vực tỉnh Liêu Ninh thuộc Đường từng do An Lộc Sơn cai quản. Sau loạn An Sử, quân lực của Đường ở Liêu Ninh bị tổn hại nghiêm trọng. Sau thời trung Đường, đất nước xảy ra nạn phiên trấn cát cứ, Truy Thanh tiết độ sứ Lý Chính Kỉ chiếm cứ đất Bình Lư (trị sở nay thuộc Triều Dương, Liêu Ninh). Bình Lư do con cháu của Lý Chính Kỉ cát cứ trong 54 năm, về sau bị triều Đường bình định.

Thời Liêu, Kim và Nguyên

nhỏ|phải|Bạch tháp tại Liêu Dương, được xây dựng từ thời nhà Liêu, sau đó đã được xây dựng lại nhiều lần Trong thời Ngũ Đại Thập Quốc, một bộ phận tây bộ Liêu Ninh thuộc quyền cai quản của Lưu Thủ Quang (劉守光) 895-913. Năm 916, Da Luật A Bảo Cơ lập ra nước Liêu của người Khiết Đan, chiếm cứ Liêu Tây. Sau khi Bột Hải bị Liêu tiêu diệt vào năm 926, toàn bộ khu vực tỉnh Liêu Ninh ngày nay thuộc quyền cai quản của Liêu. Thời nhà Liêu, tỉnh Liêu Ninh phân thuộc Đông Kinh đạo, Thượng Kinh đạo, Trung Kinh đạo, Hạ Kinh đạo. Trong đó, Đông Kinh đạo đặt tại Liêu Dương phủ (nay là Liêu Dương của Liêu Ninh). Tàn dư của vương quốc Bột Hải cũng lập ra các chế độ Hậu Bột Hải, Định An và Hưng Liêu, chiếm cứ một bộ phận tỉnh Liêu Ninh hiện nay trong một thời gian ngắn, tuy nhiên, cuối cùng đều bị Liêu đánh dẹp.

Thời nhà Kim, đại bộ phận Liêu Ninh thuộc Đông Kinh lộ, những phần còn lại phân thuộc Hàm Bình lộ, Thượng Kinh lộ, Bắc Kinh lộ.

Thời Nhà Nguyên, Liêu Ninh phân thuộc Liêu Dương đẳng xứ hành trung thư tỉnh (辽阳等处行中书省), trong đó đông bộ Liêu Ninh thuộc Liêu Dương lộ và Thẩm Dương lộ; khu vực bắc bộ Liêu Ninh thuộc Hàm Bình phủ của Khai Nguyên lộ, khu vực tây bộ Liêu Ninh thuộc Quảng Ninh lộ. Riêng các khu vực Cẩm Châu và Triều Dương thì thuộc Đại Ninh lộ của Trung thư tỉnh.

Thời điểm này, Liêu Ninh đã có đến 10 vạn hộ, vùng đất canh tác khai khẩn rộng hơn 1000 lý. Ngoài nông nghiệp, các nghề luyện thép, dệt lụa, làm gốm sứ cũng có sự phát triển. Trên địa bàn tỉnh khi đó còn có các mỏ khai khoáng, nghề làm muối cũng phát triển.

Thời Minh

nhỏ|trái|Bức tường [[Liêu Đông (tỉnh)|Liêu Đông (màu tím) thời Minh.]] Quân Minh chiếm được Liêu Ninh vào năm 1371, chỉ ba năm sau khi họ trục xuất được người Mông Cổ ra khỏi Thượng Đô (Bắc Kinh). Thời Minh, triều đình đã thiết lập trên đất Liêu Ninh các trọng trấn/vệ sở Liêu Dương, Ninh Viễn và Thẩm Dương; một bộ phận tỉnh Liêu Đông thuộc Liêu Đông đô ti của Sơn Đông thừa tuyên bố chánh sứ ti (山东承宣布政使司), bộ phận còn lại thuộc Nô Nhi Can đô ti. Năm Tuyên Đức thứ 10 (1435), triều đình Nhà Minh bãi bỏ Nô Nhi Can đô ti, lãnh thổ của cơ cấu này phân thuộc các vệ sở. Khoảng năm 1442, triều đình Nhà Minh đã cho xây dựng một tuyến tường phòng thủ ở phía đông bắc để đề phòng những người Nữ Chân và Mông Cổ. Năm 1467-68, tường thành được mở rộng để bảo vệ cho khu vực đông bắc trước người Kiến Châu Nữ Chân, trong khi đó, tại địa bàn Liêu Ninh cũng có sự hiện diện của các bộ tộc Hải Tây Nữ Chân. Mặc dù có cùng một mục đích với Vạn Lý Trường Thành, song bức tường Liêu Đông này có chi phí thấp hơn. Mặc dù sử dụng một số gạch và đá ở một số điểm, song hầu hết bức tường này chỉ giống như một con đê bằng đất và có hào ở hai bên.

Thời Hậu Kim, Thanh

nhỏ|phải|Những năm cuối thời Nhà Minh, Liêu Ninh là nơi tranh giành của quân Hậu Kim, Mông Cổ và Minh nhỏ|phải|[[Cố cung Thẩm Dương của Nhà Thanh]] nhỏ|phải|Quân Nhật xung phong tấn công quân Nga ở Thẩm Dương trong [[chiến tranh Nga-Nhật]] Năm 1593, đã diễn ra trận Cổ Lặc Sơn giữa Kiến Châu Nữ Chân với liên quân bao gồm bốn bộ lạc Hải Tây Nữ Chân và năm bộ lạc Mông Cổ tại địa phận Tân Tân ngày nay, kết quả là Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã giành được chiến thắng. Sau đó, năm 1608, Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã cùng quân Minh ở biên thùy lập bia hoạch giới. Năm 1616, tại Hách Đồ A Lạp, Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã xưng hãn, đặt quốc hiệu là "Kim", lịch sử gọi là "Hậu Kim", tiền thân của Nhà Thanh. Hách Đồ A Lạp nay thuộc Tân Tân của Liêu Ninh, nằm bên ngoài bức tường Liêu Đông. Đầu năm 1619, Minh Thần Tông sai Binh bộ Thị lang Dương Cảo làm Liêu Đông Kinh lược sứ, chỉ huy đại quân, cộng với binh lực của các bộ tộc Nữ Chân và Mông Cổ chống Nỗ Nhĩ Cáp Xích, đứng đầu là bộ tộc Diệp Hách, binh lực của quân Triều Tiên, chia bốn đường đánh dẹp Hậu Kim. Tận dụng ưu thế cơ động, Nỗ Nhĩ Cáp Xích cho quân Bát kỳ nhanh chóng tiến đến chiếm lĩnh thế trận trước tại bờ sông Tát Nhĩ Hử (薩爾滸), tức Hồn Hà tại đông bộ Liêu Ninh ngày nay. Chỉ trong 6 ngày tác chiến, 6 vạn quân Nữ Chân đã đánh bại 14 vạn liên quân Minh - Triều Tiên - Diệp Hách, làm rung động Minh triều.

Danh tiếng Nỗ Nhĩ Cáp Xích vang dội toàn mạn Bắc Trung Quốc. Năm 1621, quân Bát kỳ tiếp tục đánh chiếm Liêu Dương, Trung Trấn, Thẩm Dương, khống chế toàn bộ vùng đất phía đông Liêu Hà. Cũng trong năm này, Nỗ Nhĩ Cáp Xích thiên đô về Liêu Dương, với mục đích khống chế vùng Liêu Đông. Đến năm 1625, kinh đô của Hậu Kim chuyển về Thịnh Kinh (盛京, nay thuộc Thẩm Dương). Tuy nhiên, Nỗ Nhĩ Cáp Xích sau đó đã đại bại trước quân Minh trong trận Ninh Viễn diễn ra vào năm 1626 tại Hưng Thành, Liêu Ninh hiện nay. Sau khi lên kế vị, Hoàng Thái Cực đã mở mang lãnh thổ của Hậu Kim, khuất phục Mông Cổ và Triều Tiên. Tuy nhiên, trong lần đánh thành Ninh Viễn, Hoàng Thái Cực đã thất bại trước tướng Viên Sùng Hoán của Minh. Về sau, do có biến cố tại Trung Nguyên, Lý Tự Thành chiếm Bắc Kinh, Ngô Tam Quế mở cổng Sơn Hải quan để tướng Hậu Kim Đa Nhĩ Cổn đã đưa quân Thanh xâm nhập Trung Nguyên, bắt đầu cuộc chinh phục toàn cõi Trung Quốc.

Cuộc chinh phục Liêu Đông của Hậu Kim đã khiến cho dân số khu vực này suy giảm nghiêm trọng, các cư dân người Hán bản địa đã bị quân Nữ Chân/Mãn Châu sát hại hoặc phải dời vào trong Quan Nội (trong Vạn Lý Trường Thành), nhiều thành thị đã bị quân Minh phá hủy khi họ rút lui. Cuối năm 1661, một tường thuật đã viết rằng: ngoài thành Phụng Thiên (Thẩm Dương), Liêu Dương, và Hải Thành, tất cả các thành khác ở phía đông Liêu Hà đã bị bỏ hoang hoặc chỉ còn vài trăm cư dân còn ở lại. Trong đó, "Thiết Lĩnh và Phủ Thuận chỉ có một vài kẻ lang thang". Ở phía tây Liêu Hà, chỉ có Ninh Viễn, Cẩm Châu và Quảng Ninh là còn lại một lượng dân cư đáng kể.

Trong nửa sau thế kỷ XVII, (bắt đầu ban hành chiếu chỉ vào năm 1651 và 1653), triều đình Nhà Thanh đã cho một số người ở phía nam Vạn Lý Trường Thành (đặc biệt là từ Sơn Đông) đến định cư tại các khu vực tương đối hoang vắng của Phụng Thiên (sau đổi thành Thịnh Kinh) tướng quân (gần tương ứng với Liêu Ninh ngày nay). Nhiều cư dân Liêu Ninh hiện nay có tổ tiên là những người định cư từ thế kỷ XVII. Tuy nhiên, phần còn lại của Đông Bắc Trung Quốc vẫn duy trì lệnh cấm chính thức đối với việc người Hán nhập cư. Để ngăn cản người Hán nhập cư đến các khu vực nay là Cát Lâm và Cát Long Giang, cũng như các khu vực lân cận của Nội Mông, một hệ thống được gọi là Liễu điều biên (柳條邊) với các mương và kè trên trồng cây liễu đã được xây dựng vào khoảng từ 1638- 1672. Ranh giới này vây quanh khu vực trung tâm nông nghiệp của Phụng Thiên, chạy qua hầu hết các khu vực nằm bên ngoài bức tường Liêu Đông thời Minh trước đây, hoặc tái sử dụng nó, và tách biệt khu vực đó với các khu rừng của người Mãn ở đông bắc và các thảo nguyên của người Mông Cổ ở tây bắc. Địa hình tỉnh Liêu Ninh nói chung thấp dần từ bốn phía về vùng trung tâm, hình thành một hình móng ngựa nghiêng về phía Bột Hải. Hai bên Liêu Đông và Liêu Tây có các đồi núi cao tương ứng 800 mét và 500 mét so với mực nước biển; vùng trung bộ là đồng bằng Liêu Hà có độ cao bình quân 200 mét so với mực nước biển. Khu vực Liêu Tây nằm ven Bột Hải là vùng đồng bằng ven biển, còn được gọi là hành lang Liêu Tây (辽西走廊).

Sông

Trên địa bàn tỉnh Liêu Ninh có 441 con sông lớn và nhỏ, với tổng chiều dài 20.140 km. Trong đó, có 17 sông có diện tích lưu vực trên 5000 km² và 31 sông có diện tích lưu vực từ 1000–5000 km². Liêu Hà là sông lớn nhất tỉnh Liêu Ninh và cũng là một trong các sông quan trọng nhất tại Trung Quốc. Một số chi lưu của Lưu Hà trên địa bàn Liêu Ninh có Đông Liêu Hà, Tây Liêu Hà (gồm Lão Cáp Hà (老哈河) chảy từ Liêu Ninh sang Nội Mông), Hồn Hà, Thái Tử Hà, Nhiễu Dương Hà (绕阳河), Dưỡng Tức Mục Hà (养息牧河), Liễu Hà (柳河), Tú Thủy Hà (秀水河). Tuy nhiên, từ năm 1958, do sự can thiệp của con người, Liêu Hà đã đổi dòng, đổ ra biển theo dòng chảy của Song Đài Tử Hà ở Bàn Cẩm; Thái Tử Hà và Hồn Hà đã trở thành một hệ thống sông độc lập, vẫn chảy ra biển theo dòng chảy cũ của Liêu Hà ở Dinh Khẩu, gọi là Đại Liêu Hà. Áp Lục Giang ở biên giới với Triều Tiên là sông lớn thứ hai của Liêu Ninh, tuy nhiên, các cù lao ở cửa sông mặc dù nằm gần bờ Liêu Ninh hơn song lại tạo thành huyện Sindo của Triều Tiên. Áp Lục Giang chảy 200 km trên địa phận Liêu Ninh, 16.600 km² lưu vực của Áp Lục Giang nằm trên địa phận Liêu Ninh. Đoạn Liêu Hà chảy trên địa phận Liêu Ninh dài khoảng 480 km với diện tích lưu vực khoảng 69.200 km² (46,76% diện tích toàn tỉnh). Các sông của Liêu Ninh có đặc điểm là chảy từ ba hướng đông, tây và bắc hướng đến trung nam bộ rồi đổ vào biển. Đặc điểm thủy văn của các sông trong tỉnh là: dòng chảy êm đềm, hàm lượng phù sa cao, lưu lượng phân bố không đồng đều trong năm, có thể xảy ra lũ lụt. Các sông ở đông bộ Liêu Ninh có nước chảy nhanh, lòng sông hẹp, thích hợp phát triển thủy điện vừa và nhỏ. Đại Lăng Hà (大凌河) và Tiểu Lăng Hà (小凌河) là hai sông chính ở Liêu Tây và đều đổ ra vịnh Liêu Đông tại địa phận Cẩm Châu. Đại Lăng Hà có tổng chiều dài 397 km với diện tích lưu vực 23.500 km² (85% lưu vực thuộc tỉnh Liêu Ninh). Tiểu Lăng Hà có tổng chiều dài 206 km, diện tích lưu vực 5.475 km². Sông lớn thứ ba ở Liêu Tây là Lục Cổ Hà (六股河) tại Hồ Lô Đảo với tổng chiều dài 148,8 km.

Núi

Các dãy núi trên địa bàn tỉnh Liêu Ninh nằm ở hai phía đông và tây. Ở đông bộ tỉnh Liêu Ninh là hai nhánh liên tục của dãy núi Trường Bạch là Cáp Đạt Lĩnh (哈达岭) và Long Cương Sơn (龙岗山), chạy theo chiều bắc-nam với độ cao trong khoảng từ 500-800 mét so với mực nước biển. Đỉnh núi cao nhất của tỉnh Liêu Ninh là Hoa Bột Tử Sơn (花脖子山) ở đông bộ với cao độ tối đa là 1.336 mét.

Các dãy núi ở tây bộ Liêu Ninh được cấu thành khi vùng cao nguyên Mông Cổ chuyển tiếp xuống đồng bằng Liêu Hà, độ cao trong khoảng 300-1000 mét trên mực nước biển, các dãy núi chú yếu bao gồm Nỗ Lỗ Nhi Hổ Sơn (努鲁儿虎山), Tùng Lĩnh (松岭), Hắc Sơn (黑山) và Y Vu Lư Sơn (医巫闾山).

Biển

Thềm lục địa của tỉnh Liêu Ninh có diện tích khoảng 150.000 km², trong đó vùng biển gần bờ có diện tích 64.000 km². Diện tích vùng bãi cạn ven biển là 2.070 km². Đường bờ biển của tỉnh Liêu Ninh kéo dài từ cửa sông Áp Lục đến Lão Long Đầu (老龙头), tức điểm được xem là bắt đầu của Vạn Lý Trường Thành thuộc huyện Tuy Trung có tổng chiều dài 2.292,4 km, chiếm 12% tổng chiều dài đường bờ biển của Trung Quốc.

Khí hậu

Tỉnh Liêu Ninh có khí hậu ôn đới lục địa gió mùa, bốn mùa rõ rệt. Vào mùa đông, chủ yếu là gió tây bắc với nhiệt độ lạnh giá kéo dài. Mùa hè có gió đông nam, nhiệt độ nóng và có nhiều mưa. Mùa xuân ít mưa và có nhiều gió. Mùa thu có nhiều nắng và chỉ kéo dài trong khoảng thời gian ngắn. Lượng bức xạ Mặt Trời hàng năm trên địa bàn tỉnh Liêu Ninh là từ 100-200 Ca-lo/cm², số giờ nắng trong năm dao động từ 2.100-2.900 giờ. Tính trung bình trong 30 năm từ 1971-2000, lượng giáng thủy hàng năm của Liêu Ninh là từ 439–1051 mm và mỗi năm có từ 131-223 ngày không có sương giá. Người ta cũng đã phát hiện được hóa thạch của các loài sinh vật từ thời tiền sử như Sinosauropteryx, Repenomamus hay Sinornithosaurus trên địa bàn Liêu Ninh.

Vùng nước ven biển của tỉnh Liêu Ninh có tài nguyên sinh vật phong phú với hơn 520 loài. Trong đó có 107 loài sinh vật phù du; 208 loài sinh vật đáy (benthos), chủ yếu là nghêu, sò, bào ngư, cầu gai, hàu, hải sâm, điệp; 137 loài sinh vật trôi (Nekton), bao gồm động vật chân đầu và động vật có vú, trong đó có hơn 70 loài có giá trị kinh tế như Larimichthys polyactis (tiểu hoàng ngư), Larimichthys crocea (đại hoàng ngư), cá bố, cá thu, cá tuyết, cá chim trắng. Năm 2008, chỉ số phát triển con người (HDI) của tỉnh Liêu Ninh là 0,835.

Liêu Ninh là một trong các tỉnh có số nhân khẩu dân tộc thiểu số lớn tại Trung Quốc. Bên cạnh người Hán chiếm đa số, tỉnh Liêu Ninh còn có người Mãn, người Mông Cổ, người Hồi, người Triều Tiên và người Tích Bá cùng 51 dân tộc khác sinh sống. Theo số liệu năm 2007, tỉnh Liêu Ninh có khoảng 6,7 triệu người dân tộc thiểu số, đứng thứ 5 tại Trung Quốc và chiếm 16,02% tổng dân số toàn tỉnh. Toàn tỉnh Liêu Ninh có 8 huyện tự trị dân tộc, trong đó có 6 huyện tự trị dân tộc Mãn là Tân Tân, Tụ Nham, Thanh Nguyên, Bản Khê, Hoàn Nhân, Khoan Điện, 2 huyện tự trị dân tộc Mông Cổ là Khách Lạt Thấm Tả Dực và Phụ Tân. Ngoài ra, tỉnh Liêu Ninh còn có hai huyện được hưởng chính sách đãi ngộ cho huyện tự trị dân tộc là Phượng Thành và Bắc Trấn. 8 huyện tự trị dân tộc có tổng diện tích là 34.300 km², chiếm 23,3% diện tích của tỉnh Liêu Ninh. Các dân tộc thiểu số chiếm 54,3% tổng dân số của 8 huyện tự trị của tỉnh Liêu Ninh. Tỉnh Liêu Ninh còn có 77 hương dân tộc. nhỏ|phải|Một trung tâm mua sắm tại Đại Liên Tổng giá trị các ngành nông-lâm-mục-ngư nghiệp của tỉnh Cát Lâm vào năm 2011 là 191,56 tỉ NDT. Trong đó, ngành trồng trọt đạt giá trị 78,97 tỉ NDT, ngành lâm nghiệp đạt giá trị 6,27 tỉ NDT, ngành chăn nuôi đạt giá trị 61,45 tỉ NDT và ngành ngư nghiệp đạt giá trị 36,53 tỉ NDT. Năm 2011, tổng sản lượng lương thực của tỉnh Liêu Ninh là 20.355.000 tấn, tổng sản lượng rau xanh và quả của tỉnh trong năm này lần lượt là 28.325.000 tấn và 8.112.000 tấn. và GDP đạt 2.532 tỉ NDT (382,6 tỉ USD) tương ứng với Cộng hòa Nam Phi. Năm 2015, GDP Liêu Ninh đạt 2.867 tỉ NDT (460,3 tỉ USD), GDP đạt 466 tỷ USD năm 2014, Nhờ vào lực khoáng sản lớn cũng như chú trọng vào công nghiệp khai thác, từ lâu Liêu Ninh đạt tốc độ cao về công nghiệp. Tuy nhiên bởi những năm khó khăn ở thập niên 2010 – 2020, Liêu Ninh gặp vấn đề và Trung ương điều chỉnh phương hướng và phương án cho cả ba tỉnh Đông Bắc, tập trung vào lĩnh vực kinh tế công nghệ cao toàn khu vực, hướng nhanh vào cấp độ thế giới.

Văn hóa

nhỏ|phải|Phố cổ Triều Dương Viện Kinh kịch Thẩm Dương và viện Kinh kịch Đại Liên nằm trong số các viện và đoàn Kinh kịch trọng điểm tại Trung Quốc. "Nam Kỳ bắc Mã quan ngoại đường", "Thẩm Dương đường" là những trường phái Kinh kịch trọng yếu. Bình kịch (评剧) bắt nguồn từ Đường Sơn thuộc tỉnh Hà Bắc cũng là một loại hình hí kịch phổ biến tại Liêu Ninh, trong đó có ba trường phái lớn bắt nguồn từ Thẩm Dương: Hàn Thiểu Vân (韩少云) sáng lập ra Liễu Hàn phái, Hoa Thục Lan (花淑兰) sáng lập ra Liễu Hoa phái, Tiểu Tuấn Đình (筱俊亭) sáng lập ra Liễu Tiểu phái. Nhị nhân chuyển (二人转) là một loại hình nghệ thuật dựa trên các điệu ca dân gian ở vùng Đông Bắc Trung Quốc, hấp thụ nghệ thuật Liên hoa lạc (莲花落) của Hà Bắc, thêm vào vũ đạo, dáng bộ. Tại Liêu Ninh, các đoàn biểu diễn Nhị nhân chuyển nổi tiếng có đoàn Nghệ thuật Dân gian Thiết Lĩnh, tại Thẩm Dương có đại lão đài Lưu Lão Căn. Liêu Nam hí (辽南戏) là một thể loại tuồng địa phương tại tỉnh Liêu Ninh, hình thành từ huyện Cái. Sau năm 1949, loại hình này phát triển thành một thể loại kịch tuồng mới, đến năm 1961 thì được định danh là Liêu Nam hí. Tại Liêu Ninh cũng tồn tại loại kịch Tương thanh (相声). Trên bản đồ của nghệ thuật Tương thanh Trung Quốc, Thẩm Dương chỉ đứng sau Bắc Kinh và Thiên Tân.

Một số đoàn âm nhạc nổi tiếng trên địa bàn tỉnh Liêu Ninh là viện Ca kịch Liêu Ninh (辽宁歌剧院), nhạc đoàn Giao hưởng Liêu Ninh (辽宁交响乐团), nhạc đoàn ái nhạc Thẩm Dương (沈阳爱乐乐团), nhạc đoàn Dân tộc Liêu Ninh (辽宁民族乐团), nhạc đoàn ái nhạc Đại Liên (大连爱乐乐团).

Vũ đoàn Ba-lê Liêu Ninh (辽宁芭蕾舞团) được thành lập vào năm 1980, đương thời là một trong ba vũ đoàn Ba-lê lớn nhất Trung Quốc, cùng với Trung ương và Thượng Hải.

Ẩm thực Liêu Ninh (辽菜) được hình thành từ đầu thời Nhà Thanh, dựa trên cơ sở ẩm thực Sơn Đông và ẩm thực quan phủ, kết hợp các đặc điểm địa lý và thói quen ăn uống của người địa phương. Ẩm thực Liêu Ninh chú trọng vào cách cắt, cách múc và cách dùng lửa.

Du lịch

nhỏ|phải|Thanh Vĩnh lăng tại Phủ Thuận Liêu Ninh là một tỉnh có nhiều văn vật tại Trung Quốc, tính đến năm 2007 thì toàn tỉnh có trên 11.300 văn vật cổ. Cũng tính đến năm này, tỉnh Liêu Ninh có 53 văn vật được bảo hộ trọng điểm cấp quốc gia và 296 văn vật được bảo hộ trọng điểm cấp tỉnh. Đến năm 2007, Liêu Ninh có 9 khu phong cảnh danh thắng cấp quốc gia và 14 khu phong cảnh danh thắng cấp tỉnh. Trong những năm gần đây, Liêu Ninh còn đưa vào các sản phẩm du lịch mới lạ như đi xe lửa hơi nước, du lịch phục hồi sức khỏe, du lịch phỏng cổ và du lịch thương vụ. Lễ hội Phục trang Đại Liên (大连国际服装节) cũng thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước. Một số tuyến đường sắt trên địa bàn tỉnh Liêu Ninh:

  • Đường sắt Cáp-Đại (哈大铁路), trước đây là đường sắt Nam Mãn (南满铁路), do người Nga xây dựng từ cuối thế kỷ XIX-đầu thế kỷ XX, chạy từ Lữ Thuận Khẩu đến Cáp Nhĩ Tân thuộc tỉnh Hắc Long Giang.
  • Đường sắt Thẩm-Sơn (沈山铁路), nối từ Thẩm Dương đến Sơn Hải quan thuộc tỉnh Hà Bắc.
  • Đường sắt Thẩm-Đan (沈丹铁路), nối từ Thẩm Dương đến Đan Đông và nối với hệ thống đường sắt của Bắc Triều Tiên, là tuyến xuất khẩu chính của Trung Quốc sang Bắc Triều Tiên.
  • Đường sắt Thẩm-Cát (沈吉铁路), nối từ Thẩm Dương đến thành phố Cát Lâm của tỉnh Cát Lâm.
  • Đường sắt Cẩm-Thừa (锦承铁路), từ Cẩm Châu đến Thừa Đức của tỉnh Hà Bắc.
  • Đường sắt Nguỵ Tháp (魏塔铁路), từng được gọi là đường sắt Liêu Tây, nay hầu như không hoạt động.

Ngày 1 tháng 12 năm 2012, tuyến đường sắt cao tốc Cáp Nhĩ Tân-Đại Liên (哈大客运专线, Cáp-Đạt vận chuyển chuyên tuyến) đã chính thức được đưa vào vận hành. Đây là tuyến đường sắt cao tốc nằm ở vùng vĩ độ cao giá lạnh đầu tiên của Trung Quốc và thế giới. Tuyến đường sắt cao tốc này dài 921 km với tốc độ tàu chạy theo thiết kế là 350 km/h, nối liền ba tỉnh Liêu Ninh, Cát Lâm và Hắc Long Giang.

Đường bộ

Đến cuối năm 2007, tổng lý trình các tuyến công lộ trên địa bàn tỉnh Liêu Ninh là 103.228 km (không bao gồm các tuyến các thành phố quản lý), trong đó có 3.300 km công lộ cao tốc. Đến cuối năm, toàn tỉnh có gần 2,9 triệu xe ô tô cá nhân. Năm 2011, hệ thống công lộ của tỉnh Liêu Ninh đã vận chuyển được trên 1,5 tỉ tấn hàng hóa và hơn 860 triệu lượt hành khách.

Hàng không

Trên địa bàn tỉnh Liêu Ninh có sân bay quốc tế Đào Tiên Thẩm Dương, sân bay quốc tế Chu Thủy Tử Đại Liên, sân bay Đằng Ngao An Sơn (鞍山腾鳌机场), sân bay Lãng Đầu Đan Đông (丹东浪头机场), sân bay Tiểu Lĩnh Tử Cẩm Châu (锦州小岭子机场) và sân bay Triều Dương (朝阳机场). Năm 2011, các sân bay dân dụng tại Liêu Ninh đã thông qua 89.000 tấn hàng hóa và vận chuyển được trên 7,5 triệu lượt người. Đến cuối năm 2007, Liêu Ninh có các đường bay đến 33 thành phố quốc tế của Hàn Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Nga, Đức, Singapore và Hồng Kông và 50 tuyến bay nội địa.

Đường thủy

Năm 2011, hệ thống vận tải đường thủy của tỉnh Liêu Ninh đã vận chuyển được 116,32 triệu tấn hàng hóa và 5,49 triệu lượt hành khách. Trong số các cảng chủ yếu của tỉnh Liêu Ninh, cảng Đại Liên và cảng Doanh Khẩu là cảng cấp quốc gia và được liệt vào mười cảng lớn nhất Trung Quốc. Các cảng quan trọng khác là cảng Đan Đông, cảng Trang Hà, cảng Cẩm Châu, cảng Lữ Thuận Dương Đầu Oa.

Các trường đại học và cao đẳng

nhỏ|phải|Tượng Mao Trạch Đông tại Đại học Khoa học-Công nghệ Liêu Ninh

* Đại học Đông Bắc (东北大学) * Đại học Khoa học-Công nghệ Đại Liên (大连理工大学) * Đại học Hải sự Đại Liên (大连海事大学) * Học viện Dân tộc Đại Liên (大连民族学院) * Học viện Cảnh sát Hình sự Trung Quốc (中国刑事警察学院) * Đại học Liêu Ninh (辽宁大学) * Đại học Y Trung Quốc (中国医科大学) * Đại học Công nghiệp Thẩm Dương (沈阳工业大学) * Đại học Nông nghiệp Thẩm Dương (沈阳农业大学) * Đại học Dược Thẩm Dương (沈阳药科大学) * Đại học Khoa học-Công nghệ Thẩm Dương (沈阳理工大学) * Đại học Sư phạm Thẩm Dương (沈阳师范大学) * Đại học Kiến trúc Thẩm Dương (沈阳建筑大学) * Đại học Công nghệ Hóa học Thẩm Dương (沈阳化工大学) * Đại học Thẩm Dương (沈阳大学) * Đại học Trung Y-Dược Liêu Ninh (辽宁中医药大学) * Đại học Hàng không Vũ trụ Thẩm Dương (沈阳航空航天大学) * Học viện Công trình Thẩm Dương (沈阳工程学院) * Học viện Thể dục Thẩm Dương (沈阳体育学院) * Học viện Âm nhạc Thẩm Dương (沈阳音乐学院) * Học viện Y Thẩm Dương (沈阳医学院) * Học viện Mỹ thuật Lỗ Tấn (鲁迅美术学院) * Đại học Tài chính-Kinh tế Đông Bắc (东北财经大学) * Đại học Giao thông Đại Liên (大连交通大学) * Đại học Y Đại Liên (大连医科大学) * Đại học Hải Dương Đại Liên (大连海洋大学) * Đại học Công nghiệp Đại Liên (大连工业大学) * Đại học Đại Liên (大连大学) * Đại học Sư phạm Liêu Ninh (辽宁师范大学) * Đại học Ngoại ngữ Đại Liên (大连外国语学院) * Đại học Bột Hải (渤海大学) * Đại học Công nghiệp Liêu Ninh (辽宁工业大学) * Học viện Y Liêu Ninh (辽宁医学院) * Đại học Khoa học-Kỹ thuật Liêu Ninh (辽宁科技大学) * Học viện Sư phạm An Sơn (鞍山师范学院) * Đại học Công trình-Kỹ thuật Liêu Ninh (辽宁工程技术大学) * Đại học Dầu mỏ và Công nghệ Hóa học Liêu Ninh (辽宁石油化工大学) * Học viện Khoa học-Kỹ thuật Liêu Ninh (辽宁科技学院) * Học viện Liêu Đông (辽东学院)
👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Liêu Ninh** (, ) là một tỉnh nằm ở Đông Bắc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Liêu Ninh là tỉnh đông thứ mười bốn về số dân, đứng thứ mười bốn về
**Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Liêu Ninh** được bầu cử bởi Đại hội Đại biểu nhân dân tỉnh Liêu Ninh, lãnh đạo bởi thành viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Cán bộ,
**Câu lạc bộ bóng đá Liêu Ninh Hoành Vận** () là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp lâu đời của Trung Quốc đã giải thể. Sân nhà của đội bóng là tại Trung
**Câu lạc bộ bóng chuyền nữ Liêu Ninh**, cụ thể là Câu lạc bộ bóng chuyền nữ truyền hình Liêu Ninh là một câu lạc bộ bóng chuyền chuyên nghiệp thi đấu tại Giải bóng
**An Sơn** hay **Yên Sơn** (; nghĩa là 'núi yên ngựa') là một địa cấp thị ở tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc. Dân số: 3,6 triệu người. ## Vị trí Yên Sơn nằm ở trung
Tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc được chia ra thành các đơn vị hành chính sau: * 14 đơn vị cấp địa khu ** 12 địa cấp thị ** 2 thành phố cấp phó tỉnh (Đại
**Cẩm Châu** (, Hán-Việt: Cẩm Châu thị) là một địa cấp thị của tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc. Cẩm Châu có diện tích 9.988,6 km², dân số năm 2020 là 2.703.853 người, trong đó 1.111.849
**Liêu Ninh** (Liaoning) là chiếc tàu sân bay đầu tiên của Hải quân Trung Quốc. Nó được đặt theo tên tỉnh Liêu Ninh nơi con tàu được tân trang. Sau một số lần chạy thử,
nhỏ|Liêu Đông quận (遼東郡) cùng bán đảo Triều Tiên **Liêu Đông** () dùng để chỉ khu vực ở phía đông của Liêu Hà, nay thuộc vùng phía đông và phía nam của tỉnh Liêu Ninh
**Lưu Ninh** (tiếng Trung giản thể: 刘宁, bính âm Hán ngữ: _Liú Níng_, sinh tháng 1 năm 1962, là người Hán) là nhà khoa học thủy văn, chính trị gia nước Cộng hòa Nhân dân
**Vương Ninh** (Tiếng Trung: 王宁, bính âm Hán ngữ: _Wáng Níng_, tiếng Latinh: _Wang Ning_, sinh tháng 4 năm 1961), là người Hán, chính trị gia nước Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa. Ông là
**Lưu Vũ Ninh** (tiếng Trung: 刘宇宁; bính âm: Liú Yǔníng, sinh ngày 8 tháng 1 năm 1990) là một diễn viên, ca sĩ Trung Quốc và là ca sĩ chính của nhóm nhạc _Modern Brothers_
**Trần Cát Ninh** (tiếng Trung ; sinh ngày 4 tháng 2 năm 1964, người Hán) là chuyên gia, nhà khoa học môi trường, nhà giáo dục, chính trị gia nước Cộng hòa Nhân dân Trung
nhỏ|Địa giới Liêu Tây **Liêu Tây** () là một tỉnh cũ tại Trung Quốc. Chính phủ Nhân dân Đông Bắc phê chuẩn thành lập tỉnh Liêu Tây vào ngày 21 tháng 4 năm 1949 trên
**Đông Liêu** (; 1213-1269) là chính quyền quân chủ do người Khiết Đan thành lập ở Đông Bắc Trung Quốc ngày nay vào thời Kim Tuyên Tông. ## Kiến quốc Năm 1212, tông thất nhà
**Quách Ninh Ninh** (tiếng Trung giản thể: 郭宁宁, bính âm Hán ngữ: _Guō Níngníng_, sinh tháng 7 năm 1970, người Hán) là nữ chính trị gia nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Bà là
Tập tin:Liaoyang.png nhỏ|427x427px|Chùa Liêu Dương **Liêu Dương** () là một địa cấp thị thuộc tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc. Thành phố này nằm ở phần trung tâm của bán đảo Liêu Ninh được cho là
Tập tin:Liaorivermap.png **Sông Liêu** (giản thể: 辽河; phồn thể: 遼河; bính âm: _Liáo hé_; phiên âm Hán-Việt: _Liêu Hà_) là một dòng sông lớn ở miền nam Mãn Châu. Với chiều dài 1345 km, con sông
**Liêu Đông** () là một tỉnh cũ tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Tỉnh được Chính phủ Nhân dân Đông Bắc phê chuẩn thành lập vào ngày 21 tháng 4 năm 1949. Địa giới
**Liêu Bắc** (Wade-Giles: Liaopei) là một tỉnh cũ tại Trung Quốc. Hiện nay hầu hết diện tích của tỉnh Liêu Bắc thuộc địa giới của Khu tự trị Nội Mông Cổ. Tên của tỉnh bắt
nhỏ|phải|Vị trí của bán đảo Liêu Đông **Bán đảo Liêu Đông** () là một bán đảo ở tỉnh Liêu Ninh ở đông bắc Trung Quốc, trong lịch sử được phương Tây gọi là đông nam
nhỏ|Đồng bằng Liêu Hà ở trung bộ tỉnh Liêu Ninh **Đồng bằng Liêu Hà** () là phần phía nam của bình nguyên Đông Bắc tại Trung Quốc, nằm trọn trên địa bàn tỉnh Liêu Ninh.
**Hậu Liêu** () là chính quyền ở phía Đông Liêu không chịu quy phục quý tộc Mông Cổ và lập nên chính quyền riêng. Năm 1215, Gia Luật Lưu Ca công chiếm Đông Kinh, bộ
**Liêu Dương** (chữ Hán giản thể: 辽阳县, âm Hán Việt: _Liêu Dương huyện_) là một huyện của địa cấp thị Liêu Dương, tỉnh Liêu Ninh, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Huyện Liêu Dương có
**Liêu Trung** (tiếng Trung: (辽中区, Hán Việt: _Liêu Trung khu_) Là một quận của thành phố Thẩm Dương (沈阳市), tỉnh Liêu Ninh, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Liêu Trung nằm ở trung bộ của
**Văn Thánh** (chữ Hán giản thể: 文圣区, âm Hán Việt: _Văn Thánh khu_) là một quận của địa cấp thị Liêu Dương, tỉnh Liêu Ninh, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Quận Văn Thánh có
**Liêu Thánh Tông** (chữ Hán: 遼聖宗; 972 - 1031), tên thật theo Hán danh là **Long Tự** (隆绪) và tên Khiết Đan là **Văn Thù Nô** (文殊奴), là vị Hoàng đế thứ sáu thuộc dòng
**Bạc Liêu** là một tỉnh cũ ven biển thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nằm trên bán đảo Cà Mau, miền đất cực nam của Việt Nam. ## Nguồn gốc tên gọi Tỉnh Bạc
**Bạc Liêu** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Bạc Liêu cũ, Việt Nam. ## Địa lý giữa|nhỏ|Khu lưu niệm nhạc sĩ Cao Văn Lầu tại phường 2 Thành phố Bạc Liêu nằm ở
**Liêu Thái Tông** (25 tháng 11, 902 – 18 tháng 5, 947), tên thật là **Nghiêu Cốt**, tên tiếng Hán **Gia Luật Đức Quang** (耶律德光), tên tự **Đức Cẩn**, là vị hoàng đế thứ hai
**Nhà Liêu** hay **Liêu triều** ( 907/916-1125), còn gọi là nước **Khiết Đan** (契丹國, đại tự Khiết Đan: Tập tin:契丹國.png) là một triều đại phong kiến do người Khiết Đan kiến lập trong lịch sử
**Liêu Thái Tổ** () (872-926), tên là **Gia Luật A Bảo Cơ** (**_Yelü Abaoji_**, 耶律阿保機), phiên âm tiếng Mongol: _Ambagyan_, Hán danh là **Gia Luật Ức** (耶律亿), nhũ danh **Xuyết Lý Chích** (啜里只), là vị
**Liêu Cảnh Tông** (chữ Hán: 辽景宗; bính âm: Liao Jǐngzōng; 1 tháng 9 năm 948 - 13 tháng 10 năm 982), là vị hoàng đế thứ năm của nhà Liêu, cai trị từ năm 969
**Mã Ninh** (; sinh ngày 14 tháng 6 năm 1979) là một trọng tài bóng đá người Trung Quốc. Ông là trọng tài quốc tế thường xuyên của FIFA từ năm 2011.
**Hure** (, Hán Việt: **Khố Luân** kỳ) là một kỳ của địa cấp thị Thông Liêu, khu tự trị Nội Mông Cổ, Trung Quốc. Kỳ nằm ở phía đông nam của khu tự tị và
**Quảng Ninh** là một tỉnh ven biển thuộc vùng Đông Bắc Bộ Việt Nam. Theo quy hoạch phát triển kinh tế, Quảng Ninh vừa thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía bắc, và vừa thuộc
Khu di tích nhạc sĩ Cao Văn Lầu **Lịch sử hành chính Bạc Liêu** được lấy mốc từ cuộc cải cách hành chính Nam Kỳ năm 1900. Theo đó, tỉnh Bạc Liêu được thành lập
_Đối với các định nghĩa khác, xem_ _Ninh Bình (định hướng)._ **Ninh Bình** là tỉnh nằm ở cửa ngõ phía Nam của thủ đô Hà Nội và thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng, miền Bắc,
**Bắc Ninh** là một tỉnh ở Việt Nam, với vị trí nằm trong Vùng thủ đô Hà Nội, Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng. Bắc Ninh là
**Bắc Ninh** là một tỉnh của Việt Nam, với vị trí nằm trong Vùng thủ đô Hà Nội, thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng. Tỉnh cũng nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ
**Ninh Thuận** là một tỉnh cũ ven biển gần cực nam vùng duyên hải Nam Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Thủ phủ của tỉnh là thành phố Phan Rang – Tháp Chàm nằm
**Vương Đông Minh** (; sinh tháng 7 năm 1956) là cử nhân triết học, chính khách nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông hiện là Ủy viên Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản
**Đường Nhất Quân** (; sinh tháng 3 năm 1961), người Hán, chính khách nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông là Ủy viên dự khuyết Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc
Lịch sử hành chính tỉnh Quảng Ninh có thể được xem bắt đầu từ cuộc cải cách hành chính của Minh Mạng năm 1831-1832. Theo đó, từ năm 1831, trấn Quảng Yên được đặt thành
**Tây Ninh** là một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. Tây Ninh nằm ở vị trí cầu nối giữa Thành phố Hồ Chí Minh và thủ đô Phnôm Pênh, vương quốc Campuchia và
**Bột Hải** (, , ) là một vương quốc đa sắc tộc cổ của Triều Tiên tồn tại từ năm 698 đến 926 được lập ra bởi Đại Tộ Vinh (_Tae Choyŏng_) từ sau khi
**Đàm Tác Quân** (tiếng Trung: 谭作钧, bính âm: _Tán Zuò Jūn,_ tiếng Latinh: _Tan Zuojun_), sinh tháng 10 năm 1968, một Người Hán, Chính khách nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông hiện là
**Trần Cầu Phát** (tiếng Trung: 陈求发, bính âm: _Chén Qiú Fā_), sinh tháng 12 năm 1954, một người Miêu, Chính khách nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông hiện là Ủy viên Ủy ban
**Lý Nhạc Thành** (hay **Lý Lạc Thành**, tiếng Trung giản thể: 李乐成, bính âm Hán ngữ: _Lǐ Yuè Chéng_, sinh ngày 27 tháng 3 năm 1965, người Hán) là chính trị gia nước Cộng hòa
**Lý Trường Xuân** (sinh tháng 2 năm 1944) là một chính trị gia, nhà lãnh đạo cấp cao đã nghỉ hưu của Đảng Cộng sản Trung Quốc (_CPC_). Ông từng giữ chức vụ Ủy viên