✨Chiến dịch Thăng Long (1786)

Chiến dịch Thăng Long (1786)

Chiến dịch Thăng Long là giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến giữa Tây Sơn và chúa Trịnh trong lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ 18. Chiến dịch Thăng Long 1786 kế tiếp chiến dịch Phú Xuân 1786, kết thúc bằng việc quân Tây Sơn đánh chiếm Thủ đô Thăng Long của Đàng Ngoài và tiêu diệt chúa Trịnh.

Bối cảnh

Sau khi tiếp nhận sự hàng phục của Tây Sơn năm 1775, Bắc Hà duy trì sự hòa hoãn với phía nam và mở lãnh thổ tới vùng Thuận Hóa.

Năm 1786, sau khi đánh bật họ Nguyễn ra khỏi lãnh thổ Đại Việt, Tây Sơn tính đến việc đánh chiếm Thuận Hóa. Theo đề nghị của hàng tướng Nguyễn Hữu Chỉnh, thủ lĩnh Tây Sơn là Nguyễn Nhạc cử Nguyễn Huệ làm tổng chỉ huy, cùng các tướng Nguyễn Lữ, Nguyễn Hữu Chỉnh và Vũ Văn Nhậm tiến đánh Phú Xuân.

Ngày 16 tháng 6 năm 1786, quân Tây Sơn chiếm được thành Phú Xuân. Kế hoạch chiếm Thuận Quảng để nắm toàn bộ lãnh thổ Nam Hà do chúa Nguyễn cai quản trước đây của Nguyễn Nhạc hoàn thành.

Nguyễn Huệ định cho quân tu sửa trường lũy Động Hải, vẫn giữ địa giới cũ với Bắc Hà ở La Hà. Lúc đó Nguyễn Hữu Chỉnh đưa ra đề nghị: :"Tướng công đánh một trận được đại thắng, uy danh chấn động cả thiên hạ. Đường lối dụng binh, một là thời, hai là thế, ba là cơ hội, nếu có thể dựa vào ba điều ấy, thì đánh đâu mà không được. Nay ở Bắc Hà, quân lính thì kiêu ngạo, tướng súy thì lười biếng, triều đình lại không có kỷ cương gì. Tướng công mang uy thanh ấy, nhân lúc bên kia đã đỗ nát, nếu thực biết dùng danh nghĩa "phò Lê, diệt Trịnh" thì thiên hạ ai mà không hưởng ứng? Đấy là cơ hội và thời, thế đều không thể để nhỡ được".

Nguyễn Huệ cho là phải, bèn quyết định không dừng binh mà phát động cuộc tấn công mới ra Thăng Long.

Ngoài bắc, ngày 19 tháng 6 chúa Trịnh đã nhận được tin quân Tây Sơn tiến ra đánh tới sông Gianh. Sau khi bàn định với các tướng, Trịnh Khải quyết định cử các tướng đi tăng cường phòng thủ miền duyên hải, nhưng các tướng được lệnh không ai chịu đi vì sợ quân Tây Sơn.

Diễn biến

Quân Tây Sơn chiếm Thanh – Nghệ

Theo kế của Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ nói thác là mệnh lệnh của Nguyễn Nhạc, rồi chia quân tiến ra bắc:

  • Hữu Chỉnh làm tiền phong thủy quân, kéo quân ra cửa biển Việt Hải, vào cửa biển Đại An, kéo thẳng đến Vị Hoàng chiếm lấy kho lương.
  • Nguyễn Huệ tự thống suất đại binh, theo đường thủy, đường bộ tiếp tục xuất phát.

Ngày 28 tháng 6, ngoài Thăng Long nghe tin báo quân Tây Sơn đã đánh chiếm được Phú Xuân. Trịnh Tông họp các tướng lại bàn cách chống. Các tướng Trịnh cho rằng: :"Thuận Hóa vốn không phải đất đai của triều đình, trước kia tốn bao nhiêu công của mới lấy được, chung quy cũng chẳng ích lợi gì? Bây giờ chỉ nên bàn luận tìm cách đóng quân ở Nghệ An theo như việc cũ mà thôi".

Vì thế, Trịnh Khải hạ lệnh cho Trịnh Tự Quyền làm thống tướng, đem quân lính 27 cơ tiến vào giữ lấy đầu địa giới Nghệ An để chống cự.

Dọc đường từ sông Gianh trở ra, Nguyễn Huệ chia làm nhiều toán quân du binh đánh chiếm các đồn trại quân Trịnh. Quân Trịnh sợ quân Tây Sơn, nhiều đồn trông thấy là bỏ chạy. Sau khi đồn Dinh Cầu ở Nam Hà Tĩnh mất, tướng giữ trấn Nghệ An và Thanh Hóa của Bắc Hà là Bùi Thế Toại và Tạ Danh Thùy nghe tin đều bỏ thành trốn. Nguyễn Huệ kéo quân đến chiếm cứ lấy Thanh-Nghệ.

Trịnh Tự Quyền nhận được mệnh lệnh đã hơn 10 ngày vẫn chưa thu xếp hành trang xong, còn quân sĩ thì chần chừ không có ý muốn đi, lại muốn thay đổi thống tướng khác 400 chiến thuyền của Hữu Chỉnh đến đánh chiếm Vị Hoàng. Quân Trịnh bị bất ngờ vì quân Tây Sơn tiến quá nhanh, đều tan vỡ bỏ chạy. Quân Tây Sơn chiếm được hết thóc lúa và tiền bạc trong kho có hàng trăm vạn và trưng tập thêm lương của các thuyền buôn của người Hoa đậu ở bến Vị Hoàng.

Chiếm xong Vị Hoàng, Nguyễn Hữu Chỉnh cho quân đốt lửa hiệu tại các chòi ven biển báo cho quân chủ lực của Nguyễn Huệ ở Thanh - Nghệ biết; mặt khác sai một tỳ tướng mang một toán quân tiến về Thăng Long, đóng ở Phố Hiến.

Trịnh Khải nghe tin mất Vị Hoàng, lại lệnh cho Tự Quyền vẫn đem các quân bản bộ tiến đến chống cự ở Kim Động, một mặt lệnh cho Đỗ Thế Dận đang trấn thủ Sơn Nam đem quân bộ tiến đến đóng ở bờ sông Phù Sa, rồi sai Đinh Tích Nhưỡng đốc lãnh các quân thủy đạo tiến thẳng đến giữ ở cửa Luộc. Các tướng Trịnh hội hợp binh lính đón đánh.

Ngày 17 tháng 7 năm 1786 (tức ngày 22 tháng 6 âm lịch), Nguyễn Huệ tiến đại quân đến Vị Hoàng. Ông dùng kế lừa quân Trịnh, cho làm hình nộm để lên thuyền để dụ quân Trịnh bắn tên đạn ra trước cho hết tên đạn rồi sau đó mới tấn công. Nhân lúc trời tối không trông rõ, Nguyễn Huệ tận dụng chiều gió, từ hạ lưu sông Luộc cho thuyền chở người nộm tiến đến trước quân Trịnh. Đinh Tích Nhưỡng liền sai các quân bày "trận chữ nhất" chắn ngang sông, đạn súng và tên nỏ cùng một lúc bắn ra.

Một chiếc thuyền quân Tây Sơn bị trúng đạn rồi bị đắm, còn các thuyền khác vẫn cứ nối nhau tiến lên không ngừng, mà trong thuyền vẫn im lặng không có tiếng người. Quân Trịnh không hiểu ra sao. Trong lúc hoảng hốt sợ hãi thì trời đã sáng rõ, quân Trịnh mới biết những người chân sào đều người bù nhìn. Lúc ấy, thuốc súng và đạn của quân Trịnh đều hết, đại đội thuyền lớn của Nguyễn Huệ vừa đánh trống vừa reo hò tiến lên, thanh thế rất lớn.

Trịnh Khải không ưa tham tụng Bùi Huy Bích vì không có mưu lược chống quân Tây Sơn, bèn cách chức và sai ra đốc chiến; mặt khác Trịnh Tông triệu Trần Công Xán vào phủ, bí mật bàn định mưu kế đối phó. Trần Công Xán cho rằng phải tử chiến tại kinh thành.

Trịnh Khải nghe theo, bèn triệu Hoàng Phùng Cơ ở Sơn Tây về, sai làm tiền bộ. Phùng Cơ chỉ có 500 quân, cùng 8 người con dẫn quân lính bản bộ đến. Trịnh Tông giúp cho Hoàng Phùng Cơ 5000 lạng bạc mộ được hơn 1000 quân lính cũ.

Trịnh Tông bố trí phòng thủ Thăng Long như sau:

  • Cho đội thủy quân tứ thị là đội thủy quân duy nhất còn lại ở kinh thành tới dàn thuyền chiến ở bến sông Thúy Ái
  • Hoàng Phùng Cơ dàn quân đóng ở hồ Vạn Xuân;
  • Trịnh Tông tự mình đem hết quân trong thành, bày trận ở bến Tây Long, có 100 voi chiến.

Nhân lúc gió đông nam thổi mạnh, Nguyễn Huệ cho quân thủy giương buồm tiến đến kinh thành Thăng Long. Sáng ngày 21 tháng 7, thuyền quân Tây Sơn xuôi chiều gió, kéo ập đến bến Nam Dư. Về phía chúa Trịnh, thì quân thủy tan vỡ trước. Hai viên thiên tướng là Nguyễn Trọng Yên, quản lãnh đội Tiền Ưu và Ngô Cảnh Hoàn, quản lãnh đội Tiền Trạch, cầm ngang siêu đao, đứng ở mũi thuyền, chống cự, bị quân Tây Sơn giết chết.

Cánh quân Thúy Ái bị tiêu diệt. Quân Tây Sơn kéo lên bộ, tiến tới hồ Vạn Xuân. Toán quân của Phùng Cơ không kịp dàn thành hàng ngũ, bỏ chạy tan vỡ tứ tung. Thuộc tướng là Mai Thế Pháp phi ngựa lên đón đánh, giết được hơn 10 lính Tây Sơn. Bị quân Tây Sơn vây sát. Thế Pháp tự nhảy xuống sông; chỉ còn một mình Phùng Cơ cùng 8 người con dẫn vài chục thủ hạ cố sức chiến đấu. Thủ hạ và 6 người con đều bị tử trận, Phùng Cơ cùng 2 người con bỏ chạy.

Quân Tây Sơn tiến đến bến Tây Long. Trịnh Tông mặc nhung phục, ngồi trên bành voi, cầm cờ lệnh chỉ huy, nhưng quân sĩ nhìn nhau, không ai chịu tiến lên. Quân Tây Sơn đổ đến chém giết, quân Trịnh tan vỡ lung tung. Trịnh Tông quay voi trở về thành, đến cửa Tuyên Vũ, trông thấy ngoài phủ đã cắm hàng loạt cờ Tây Sơn, bèn dẫn tượng binh hướng theo đường Sơn Tây chạy trốn. Các quan lại dưới quyền chúa Trịnh người thì bỏ trốn, người thì tan chạy, cũng không một người nào biết đến chúa.

Ngày 21 tháng 7 năm 1786 tức ngày 26 tháng 6 âm lịch, Nguyễn Huệ dẫn đại quân tiến vào Thăng Long, đóng quân ở phủ chúa Trịnh.

Tây Sơn diệt Trịnh phù Lê

Trịnh Tông mang 400 tàn quân bỏ chạy, khi chạy đến xã Hạ Lôi, huyện Yên Lãng, quân sĩ tan tác hết. Trịnh Khải gặp Lý Trần Quán là người trước đây vâng lệnh đem tờ hịch đi chiêu mộ nghĩa binh. Lý Trần Quán nhờ người học trò của mình là Nguyễn Trang hộ vệ Trịnh Tông, nói dối là Tham tụng Bùi Huy Bích.

Nguyễn Trang biết đấy là chúa Trịnh, bèn cùng thủ hạ là Nguyễn Ba bắt Trịnh Tông giải nộp doanh trại quân Tây Sơn. Trên đường đi, Trịnh Tông dùng dao cắt cổ tự tử. Nguyễn Trang đem thi thể chúa Trịnh nộp cho quân Tây Sơn. Nguyễn Huệ sai sắm đủ áo quan khâm liệm mai táng cho Trịnh Tông.

Tiến vào Thăng Long, Nguyễn Huệ yết kiến vua Lê Hiển Tông ở điện Vạn Thọ, xin ngày cử hành nghi lễ đại triều, dâng sổ sách binh và dân để tỏ rõ ý nghĩa nhà vua nhất thống và Nguyễn Huệ tôn phò. Lê Hiển Tông sách phong Nguyễn Huệ làm nguyên soái phù chính dực vận Uy quốc công .

Hậu quả và ý nghĩa

Quá trình quân Tây Sơn tiến từ sông Gianh ra Thăng Long bắt đầu từ cuối tháng 6, nhưng hai bên chỉ thực sự có giao tranh từ trận Sơn Nam ngày 17 tháng 7, tới khi Nguyễn Huệ tiến vào Thăng Long ngày 21 tháng 7, tất cả chỉ diễn ra 2 lần trong 5 ngày. Quân Tây Sơn tiến từ sông Gianh ra Thăng Long, tiêu diệt họ Trịnh. Lực lượng chúa Trịnh quá suy yếu và nhu nhược, không có tinh thần chiến đấu, có nhiều trận quân Trịnh bỏ trận chạy khi chưa giao chiến.

Chiến dịch Thăng Long là lần thứ 3 quân Trịnh và Tây Sơn giao tranh. Quân Trịnh thất bại hoàn toàn mở đầu cho sự diệt vong của chính quyền họ Trịnh tồn tại hơn 200 năm. Dù sau đó lực lượng họ Trịnh còn trỗi dậy dưới quyền Trịnh Lệ, Trịnh Bồng nhưng chỉ sau một thời gian ngắn sau đó lại bị dẹp.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến dịch Thăng Long** là giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến giữa Tây Sơn và chúa Trịnh trong lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ 18. Chiến dịch Thăng Long 1786 kế tiếp chiến
**Chiến dịch Phú Xuân 1786** là loạt trận đánh giữa quân Tây Sơn và chúa Trịnh trong cuộc nội chiến nước Đại Việt cuối thế kỷ 18. Chiến dịch này là một phần của Chiến
**Lịch sử chiến tranh Việt Nam và Xiêm La** (Thái Lan ngày nay) được bắt đầu từ thế kỷ 18, khi người Việt tiến vào khu vực đồng bằng sông Cửu Long và gây ảnh
**Chiến tranh Tây Sơn-Trịnh** là cuộc nội chiến cuối thế kỷ 18 trong lịch sử Việt Nam giữa chính quyền chúa Trịnh và chính quyền nhà Tây Sơn của Nguyễn Nhạc. Cuộc chiến diễn ra
Đây là danh sách các trận đánh, chiến dịch, cuộc vây hãm, hành quân, các cuộc giao tranh trong lịch sử Việt Nam, diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam, qua các triều đại và
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1787–1802)** là giai đoạn thứ hai của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Giai đoạn này bắt đầu khi Nguyễn Ánh trở về tái chiếm Gia
**Gia Long** (; 8 tháng 2 năm 1762 – 3 tháng 2 năm 1820), tên húy là **Nguyễn Phúc Ánh** (阮福暎), thường được gọi là **Nguyễn Ánh** (阮暎), là một nhà chính trị, nhà quân sự
**Chiến tranh thế giới thứ nhất**, còn được gọi là **Đại chiến thế giới lần thứ nhất**, **Đệ nhất Thế chiến** hay **Thế chiến I**, là một cuộc chiến tranh thế giới bắt nguồn tại
**Chiến tranh Bảy Năm** (1756–1763) là cuộc chiến xảy ra giữa hai liên quân gồm có Vương quốc Anh/Vương quốc Hannover (liên minh cá nhân), Vương quốc Phổ ở một phía và Pháp, Áo, Nga,
**Chiến tranh Anh-Maratha lần thứ ba** (1817–1819) là cuộc xung đột cuối cùng và mang tính quyết định giữa Công ty Đông Ấn Anh (EIC) và Đế quốc Maratha ở Ấn Độ. Cuộc chiến tranh
Ngày **19 tháng 11** là ngày thứ 323 (324 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 42 ngày trong năm. ## Sự kiện * 461 – Nguyên lão Libius Severus trở thành hoàng đế của
Ngày **12 tháng 3** là ngày thứ 71 (72 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 294 ngày trong năm. ## Sự kiện *1884 – Chiến dịch Bắc Kỳ: Quân Thanh vượt sông Cầu rút
**Nguyễn Nhạc** (chữ Hán: 阮岳; 1743 – 1793) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Nhạc**, là vị hoàng đế sáng lập ra Nhà Tây Sơn và ở ngôi hoàng đế từ năm 1778 đến năm
**Trịnh Sâm** (chữ Hán: 鄭森, 9 tháng 2 năm 1739 – 13 tháng 9 năm 1782), thụy hiệu **Thánh Tổ Thịnh vương** (聖祖盛王), là vị chúa thứ 8 của vương tộc Trịnh cầm quyền ở
Chiến tranh đổ bộ là một khái niệm trong lĩnh vực quân sự, chỉ loại hoạt động quân sự sử dụng các tàu thuyền đi biển để tấn công và đổ quân. Hoạt động này
**Lễ hội tháng Mười** (tiếng Đức: _Oktoberfest,_ phát âm tiếng Đức: [ɔkˈtoːbɐˌfɛst]) được tổ chức trên khu đồng cỏ Theresienwiese tại München, Bayern, Đức là một trong những lễ hội lớn nhất thế giới trong
**Nguyễn Lữ** (chữ Hán: 阮侶; 1754–1787) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Lữ** (chữ Hán: 阮文侶) là một chính trị gia và nhà quân sự Việt Nam ở thế kỷ 18. Ông là 1 trong
**Friedrich II** (24 tháng 1 năm 171217 tháng 8 năm 1786) là vua nước Phổ trị vì từ ngày 31 tháng 5 năm 1740 cho đến khi qua đời vào ngày 17 tháng 8 năm
**Thập toàn võ công** hay **Thập đại chiến dịch** () là một thuật ngữ do triều đình nhà Thanh đặt ra để chỉ 10 chiến dịch quân sự lớn dưới thời hoàng đế Càn Long
**Lê Hiển Tông** (chữ Hán: 黎顯宗 20 tháng 5 năm 1717 – 10 tháng 8 năm 1786), tên húy là **Lê Duy Diêu** (黎維祧), là vị hoàng đế áp chót của nhà Lê Trung hưng
**Louis XVI của Pháp** (23 tháng 8 năm 1754 – 21 tháng 1 năm 1793) là quân vương nhà Bourbon, cai trị nước Pháp từ năm 1774 đến 1792, rồi bị xử tử hình năm
**Trận Ngọc Hồi – Đống Đa** (hay **Chiến thắng Kỷ Dậu**) là tên gọi do các nhà sử học Việt Nam dành cho loạt trận đánh chống ngoại xâm thắng lợi của nước Đại Việt
**Fedor von Bock** (3 tháng 12 năm 1880 – 4 tháng 5 năm 1945) là một Thống chế quân đội Đức thời Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông đã đóng một vai trò quan
**Karl XIV Johan**, tên khai sinh: **Jean-Baptiste Bernadotte**, về sau là **Jean-Baptiste Jules Bernadotte** (26 tháng 1 năm 1763 – 8 tháng 3 năm 1844), con trai thứ hai của luật sư Henri nhà Bernadotte,
**Diễn văn Parchwitz**, còn gọi là **Diễn văn Parschwitz** là bài hiệu triệu ba quân do nhà vua Friedrich II Đại Đế nước Phổ thực hiện vào cuối năm 1757 tại Parchwitz (Schlesien từ xứ
phải|Nữ hoàng Nga [[Elizaveta Petrovna đã tham gia Liên minh chống Phổ trong Bảy năm chinh chiến.]] Thành ngữ **Phép lạ của Nhà Brandenburg** (tiếng Đức: _Mirakel des Hauses Brandenburg_, tiếng Pháp: _Miracle de la
**Aleksandr I** (, Aleksandr Pavlovich; – ) là Sa Hoàng của đế quốc Nga từ 23 tháng 3 năm 1801 đến 1 tháng 12 năm 1825. Ông là người Nga đầu tiên trở thành Vua
**USS _Yarnall_ (DD-541)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
phải|**Thống chế von Waldersee**
Bưu thiếp năm 1901 **Alfred Ludwig Heinrich Karl Graf von Waldersee** (8 tháng 4 năm 1832, Potsdam – 5 tháng 3 năm 1904, Hanover) là một Thống chế của Phổ và
**Thaddeus Stevens** (4 tháng 4 năm 179211 tháng 8 năm 1868) là một dân biểu trong Hạ viện Hoa Kỳ đến từ Pennsylvania. Ông từng là một trong những lãnh tụ phái Cộng hòa Cấp
**August Wilhelm** là một hoàng thân nước Phổ. Ông sinh vào ngày 9 tháng 8 năm 1722 tại kinh thành Berlin, là con của Friedrich Wilhelm I của Phổ và Sophia Dorothea của Đại Anh,
**Maximilian I Joseph** (; 27 tháng 5 năm 1756 tại Schwetzingen, gần Mannheim – 13 tháng 10 năm 1825 tại München) là Công tước xứ Zweibrücken từ năm 1795, trở thành Tuyển hầu xứ Bayern
**Tôn Sĩ Nghị** (, 1720-1796), tự **Trí Dã** (智冶), một tên tự khác là **Bổ Sơn** (补山), người tỉnh Chiết Giang, là một đại thần của nhà Thanh, Trung Quốc., và là một trong những
**USS _Patterson_ (DD-392)** là một tàu khu trục lớp _Bagley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
**Phra Bat Somdet Phra Phutthayotfa Chulalok Maharat** (, 20 tháng 3 năm 1736 – 7 tháng 9 năm 1809), tên khai sinh là **Thongduang** (), còn được gọi là **Rama I**, thụy hiệu đầy đủ
**Phổ** (tiếng Đức: Preußen; tiếng Latinh: _Borussia_, _Prutenia_; tiếng Anh: Prussia; tiếng Litva: _Prūsija_; tiếng Ba Lan: _Prusy_; tiếng Phổ cổ: _Prūsa_) là một quốc gia trong lịch sử cận đại phát sinh từ Brandenburg,
**Nhà Tây Sơn** (chữ Nôm: 家西山, chữ Hán: 西山朝 / **Tây Sơn triều**) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam tồn tại từ năm 1778 đến năm 1802, được thành lập
**Nguyễn Hữu Chỉnh** (, 1741 - 15 tháng 1 năm 1788), biệt hiệu **Quận Bằng** (鵬郡), là nhà quân sự, chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê trung hưng và Tây
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
**Gebhard Leberecht von** **Blücher, Thân vương xứ Wahlstatt** (; 21 tháng 12 năm 1742 – 12 tháng 9 năm 1819), là _Graf_ (Bá tước), sau này được nâng lên thành _Fürst_ (Thân vương có chủ
**Phạm Ngô Cầu** () tức **Tạo Quận công** là một tướng nhà Lê trung hưng, thời chúa Trịnh Sâm trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp Phạm Ngô Cầu dòng dõi Phạm Ngô Thạch
Từ thời kỳ cổ đại, **Đức** (lúc đó được người La Mã gọi là vùng đất Germania) đã có các bộ lạc người German (tổ tiên trực tiếp của người Đức) chính thức cư ngụ
**Quân đội Tây Sơn** là tổ chức vũ trang của Nhà Tây Sơn, xuất phát từ lực lượng nghĩa quân của phong trào nông dân từ năm 1771 cho đến ngày sụp đổ năm 1802.
**George III của Liên hiệp Anh** (George William Frederick; 4 tháng 6 năm 1738 – 29 tháng 1 năm 1820) là Quốc vương Đại Anh và Ireland cho đến khi hai vương quốc hợp nhất
**Lịch sử châu Âu** mô tả những sự kiện của con người đã diễn ra trên lục địa châu Âu. Từ thời tiền sử tới thời hiện đại. Châu Âu có một lịch sử dài,
nhỏ|300x300px| Bản đồ Madagascar (1616) **Lịch sử Madagascar** bắt đầu từ khi con người bắt đầu đặt chân đến Madagascar, một quốc đảo nằm trên Ấn Độ Dương ngoài khơi bờ biển phía đông nam
thumb|300x300px|Các tiểu vùng của Châu Âu - CIA World Factbook **Châu Âu** hay **Âu Châu** (, ) về mặt địa chất và địa lý là một bán đảo hay tiểu lục địa, hình thành nên
**Đặng Tiến Đông** (1738–1794 hay 1797) làm quan thời Lê – Trịnh, sau đầu quân Tây Sơn và trở thành danh tướng của lực lượng này. Thân thế và sự nghiệp của ông hiện vẫn
**Quân đội Hoàng gia Phổ** () là lực lượng quân sự của Vương quốc Phổ (nguyên là lãnh địa Tuyển hầu tước Brandenburg trước năm 1701). Quân đội Phổ đóng vai trò quan trọng trong