✨Thaddeus Stevens

Thaddeus Stevens

Thaddeus Stevens (4 tháng 4 năm 179211 tháng 8 năm 1868) là một dân biểu trong Hạ viện Hoa Kỳ đến từ Pennsylvania. Ông từng là một trong những lãnh tụ phái Cộng hòa Cấp tiến (Radical Republican) thuộc Đảng Cộng hòa trong thập niên 1860. Là một người cương quyết phản đối chế độ nô lệ và phân biệt đối xử đối với người Mỹ gốc Phi, ông đã đấu tranh để đem đến họ quyền công dân trong thời kỳ Tái thiết và lãnh đạo phe chống đối các chính sách của Tổng thống Andrew Johnson. Với địa vị Chủ tịch Ủy ban Tài chính của Hạ viện (House Ways and Means Committee) trong thời kỳ Nội chiến Hoa Kỳ, ông đã đóng một vai trò lãnh đạo, quan tâm đến việc đánh bại Liên minh Miền Nam, chi trả chi phí chiến tranh bằng cách đánh thuế và vay mượn, làm vô hiệu hóa quyền hạn của tầng lớp sở hữu nô lệ, kết thúc chế độ nô lệ, và giành quyền bình đẳng cho những cựu nô lệ được thả tự do.

Stevens sinh ra tại vùng nông thôn ở Vermont trong một gia đình nghèo; ông bị quẹo chân từ nhỏ nên ông đi đứng khập khiễng. Thời thanh niên, ông đã chuyển đển Pennsylvania và trở thành một luật sư thành đạt tại Gettysburg, Pennsylvania. Ông tỏ ra quan tâm đến việc điều hành thành phố, rồi sau đó tham gia chính trường. Ông được bầu vào Hạ viện Pennsylvania và trở thành một nhà đấu tranh cho nền giáo dục công cộng miễn phí. Vào năm 1842, do vấn đề tiền bạc, ông đã dọn nhà và cơ sở hành nghề đến thành phố Lancaster, Pennsylvania lớn hơn. Tại đó, ông đã gia nhập Đảng Whig và được bầu vào Quốc hội năm 1849. Các hoạt động chống lại chế độ nô lệ của ông với tư cách là luật sư và chính khách đã khiến ông mất nhiều lá phiếu và ông không tái tranh cử năm 1852. Sau một thời gian lưỡng lự tham gia Đảng Không biết gì (Know-Nothing Party), ông đã gia nhập Đảng Cộng hòa mới được thành lập, và được bầu lại vào Quốc hội năm 1858. Tại đó, cùng với những người cấp tiến như Thượng nghị sĩ từ Massachusetts Charles Sumner, ông đã phản đối sự bành trướng của chế độ nô lệ và chính sách nhượng bộ miền Nam khi chiến tranh bùng nổ.

Stevens lập luận rằng chế độ nô lệ không nên tồn tại sau chiến tranh, và cảm thấy thất vọng khi Tổng thống Abraham Lincoln chưa nhanh chóng ủng hộ quan điểm của mình. Ông đã dẫn lái việc ban hành các đạo luật tài chính với địa vị là chủ tịch Ủy ban Tài chính. Khi diễn biến chiến tranh đã đưa phần thắng về phe miền Bắc, Stevens đã tin tưởng chẳng những phải bãi bỏ chế độ nô lệ, mà còn nên cấp đất tịch thu từ những người trồng trọt cho những người Mỹ gốc Phi để họ có một ít lợi tức trong tương lai ở khu vực miền Nam. Những kế hoạch của ông đã đi quá xa đối với những đảng viên Cộng hòa phe ôn hòa và không được thực hiện.

Sau khi Abraham Lincoln bị ám sát vào tháng 4 năm 1865, Stevens có nhiều xung đột với tân Tổng thống Johnson, người muốn nhanh chóng phục hồi quyền hạn các tiểu bang ly khai mà không đòi hỏi bảo đảm quyền lợi cho những người được thả tự do. Bất đồng quan điểm này đã dẫn đến chiến đấu liên tục giữa Johnson và Quốc hội, mà Stevens là người dẫn đầu phe Cộng hòa Cấp tiến. Sau các chiến thắng sau cuộc bầu cử năm 1866, phe cấp tiến đã giành quyền quản lý cuộc Tái thiết từ tay Johnson. Cuộc đấu tranh lớn cuối cùng của Steven là thông qua các điều khoản luận tội đối với Johnson tại Hạ viện, dù Thượng viện đã không kết tội Tổng thống. Các quan điểm về Stevens trong các sử chép đã có nhiều biến chuyển lớn qua thời gian, từ quan điểm ở đầu thế kỷ 20 rằng ông là một người liều lĩnh và căm ghét miền Nam, đến quan điểm của những người theo chủ nghĩa tân bãi nô vào thập niên 1950 trở về sau, rằng ông đáng được tán dương vì tư tưởng bình đẳng của mình.

Đầu đời và giáo dục

Stevens sinh ra tại Danville, Vermont, vào ngày 4 tháng 4 năm 1792. Ông là con thứ hai trong gia đình có 4 anh em trai. Ông được đặt tên theo vị tướng người Ba Lan Thaddeus Kościuszko, người đã từng phục vụ trong cuộc Cách mạng Hoa Kỳ. Cha mẹ ông là tín đồ Baptist đã di cư từ Massachusetts vào khoảng năm 1786. Ông mắc chứng quẹo chân bẩm sinh; vào thời đó tật này bị xem là một phán xét từ Thượng đế cho những tội lỗi thầm kín của cha mẹ. Người anh của ông cũng sinh ra với tật này trong cả hai chân. Cha ông, Joshua Stevens, là một nông dân và thợ chữa giày phải vật lộn với nghề ở Vermont. Sau khi hai đứa con trai nữa sinh ra (mà không có tật), Joshua đã bỏ rơi người vợ là Sarah (nhũ danh là Morrill) và những đứa con. Hoàn cảnh ông ra đi như thế nào và số phận của ông sau này vẫn chưa được sáng tỏ; có thể ông đã tử trận trong Trận Oswego trong Chiến tranh 1812.

Sarah Stevens phải xoay sở công việc trong nông trại, với sự giúp đỡ của những người con. Bà mong muốn các con thành đạt; năm 1807 bà dọn gia đình đến thị trấn Peacham, Vermont lân cận, nơi bà đưa cậu con Thaddeus vào Caledonia Grammar School (còn được gọi là Học viện Peacham). Cậu thường bị các bạn học trêu chọc vì dị tật của mình. Những câu chuyện kể lại sau này miêu tả ông "cứng đầu, bướng bỉnh" với "một ham muốn được học tập mạnh mẽ".

Sau khi tốt nghiệp, ông đăng ký học Đại học Vermont nhưng phải ngưng học sau khi chính quyền liên bang trưng dụng các tòa nhà của trường trong cuộc Chiến tranh 1812. Sau đó ông đăng ký vào khóa học thứ hai của Đại học Dartmouth ở Hanover, New Hampshire. Tại Dartmouth, mặc dù có thành tích học tập xuất sắc, ông không được tuyển chọn vào hội danh dự Phi Beta Kappa; điều này được ghi nhận là một trải nghiệm chấn thương trong cuộc đời ông.

Stevens tốt nghiệp Dartmouth năm 1814, và được chọn làm một sinh viên đọc diễn văn tại lễ tốt nghiệp. Sau đó, ông trở về Peacham và dạy học trong một thời gian ngắn. Ông cũng bắt đầu học ngành luật dưới John Mattocks. Đầu năm 1815, ông đã trao đổi thư từ với người bạn là Samuel Merrill, một người đồng hương đã đến York, Pennsylvania sinh sống và trở thành giáo viên tại Học viện York, và được mời đến đó để giảng dạy. Ông dọn đến York để dạy học, và tiếp tục học ngành luật tại văn phòng luật sư David Cossett.

Luật sư và chính khách Pennsylvania

Luật sư Gettysburg

Tại Pennsylvania, Stevens dạy học tại Học viện York và tiếp tục đào tạo để gia nhập luật sư đoàn. một giới hạn có lẽ nhắm vào mục tiêu là Stevens. Theo một mẩu chuyện ông thường kể lại, ông không nản chí và đã đệ trình bốn chai rượu vang Madeira đến ban thẩm tra tại Quận Harford, Maryland ở gần đó, và quá trình sát hạch của ông được êm thấm sau khi rượu được uống nhiều. Sáng hôm sau ông rời Bel Air với giấy phép hành nghề ở bất cứ nơi nào (theo nguyên tắc qua lại giữa các tiểu bang). Stevens sau đó đến Gettysburg, quận lỵ của Quận Adams, nơi ông mở một văn phòng để hành nghề vào tháng 9 năm 1816.

Stevens không quen biết ai ở Gettysburg và ban đầu không thành công trong nghề luật sư. Giữa năm 1817, ông tham gia một vụ liên quan đến một nông dân bị bắt vì thiếu nợ sau đó đã giết một viên cảnh sát đã bắt mình, dẫn đến sự đột phá trong sự nghiệp. Tuy nỗ lực bào chữa của ông không thành công, ông đã gây ấn tượng đối với dân chúng địa phương nên từ đó ông không còn thiếu thân chủ nữa.

Sau khi ông qua đời năm 1868, nhiều người tưởng nhớ ông khẳng định ông là một luật sư tài ba. Ông đã tham gia mười vụ án đầu tiên từ Quận Adams lên đến Tòa án Tối cao Pennsylvania kể từ khi ông bắt đầu hành nghề và đã thắng chín vụ. Một vụ án mà sau này ông ao ước mình không thành công là Butler v. Delaplaine, trong đó ông đã giúp một người sở hữu nô lệ thành công đòi lại nô lệ của mình.

Tại Gettysburg, Stevens cũng bắt đầu tham gia chính trường, phục vụ sáu nhiệm kỳ, mỗi nhiệm kỳ một năm, trong hội đồng thành phố từ 1822 đến 1831 và trở thành chủ tịch hội đồng. Ông lấy lợi nhuận từ công việc để đầu tư vào bất động sản ở Gettysburg, đến năm 1825 đã trở thành chủ đất lớn nhất thị trấn, và có lợi tức từ một vài lò cao ở ngoài thị trấn. khi một tờ báo chống đối Stevens đăng một bức thư năm 1831 nêu danh ông là kẻ sát nhân, ông đã kiện thành công tờ báo vì tội phỉ báng.

Hoạt động chống Hội Tam Điểm

Mục đích hoạt động chính trị đầu tiên của Stevens là chủ nghĩa chống Hội Tam Điểm, đã trở nên thịnh hành năm 1826 sau cái chết của William Morgan, một thành viên Hội Tam Điểm ở Thượng New York; người ta nghi ngờ người giết ông là những hội viên Tam Điểm khác vì họ đã không đồng tình khi ông xuất bản một cuốn sách làm lộ các lễ nghi bí mật của Hội. Lúc này, ứng cử viên dẫn đầu trong cuộc đua đối đầu Tổng thống John Quincy Adams là Tướng Andrew Jackson, một thành viên Hội Tam Điểm đã chế giễu những người chống đối, nên chủ nghĩa chống Hội Tam Điểm được cho là đồng hành với việc chống đối Jackson cũng như những chính sách dân chủ kiểu Jackson khi ông đắc cử tổng thống năm 1828.

Những người theo Jackson là những người thuộc Đảng Dân chủ-Cộng hòa cũ mà sau này trở thành Đảng Dân chủ. Một đồng nghiệp của Stevens (và tổng thống tương lai) James Buchanan cho ông biết rằng ông sẽ thăng tiến nhanh trong chính trường nếu ông chấp nhận theo họ, nhưng ông trên nguyên tắc không thể ủng hộ Jackson. Đối với ông, chủ nghĩa chống Hội Tam Điểm là một hình thức chống đối Jackson; có lẽ ông cũng có lý do cá nhân vì hội này không cho những "người què" gia nhập. Ông hăng hái tham gia hoạt động chống Hội Tam Điểm, và vẫn trung thành với chủ nghĩa này khi hầu hết mọi người ở Pennsylvania không còn mặn mà với chủ nghĩa đó. Người viết tiểu sử về ông là Hans Trefousse cho rằng một lý do khác khiến ông căm thù hội này là một cơn bệnh cuối thập niên 1820 khiến ông mất hết tóc (từ đó ông phải đội bộ tóc giả, thường không hợp cỡ), và "cơn bệnh tai ác này chắc đã góp phần vào sự cuồng tín quá mức đối với Hội Tam Điểm."

Đến năm 1829, chủ nghĩa này đã biến thể thành một chính đảng là Đảng Chống Hội Tam Điểm (Anti-Masonic Party), nhận được nhiều ủng hộ tại vùng nông thông ở miền Trung Pennsylvania. Stevens nhanh chóng trở nên nổi bật trong phong trào, và tham gia hai đại hội toàn quốc đầu tiên của đảng, vào năm 1830 và 1831. Trong đại hội năm 1831, ông đề xuất Thẩm phán Tòa án Tối cao John McLean ra ứng cử tổng thống nhưng không thành, và Tổng chưởng lý William Wirt được đề cử. Jackson dễ dàng tái đắc cử; thất bại thê thảm này (Wirt chỉ chiến thắng tại Vermont) khiến đảng phải giải tán ở hầu hết mọi nơi, dù tại Pennsylvania nó vẫn là một thế lực mạnh trong vài năm sau đó.

Tháng 9 năm 1833, Stevens đắc cử nhiệm kỳ một năm tại Hạ viện Pennsylvania với tư cách là đảng viên Chống Hội Tam Điểm, khi ông đến thủ phủ Harrisburg ông đề xuất cơ quan này thiết lập một ủy ban điều tra Hội Tam Điểm. Tiếng tăm của Stevens vang dội ngay cả bên ngoài Pennsylvania vì tài hùng biện chống lại Hội Tam Điểm, và ông nhanh chóng trở thành một chuyên gia trong các thủ thuật lập pháp. Đến năm 1835, Đảng Dân chủ bị phân hóa, và Đảng Chống Hội Tam Điểm giành quyền quản lý viện lập pháp Pennsylvania. Được quyền hạn trát hầu tòa, Stevens đã trát đòi một số chính khách hàng đầu tiểu bang là thành viên của Hội Tam Điểm làm nhân chứng, trong đó có Thống đốc George Wolf. Những nhân chứng này nêu ra quyền không tự tố giác theo Tu chính án thứ năm; sau khi một người bị Stevens mắng chửi, ông đã chịu một luồng phản đối và đảng ông đã chấm dứt cuộc điều tra. Vụ này đã khiến Stevens thất cử năm 1836, và vấn đề chống Hội Tam Điểm đã chết đi tại Pennsylvania. Tuy vậy, Stevens vẫn giữ mối thù đối với hội này trong suốt cuộc đời.

Đấu tranh vì giáo dục

Từ những năm đầu tiên tại Gettysburg, Stevens đã đấu tranh cho một nền giáo dục phổ thông. Vào thời điểm này, không có tiểu bang nào ngoài khu vực New England có giáo dục phổ thông miễn phí. Tại Pennsylvania thì chỉ có Philadelphia cung cấp lớp học miễn phí, nhưng tại những nơi khác trong bang thì các phụ huynh muốn đưa con cái đi học mà khỏi phải trả phí cần phải cam đoan rằng họ không có khả năng chi trả. Stevens cho công chúng vào thư viện tư nhân đầy sách của mình và từ bỏ địa vị chủ tịch hội đồng thành phố để tham gia vào hội đồng trường học. Năm 1825, ông được cử tri Quận Adams bầu vào vị trí ủy viên quản trị Học viện Gettysburg. Do trường đang đà suy sụp, Stevens đã thuyết phục cử tri của quận chịu chi trả khoản nợ của trường, và cho phép bán trường thành một trường dòng của giáo hội Luther. Trường được cấp phép trao bằng đại học năm 1831, trở thành Đại học Pennsylvania, đến năm 1921 đổi tên thành Đại học Gettysburg. Stevens đã cung cấp cho trường một mảnh đất để xây một tòa nhà và giữ vị trí ủy viên quản trị trường trong nhiều năm. phải|nhỏ|Chân dung Stevens do [[Jacob Eichholtz vẽ, nay thuộc sở hữu của Đại học Gettysburg]]

Tháng 4 năm 1834, Stevens phối hợp với Thống đốc Wolf để dẫn dắt viện lập pháp để thông qua một đạo luật cho phép các địa hạt khắp tiểu bang quyền biểu quyết để thành lập các trường học công cộng và đánh thuế để chi trả cho những trường này. Địa hạt Gettysburg bỏ phiếu tán thành và bầu ông làm giám đốc trường học, và ông phục vụ tại đây đến năm 1839. Hàng vạn cử tri ký thỉnh nguyện thư đòi lật ngược quyết định này. Kết quả là một dự luật bãi bỏ đã dễ dàng thông qua Thượng viện Pennsylvania. Nhiều người tin tưởng rằng dự luật sẽ cũng thông qua Hạ viện và được ban hành dù gặp phản đối của Stevens. Khi ông đứng lên phát biểu vào ngày 11 tháng 4 năm 1835, ông đã biện hộ cho hệ thống giáo dục mới này, cho rằng nó thật sự sẽ tiết kiệm tiền, và giải thích bằng cách nào. Ông nói rằng những người chống đối đang muốn phân chia người nghèo vào một tầng lớp thấp hơn mình, cáo buộc rằng người nghèo tham lam và thiếu khả năng thấu cảm với người nghèo. Dự luật bãi bỏ bị thất bại; Stevens được ghi công cho thành tích này. Trefousse đưa giả thuyết rằng chiến thắng này không phải nhờ tài hùng biện của Steven, mà do ảnh hưởng của ông kết hợp với Thống đống Wolf.

Chuyển hướng chính trị; di chuyển đến Lancaster

Năm 1838, Stevens một lần nữa ứng cử vào viện lập pháp. Ông hy vọng rằng nếu những thành phần tàn dư của Đảng Chống Hội Tam Điểm và Đảng Whig mới nổi lên giành được đa số ghế, ông sẽ được bầu vào Thượng viện Hoa Kỳ, trong đó các thành viên vốn được các viện lập pháp tiểu bang bầu chọn cho đến năm 1913. Sau đó, một chiến dịch đã diễn ra, mà nếu được đánh giá bằng tiêu chuẩn thời đó vẫn bị xem là bẩn thỉu. Kết quả là một đảng viên Dân chủ đắc cử thống đốc, Đảng Whig giành quyền kiểm soát Thượng viện tiểu bang, còn Hạ viện thì vẫn còn có tranh cãi vì có một số ghế cho khu vực Philadelphia vẫn chưa có hồi kết, dù Stevens thì đã đắc cử ghế của mình trong Quận Adams. Stevens muốn không cho những đảng viên Dân chủ từ Philadelphia ngồi ghế, do đó Đảng Whig sẽ giành đa số và bầu một Chủ tịch Hạ viện và đưa ông vào Thượng viện. Giữa những cuộc náo động tại Harrisburgsau này được gọi là "Chiến tranh Buckshot"kế hoạch của Stevens thất bại, và Đảng Dân chủ giành quyền kiểm soát Hạ viện tiểu bang. Stevens ở lại trong cơ quan lập pháp hầu hết những năm cho đến 1842, nhưng sau vụ này, ông đã mất hầu hết ảnh hưởng chính trị vì các thành viên Đảng Whig đã đổ lỗi ông trong thất bại và ngày càng không muốn đưa vị trí lãnh đạo cho một người chưa gia nhập đảng. Dù vậy, ông vẫn ủng hộ lập trường thuận doanh nghiệp và thuận phát triển của Đảng Whig. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1840, ông vận động cho ứng cử viên Đảng Whig là cựu thiếu tướng William Henry Harrison. Mặc dù sau này Stevens cáo buộc rằng Harrison đã hứa hẹn bổ nhiệm ông vào một vị trí Nội các nếu đắc cử, ông không được vị trí nào, và bất cứ ảnh hưởng nào mà ông có được đã tan biến sau khi Harrison từ trần trong vòng một tháng sau khi nhậm chức và được John Tyler thay thế. Tyler là một người miền Nam vốn thù địch lập trường chống chế độ nô lệ của Stevens.

Dù Stevens là luật sư thành đạt nhất tại Gettysburg, ông đã có nhiều nợ nần do các hoạt động kinh doanh khác. Ông không chịu tận dụng luật phá sản, mà lại cảm thấy phải dọn nhà đến một thành phố lớn hơn để làm đủ tiền trả nợ. Năm 1842, Stevens dọn nhà và cơ sở hành nghề đến thành phố Lancaster. Ông biết rõ rằng Quận Lancaster là một thành trì của Đảng Chống Hội Tam Điểm và Đảng Whig, do đó ông có thể duy trì nền tảng những người ủng hộ mình. Trong một thời gian ngắn, ông đã thành công hơn bất cứ luật sư nào khác ở Lancaster; đến năm 1848 ông đã giảm bớt khoản nợ còn $30,000 và sớm trả hết sau đó. Tại Lancaster, ông đã thuê một người quản gia lai da trắng và da đen tên là Lydia Hamilton Smith, người ở với ông trong suốt cuộc đời.

Hoạt động bãi nô và Nghị sĩ tiền chiến

Thay đổi quan điểm

Trong thập niên 1830 ít người hoạt động đòi bãi nô ngay lập tức. Phong trào bãi nô ở Hoa Kỳ lúc đó còn non trẻ và những nhân vật như William Lloyd Garrison chỉ mới bắt đầu tham gia. Lý do mà Stevens tham gia phong trào còn có nhiều tranh cãi trong những người viết tiểu sử về ông gần đây. Richard Current trong năm 1942 đã đưa giả thuyết là ông tham gia vì tham vọng; Fawn Brodie trong quyển tiểu sử về Stevens gây tranh cãi năm 1959 dùng nguyên tắc tâm lý đưa ra giả thuyết ông tham gia vì đồng cảm với những người bị chà đạp, dựa vào khuyết tật của ông. Trefousse, trong tác phẩm năm 1997 của mình, đưa giả thuyết rằng cảm tưởng của Stevens đối với những người bị chà đạp là một yếu tố, cộng thêm với ăn năn từ vụ án Butler, nhưng tham vọng có lẽ không phải là một động cơ thúc đẩy chính, vì hoạt động chống chế độ nô lệ đã làm cản trở sự nghiệp của ông. nhỏ|Tư gia Stevens tại Đường Queen, Lancaster, Pennsylvania

Tại hội nghị lập hiến Pennsylvania năm 1837, với tư cách là một đại biểu, Stevens đã phản đối việc tước quyền bỏ phiếu của người Mỹ gốc Phi. Theo nhà sử họ Eric Foner, "Khi Stevens từ chối ký tên vào văn bản hiến pháp năm 1837 vì điều khoản về bầu cử, ông đã tuyên bố cam kết của mình đối với một định nghĩa về quyền công dân Mỹ mà không liên quan đến chủng tộc, một niềm tin ông giữ vững đến cuối đời." Sau khi ông dọn nhà đến Lancaster, vốn không cách xa đường Mason–Dixon phân định giữa miền Nam nô lệ và miền Bắc tự do, ông tham gia phong trào Đường sắc ngầm, chẳng những bảo vệ những người bị cho là nô lệ chạy trốn mà còn sắp xếp các chuyển động những người đi tìm tự do. Khi nhà ông ở Lancaster được tu sửa lại vào năm 2003, người ta đã tìm thấy một bình chứa nước bí mật để các nô lệ đang trốn chạy có thể trú ẩn, thông với tòa nhà chính qua một đường hầm giấu kín.

Cho đến khi nội chiến Hoa Kỳ bùng nổ, Stevens công khai ủng hộ bãi bỏ và ngăn chặn sự bành trướng của chế độ nô lệ. Tuy vậy, ông không kêu gọi can thiệp tại những tiểu bang đang có chế độ này vì đây là chuyện nội bộ, được Hiến pháp bảo vệ từ các sự can thiệp bên ngoài. và Zachary Taylor năm 1848.

Nhiệm kỳ đầu tiên tại Quốc hội

Trong năm 1848, Stevens ứng cử vào Quốc hội đại diện cho khu bầu cử thứ 8 của Pennsylvania. Tại đại hội đảng Whig ông gặp chống đối. Một số đại biểu cảm thấy Stevens không xứng đáng được đề cử vì đã gia nhập đảng muộn màng; một số người khác thì không ưa quan điểm của ông về chế độ nô lệ. Ông giành được đề cử với tỷ lệ sít sao. Đảng Whig giành kết quả tốt trong cuộc bầu cử năm đó, và Taylor đắc cử tổng thống còn Stevens thì đắc cử dân biểu.

Khi Quốc hội Hoa Kỳ khóa 31 họp mặt vào tháng 12 năm 1849, Stevens nhậm chức cùng với nhiều ứng cử viên bãi nô khác như Salmon P. Chase. Stevens lên tiếng phản đối Thỏa hiệp năm 1850 do Thượng nghị sĩ Henry Clay từ Kentucky đề xuất, đưa thắng lợi cho cả hai phe Bắc và Nam, nhưng cũng cho phép một số lãnh thổ mới thu được từ Mexico trở thành tiểu bang có chế độ nô lệ. Trong khi các tranh luận tiếp diễn, vào tháng 6 ông phát biểu "Cái chữ 'thỏa hiệp' này khi áp dụng vào nhân quyền và quyền hiến pháp thì tôi căm ghét." Tuy nhiên, các đạo luật trong Thỏa hiệp đã được thông qua, kể cả Đạo luật Nô lệ Trốn chạy 1850 (Fugitive Slave Act of 1850) mà đối với Stevens là ghê tởm. Dù nhiều người Mỹ hy vọng rằng Thỏa hiệp sẽ đem lại hòa bình giữa hai miền, Stevens cảnh báo rằng nó sẽ "sản sinh ra phiến loạn, chia rẽ, và nội chiến trong tương lai".

Stevens dễ dàng được đề cử lại và tái đắc cử vào năm 1850, dù quan điểm của ông đã gây vấn đề với một số đảng viên Whig ủng hộ Thỏa hiệp. Năm 1851, ông là một trong những luật sư bào chữa trong một vụ án xét xử 38 người Mỹ gốc Phi và ba người khác tại tòa án liên bang ở Philadelphia vì tội phản quốc. Những bị cáo đã dính líu vào cái gọi là vụ Nổi loạn Christiana, trong đó một người sở hữu nô lệ đã bị giết chết trong một nỗ lực thì hành một trát lệnh theo Đạo luật Nô lệ Trốn chạy. Thẩm phán Tòa án Tối cao Robert Grier, với tư cách là thẩm phán tuần tra của tòa thượng thẩm, là người chủ trì phiên xử. Grier đã chỉ thị bồi thẩm đoàn cho trắng án với lý do dù họ có thể đã có tội giết người hay nổi loạn, họ lại không bị buộc tội đó mà là tội phản quốc, và họ vô tội đối với tội danh đó. Những sự kiện thu hút dư luận như thế này đá góp phần phân cực ý kiến về vấn đề nô lệ và đưa tên tuổi Stevens lên như một nhân vật nổi bật trong phe bãi nô ở miền Bắc.

Dù vậy, Stevens vẫn đã vấp phải nhiều vấn đề chính trị. Ông rời bỏ Đảng Whig vào tháng 12 năm 1851 khi những người chung đảng không hưởng ứng nỗ lực của ông nhằm bãi bỏ những thành phần ghê gớm nhất của Thỏa hiệp, nhưng ông đã ủng hộ ứng cử viên tổng thống thất bại của đảng trong cuộc bầu cử năm 1852 là Tướng Winfield Scott. Nhận thấy mình khó được đề cử lại do các thành phần chống đối, quan điểm về chế độ nô lệ không được ưa thích tại địa phương, và việc ông tham gia trong vụ án phản quốc, nên ông chỉ mong muốn chọn người thay thế mình. Người được ông chọn cũng không được đảng Whig đề cử.

Đảng Không biết gì và Đảng Cộng hòa

Không còn tại chức, Stevens tập trung vào việc hành nghề luật ở Lancaster, duy trì tiếng tăm là một trong những luật sư hàng đầu tiểu bang. Ông vẫn hoạt động trong chính trường, và vào năm 1854 đã gia nhập Đảng Không biết gì để giành thêm lá phiếu cho phong trào bãi nô. Đây là một đảng chống nhập cư và bài ngoại nhưng lại có quan điểm bãi nô và ủng hộ quyền lao động. Các thành viên cam kết không tiết lộ thông tin về các cuộc bàn luận nội bộ (vì thế nên họ "không biết gì"), và Stevens bị chỉ trích vì đã gia nhập một nhóm có các quy tắc bí mật giống như Hội Tam Điểm. Năm 1855, ông gia nhập Đảng Cộng hòa mới được thành lập. Nhiều cựu đảng viên Whig chống chế độ nô lệ cũng gia nhập, trong đó có William H. Seward từ New York, Charles E. Sumner từ Massachusetts, và Abraham Lincoln từ Illinois.

Stevens là một đại biểu trong Đại hội Toàn quốc Đảng Cộng hòa năm 1856 và ông đã ủng hộ Thẩm phán McLean như ông từng làm vào năm 1832. Tuy nhiên, đại hội đã đề cử John C. Frémont, người mà Stevens tích cực ủng hộ trong cuộc tranh cử đối đầu với ứng cử viên Đảng Dân chủ James Buchanan, người đồng hương với ông ở Lancaster. Tuy vậy, Pennsylvania đã bầu cho Buchanan, giúp ông chiến thắng. Stevens tiếp tục hành nghề luật, nhưng đến năm 1858 khi cả Tổng thống và đảng của ông đang ít được ủng hộ sau các tranh cãi như vụ Dred Scott, Stevens nắm lấy cơ hội để trở lại Quốc hội. Với tư cách là ứng viên Đảng Cộng hòa, ông dễ dàng đắc cử. Những tờ báo ủng hộ Đảng Dân chủ tỏ ra kinh hoàng. Một tờ có hàng tít viết là "Chủ nghĩa da đen đắc thắng" ("Niggerism Triumphant").

Cuộc bầu cử năm 1860; khủng hoảng ly khai

Stevens nhậm chức trong Quốc hội Hoa Kỳ khóa 36 vào tháng 12 năm 1859, chỉ vài ngày sau khi John Brown bị treo cổ, do đã tấn công vào kho chứa vũ khí ở Harpers Ferry với hy vọng gây ra một cuộc nổi dậy của nô lệ. Vào lúc này, Stevens phản đối những hành động bạo động của Brown, nhưng sau này ông tỏ vẻ tán thành hơn. Các căng thẳng vùng miền ảnh hưởng đến Hạ viện, mà suốt tám tuần không thể bầu chọn được một Chủ tịch. Stevens tham gia tích cực vào cuộc tranh cãi gay gắt giữa hai bên; có lần Dân biểu từ Mississippi là William Barksdale đã lấy dao ra dọa Stevens, nhưng chưa dẫn đến máu đổ. phải|nhỏ|Quan điểm miền Nam về các thỏa hiệp được đề xuất trong năm 1860 và 1861, trong đó "Bác sĩ Bắc" (tức Stevens) đề nghị cắt bỏ đôi chân của miền Nam qua tu chính án hiến pháp. Trên thực tế, Stevens phản đối các biện pháp này.

Do Đảng Dân chủ không thể thống nhất chọn một ứng viên, Đại hội Toàn quốc Đảng Cộng hòa năm 1860 trở nên then chốt vì người được đề cử sẽ có vị trí thuận lợi để thắng cử. Những nhân vật nổi bật trong đảng như Seward và Lincoln ra tranh cử. Stevens tiếp tục ủng hộ Thẩm phán McLean lúc đó đã 75 tuổi. Kể từ cuộc bỏ phiếu thứ hai, hầu hết các đại biểu từ Pennsylvania đã ủng hộ Lincoln, góp phần đưa ông đến chiến thắng. Vì không đảng viên Dân chủ nào ứng cử tại khu bầu cử của ông, Stevens được bảo đảm sẽ đắc cử vào Hạ viện và vận động cho Lincoln ở Pennsylvania. Lincoln giành đa số phiếu trong Đại cử tri đoàn. Ngay lập tức, quan điểm phản đối bành trướng chế độ nô lệ của Tổng thống tân cử đã khiến một số tiểu bang miền Nam nói đến chuyện ly khai, một mối lo âu mà Stevens đã coi nhẹ trong cuộc vận động.

Khi Quốc hội triệu tập vào tháng 12 năm 1860, một số tiểu bang miền Nam đã hứa hẹn ly khai. Stevens cương quyết phản đối nỗ lực nhượng bộ người miền Nam, như trong Thỏa hiệp Crittenden, trong đó đưa chế độ nô lệ vào vị trí bất dịch theo hiến pháp. Trong một tuyên bố được trích dẫn rộng rãi tại cả miền Bắc lẫn Nam, ông cho biết thay vì nhượng bộ vì Lincoln đắc cử, ông thà "Chính phủ này vỡ thành hàng nghìn mảnh", và lực lượng Hoa Kỳ sẽ dẹp tan bất cứ cuộc phiến loạn nào. Bất chấp phản đổi của Stevens, chính phủ vịt què của Buchanan ít có động tĩnh gì để đối phó các cuộc bỏ phiếu ly khai, khiến hầu hết các tài nguyên liên bang ở miền Nam rơi vào tay quân phiến loạn. Nhiều người, ngay cả những người trong phong trào bãi nô, vẫn hài lòng để miền Nam ra đi. Stevens không đồng ý, và ông "chắc hẳn vui mừng" khi Lincoln tuyên bố trong diễn văn nhậm chức đầu tiên vào ngày 4 tháng 3 năm 1861 rằng ông sẽ "giữ, chiếm đóng, và chiếm hữu những sở hữu và địa điểm thuộc chính quyền".

Nội chiến Hoa Kỳ

Chế độ nô lệ

Khi chiến tranh bùng nổ vào tháng 4 năm 1861, Stevens lập luận rằng quân Liên minh miền Nam là phe cách mạng đáng bị tiêu diệt. Ông tin rằng họ đã đặt mình ra ngoài khuôn khổ được Hiến pháp Hoa Kỳ bảo vệ khi tuyên chiến, và khi Hoa Kỳ tái thành lập thì chế độ nô lệ sẽ không còn chỗ để tồn tại. Chủ tịch Hạ viện Galusha Grow, một người cùng quan điểm với Stevens trong nhóm Cộng hòa Cấp tiến (vì lập trường của họ đối với chế độ nô lệ, khi so với nhóm Cộng hòa Bảo thủ hay Ôn hòa), đã bổ nhiệm ông làm Chủ tịch Ủy ban Tài chính Hạ viện. Vị trí này đã cho ông quyền sắp đặt trình tự chương trình Hạ viện.

Vào tháng 7 năm 1861, Stevens đã dẫn lái để thông qua một đạo luật tịch thu tài sản, trong đó có người nô lệ, từ tay một số người phiến loạn. Tháng 11 cùng năm, ông đề xuất một nghị quyết nhằm thả tự do tất cả các nô lệ, nhưng không thành công.

Stevens và một số nghị sĩ cấp tiến khác cảm thấy thất vọng với sự chậm trễ của Lincoln trong việc làm theo chính sách của họ về vấn đề bãi nô; theo Brodie thì "Lincoln hiếm khi đi theo kịp Stevens, mặc dù cả hai đang đồng hành đến chân trời tươi sáng." Tháng 4 năm 1862, Stevens viết trong một lá thư thư gửi một người bạn: "Đối với hy vọng cho tương lai thì xấu vì Lincoln là kẻ vô danh tiểu tốt." Những người cấp tiến tiếp tục đẩy mạnh vấn đề, khiến Lincoln phải nói: "Stevens, Sumner và [Thượng nghị sĩ Massachusetts Henry] Wilson cứ quấy rầy tôi với đòi hỏi về một Tuyên ngôn Giải phóng. Dù tôi đi bất cứ nơi đâu, quay đến hướng nào, họ cứ theo đuổi tôi, nhưng trong trái tim tôi vẫn có một niềm tin sâu sắc là thời khắc [để tuyên bố] chưa đến." Tổng thống nói rằng nếu đến lúc phải chọn lựa giữa những người cấp tiến và những kẻ thù của họ, ông buộc phải theo Stevens và những người theo ông, và cho rằng họ là "ma quỷ khó đối phó nhất trên đời", nhưng "gương mặt họ...luôn hướng về Zion." Dù Lincoln đã soạn tuyên ngôn của mình vào tháng 6 và 7 năm 1862, chỉ có Nội các được biết bí mật này, và ông đã bỏ qua các lời khẩn cầu từ phe cấp tiến cho đến sau khi Liên bang miền Bắc chiến thắng trong Trận Antietam vào tháng 9 mới phát hành tuyên ngôn. Stevens nhanh chóng sử dụng Tuyên ngôn giải phóng nô lệ này trong chiến dịch tái tranh cử thành công của mình. Khi Quốc hội họp lại vào tháng 12, Stevens tiếp tục chỉ trích các chính sách của Lincoln, cho rằng chúng "đáng bị cộng đồng lên án". Stevens phản đối kế hoạch đưa những người nô lệ được thả tự do ra nước ngoài định cư của Lincoln, mặc dù ông có khi ủng hộ các đề xuất di cư vì lý do chính trị. Trong một bức thư Stevens gửi một người cháu trai vào tháng 6 năm 1863, ông viết "Những người nô lệ nên được kích động nổi dậy để cho bọn phiến loạn nếm mùi được nội chiến thật sự như thế nào."

Trong lúc quân miền Nam tiến vào miền Bắc giữa năm 1863 mà cao trào là Trận Gettysburg, quân miền Nam đã hai lần điều phái quân đến cơ sở Lò rèn Caledonia của Stevens. Stevens khi đang ở đó để giám sát công việc, đã bị nhân viên của mình đưa đi nơi khác. Tướng Jubal Early đã cho cướp bóc và phá hoại Lò rèn, khiến Stevens thiệt hại đến khoảng $80.000. Early nói rằng phe miền Bắc cũng làm việc như vậy đối với các nhân vật miền Nam, và Stevens đã nổi tiếng về sự thù oán đối với miền Nam. Khi được hỏi liệu ông có đưa vị dân biểu vào Nhà tù Libby ở Richmond hay không, Early trả lời rằng nếu bắt được Stevens thì ông sẽ cho treo cổ rồi chia xương cốt cho các tiểu bang miền Nam.

Stevens thúc đẩy Quốc hội thông qua một tu chính án bãi bỏ chế độ nô lệ. Tuyên ngôn giải phóng nô lệ chỉ là biện pháp thời chiến, không áp dụng cho tất cả nô lệ, có thể sẽ bị hủy bỏ trong một tòa án lúc thời bình; một tu chính án sẽ kết liễu chế độ nô lệ. Sau khi tái đắc cử năm 1864, Lincoln hăng hái vận động cho tu chính án, và Stevens miêu tả thông điệp thường niên của Lincoln vào tháng 12 là "thông điệp quan trọng nhất và tốt nhất đã truyền đạt tới Quốc hội trong vòng 60năm qua". Stevens kết thúc cuộc tranh luận cho tu chính án vào ngày 13 tháng 1 năm 1865. Dân biểu Illinois Isaac Arnold viết: "các quân nhân và dân chúng ưu tú đã ngồi vào tất các các chỗ ngồi có sẵn, để nghe cụ già hùng hồn nói chuyện để kết thúc cuộc chiến chống lại chế độ nô lệ dài 40 năm."

Tu chính án được thông qua với tỷ lệ sít sao sau khi chính Lincoln phải bỏ công gây áp lực, cùng với hứa hẹn bổ nhiệm chức vụ cho cuộc "vận động Seward". Phe Dân chủ cáo buộc có sự mua chuộc; Stevens tuyên bố "Biện pháp vĩ đại nhất thế kỷ 19 đã được thông qua bằng tham nhũng, được người trong sạch nhất nước Mỹ giúp đỡ và tiếp tay." Tu chính án được tuyên bố thông qua vào ngày 18 tháng 12 năm 1865. Stevens tiếp tục thúc giục diễn giải nó một cách mở rộng rằng nó chẳng những chính thức kết thúc chế độ nô lệ, mà còn bao gồm cả công lý về kinh tế.

Sau khi thông qua Tu chính án thứ 13, Quốc hội đã tranh luận về các quyền kinh tế của những người mới được thả tự do. Theo thúc giục của Stevens,

Chi tiêu chiến tranh

Stevens phối hợp chặt chẽ với các viên chức trong chính quyền Lincoln trong các đạo luật chi tiêu chiến tranh. Trong vòng một ngày sau khi được bổ nhiệm làm chủ tịch Ủy ban Tài chính, ông đã đưa báo cáo cho một dự luật vay mượn cho chiến tranh. Theo sau đó là các đạo luận trả lương cho các binh lính lính mà Lincoln đã động viên và cho phép chính quyền vay mượn tiền để tiến hành chiến tranh. Các đạo luật này đã được Stevens dẫn lái thông qua Hạ viện. Để đối phó các mánh khóe làm trì hoãn của phe Rắn hổ mang (Copperhead) chống đối, ông đã cho Hạ viện giới hạn thời gian tranh luận xuống còn nửa phút.

Stevens đóng vai trò lớn trong việc thông qua Đạo luật Phương tiện thanh toán Hợp pháp 1862, lần đầu tiên mà chính phủ liên bang Hoa Kỳ phát hành tiền dựa vào tín nhiệm thay vì vàng hay bạc. Một số biện pháp tạm thời để gây quỹ như trái phiếu chiến tranh đã thất bại khi người ta thấy rõ rằng chiến tranh sẽ tiếp diễn lâu dài. Trong năm 1863, Stevens góp phần thông qua Đạo luật Ngân hàng Quốc gia đòi hỏi các ngân hàng hạn chế số tiền lưu hành dưới số trái phiếu liên bang mà chúng cần phải giữ. Hệ thống này tồn tại trong nửa thế kỳ đến khi được Hệ thống Dự trữ Liên bang thay thế vào năm 1913.

Dù đạo luật Phương tiện thanh toán Hợp pháp cho phép chính phủ trả nợ nần bằng tiền giấy, Steven không thuyết phục được Thượng viện cho trả tiền lãi khoản nợ quốc gia bằng tiền giấy greenback. Trong lúc tiền giấy ngày càng mất giá, Stevens đã lên án những nhà đầu cơ vàng, và trong tháng 6 đã đề xuất Dự luật Vàng sau khi tham khảo ý kiến của Bộ trưởng Ngân khố Salmon P. Chaseđây là dự luật nhằm hủy bỏ thị trường vàng qua việc cấm môi giới mua vàng hay phân phát vàng trong tương lai. Dự luật được thông qua vào tháng 6; tuy nhiên các hỗn loạn diễn ra do thiếu thị trường vàng có tổ chức đã khiến tiền giấy mất giá càng nhanh hơn trước. Dưới áp lực nặng nề từ giới kinh doanh, Quốc hội phải bãi bỏ đạo luật vào ngày 1 tháng 7, chỉ 12 ngày sau khi thông qua. Stevens không tỏ ra hối hận kể cả khi tiền giấy tăng giá lại vào cuối năm 1864 giữa dự tính miền Bắc chiến thắng, và đã đề xuất dự luật nhằm ngăn cấm việc trả thêm để đổi tiền giấy lấy tiền vàng đúc. Dự luật này không được thông qua.

Cũng như hầu hết các chính khách Pennsylvania lưỡng đảng, Stevens ủng hộ thuế quan, được tăng từ 19% đến 48% trong những năm tài khóa 1861 đến 1865. Theo nhà hoạt động Ida Tarbell trong bài "Thuế quan trong thợi đại của chúng ta": "Đối với Stevens, mức thuế [nhập khẩu] không bao giờ là quá cao, đặc biệt là đối với sắt, vì ông là một nhà sản xuất và người ta thường nói tại Pennsylvania rằng mức thuế mà ông đề xuất không phải đại diện các lợi ích sắt của tiểu bang, mà là được nâng cao để đáp ứng các nhu cầu của những công trình bị hư hại nặng...của chính ông ta."

Tái thiết

Vấn đề tái thiết miền Nam

Trong lúc Quốc hội vẫn bàn luận cách tổ chức lại Hoa Kỳ sau chiến tranh, số phận của những người nô lệ được thả tự do và những người miền Nam phiến loạn vẫn chưa định đoạt. Stevens phát biểu rằng việc cần thiết là phải "tái tổ chức căn bản các cơ quan, tập quán, và kiểu cách của miền Nam". Stevens, Sumner và những người cấp tiến khác cho rằng các tiểu bang miền Nam cần được đối xử như những tỉnh bị chinh phục, không còn quyền hiến pháp nào. Ngược lại, Lincoln nói rằng chỉ có những cá nhân, không phải những tiểu bang đã phiến loạn. Tháng 7 năm 1864, Stevens thúc giục Lincoln ký Dự luật Wade–Davis đòi hỏi ít nhất một nửa số lượng cử tri trước chiến tranh của mỗi tiểu bang phải tuyên thệ trung thành thì tiểu bang đó mới được tái gia nhập. Lincoln có chủ trương khoan hồng hơn, chỉ muốn đòi hỏi 10%, nên đã phủ quyết dự luật bằng cách không ký và để nó hết hạn.

Stevens miễn cưỡng ủng hộ Lincoln trong Đại hội Đảng Liên hiệp Quốc gia, một liên minh giữa Đảng Cộng hòa và những đảng viên Dân chủ ủng hộ Liên bang miền Bắc. Ông muốn bỏ phiếu cho đương kim Phó tổng thống là Hannibal Hamlin làm người đồng hành với Lincoln trong cuộc tranh cử năm 1864, nhưng đoàn đại biểu tiểu bang Pennsylvania đã bỏ phiếu cho ứng cử viên được Lincoln đề bạt là Thống đốc Quân sự của Tennessee Andrew Johnson, một đảng viên Dân chủ ủng hộ miền Bắc từng là Thượng nghị sĩ Tennessee và được bầu làm thống đốc. Stevens cảm thấy ghe tởm khi Johnson được đề cử, phàn nàn rằng, "ta không thể tìm được một ứng cử viên Phó Tổng thống mà không cần phải xuống một tỉnh phiến loạn đáng nguyền rủa hay sao?" Stevens đã vận động cho liên danh Lincoln–Johnson; chiến dịch này thành công và Stevens cũng được thêm một nhiệm kỳ trong Hạ viện. Tháng 1 năm 1865, khi Quốc hội hay tin Lincoln từng có nỗ lực đàm phán hòa bình với các lãnh đạo miền Nam, Stevens giận dữ tuyên bố rằng nếu cử tri Mỹ có thể bỏ phiếu lại, họ sẽ bầu Tướng Benjamin Butler thay vì Lincoln.

Kế hoạch Tái thiết của tổng thống

Trước khi rời khỏi thủ đô sau khi Quốc hội giải tán cuộc họp vào tháng 3 năm 1865, Stevens đã gặp riêng Lincoln và thúc giục vị tổng thống ép chặt miền Nam về mặt quân sự, dù chiến tranh đã sắp kết thúc. Lincoln trả lời "Stevens à, đây là một con lợn thật lớn mà chúng ta đang cố gắng bắt và giữ yên khi bắt được. Chúng ta phải cẩn thận để nó không tuột khỏi tầm tay." Đây là lần cuối cùng Stevens gặp mặt Lincoln; Stevens ra đi với ấn tượng nghe được "một ẩn dụ giản dị nhưng không chắc chắn để lại một dấu vết gì trong chính sách của Lincoln". Vào tối ngày 14 tháng 4 năm 1865, Lincoln bị người ủng hộ miền Nam là John Wilkes Booth ám sát. Stevens không tham gia các lễ nghi khi tàu tang của Lincoln dừng lại tại Lancaster; lúc đó ông được cho là đang đau ốm. Trefousse thì đưa giả thuyết rằng ông có lẽ đã tránh các lễ nghi vì các lý do khác. Theo nhà viết tiểu sử về Lincoln là Carl Sandburg, Stevens đã đứng tại một cầu đường sắt và giở mũ chào.

Tháng 5 năm 1865, Andrew Johnson bắt đầu chính sách được gọi là "Tái thiết Tổng thống": công nhận chính quyền lâm thời ở Virginia do Francis Harrison Pierpont lãnh đạo, và kêu gọi các tiểu bang từng phiến loạn tổ chức các cuộc hội nghị lập hiến, tuyên bố ân xá đối với nhiều người miền Nam, và ra lệnh ân xá một số cá nhân khác. Johnson không đòi hỏi các tiểu bang bảo vệ quyền những người nô lệ được thả tự do, và ngay lập tức làm mất tác dụng các chính sách cải cách ruộng đất của Cục cho Người tự do (Freedmen's Bureau). Những hành động này làm Stevens và những người cùng quan điểm vô cùng tức giận. Những người cấp tiến thấy rằng những người mới được trao tự do có nguy cơ mất tự do kinh tế và chính trị cần thiết để duy trị sự giải phóng từ chế độ nô lệ. Họ bắt đầu kêu gọi trao quyền bỏ phiếu cho tất cả mọ người đàn ông và tiếp tục các đòi hỏi cải cách ruộng đất.

Stevens viết thư cho Johnson nói rằng các chính sách của ông đang gây thiệt hại nghiêm trọng cho đất nước và kêu gọi ông triệu hồi Quốc hội, vốn đã giải tán đến tháng 12. Khi những lời nói của mình bị phớt lờ, Stevens bắt đầu thảo luận với những người cấp tiến khác cách đối phó với Johnson một khi hai viện họp lại. Theo Hiến pháp, Quốc hội có quyền xét đoán những thành viên của mình có đủ tư cách không; Stevens kêu gọi không cho phép bất cứ nghị sĩ miền Nam nào nhậm chức. Ông lập luận rằng các tiểu bang không nên được tái gia nhập vì nếu vậy thì sau này Quốc hội sẽ không còn đủ sức mạnh để thực hiện các cải cách về chủng tộc.

Vào tháng 9, Stevens đã đọc một diễn văn tại Lancaster được in lại nhiều lần, trong đó ông đưa ra những yêu sách của mình đối với miền Nam. Ông đề xuất chính quyền tịch thu đất đai của 70.000 địa chủ lớn nhất, những người sở hữu hơn . Phần lớn các tài sản này ông muốn phân chia ra cho những người mới được thả tự do, mỗi hộ một mảnh có diện tích ; phần còn lại chia cho những người trung thành ở cả hai miền Bắc Nam, hoặc để trả nợ chính phủ. Ông cảnh báo rằng dưới kế hoạch của Tổng thống, các tiểu bang miền Nam sẽ gửi những kẻ phiến loạn vào Quốc hội và họ sẽ cấu kết với những đảng viên Dân chủ ở miền Bắc và Johnson để cai trị quốc gia và có thể xóa bỏ giải phóng

Đến cuối năm 1865, các tiểu bang miền Nam đã chỉ cho phép người da trắng bỏ phiếu, và trong các cuộc bầu cử Quốc hội, đã bầu chọn nhiều cựu quân phiến loạn, trong đó có Phó tổng thống Liên minh miền Nam Alexander Stephens được cơ quan lập pháp Georgia chọn làm thượng nghị sĩ. Bạo lực chống lại người Mỹ gốc Phi diễn ra thường ngày ở miền Nam và không bị trừng phạt; các cơ quan lập pháp mới này đã thông qua các đạo luật tước đi hầu hết mọi quyền công dân của những người mới thoát được ách nô lệ. Những hành động này được xem là khiêu khích đối với miền Bắc, đã khiến Johnson phải lo ngại và cũng góp phần xoay chuyển dư luận miền Bắc chống lại tổng thống.

Kế hoạch Tái thiết của Quốc hội

phải|nhỏ|Stevens với vẻ mặt trầm ngâm

Đến lúc này, Stevens đang ở độ tuổi thất tuần và sức khỏe đã suy yếu; ông phải được khiêng đi mọi nơi bằng một chiếc ghế đặc biệt. Khi Quốc hội mở khóa họp mới đầu tháng 12 năm 1865, Stevens đã có sắp xếp với thư ký Hạ viện để khi điểm danh các dân biểu thì bỏ qua tên những người được bầu từ miền Nam. Thượng viện cũng có hành động tương tự đối với những người muốn vào từ miền Nam. Một tân dân biểu là Rutherford B. Hayes từ Ohio, miêu tả Stevens: "Ông ta hoàn toàn cấp tiến, trừ cái điều là theo tôi biết thì ông ta không ủng hộ việc treo cổ. Ông ta là nhà lãnh đạo."

Vì các nhiệm vụ của chủ tịch Ủy ban Tài chính đã được phân chia, Steven đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch Ủy ban Phân bổ Ngân sách Hạ viện và vẫn giữ quyền sắp đặt trình tự chương trình Hạ viện. Stevens chú trọng vào các dự luật nhằm bảo đảm các quyền tự do mà Tu chính án 13 vừa thông qua đã hứa hẹn. Ông đề xuất rồi chủ tọa Ủy ban Lưỡng viện về Tát thiết cùng Thượng nghị sĩ từ Maine là William Pitt Fessenden. Cơ quan này, còn gọi là Ủy ban 15 Người (Committee of Fifteen), đã điều tra tình trạng tại miền Nam. Ủy ban đã nghe kể về các hành động bạo lực chẳng những chống người Mỹ gốc Phi, mà còn chống lại những người trung thành với Liên bang miền Bắc, và những người bị người miền Nam gọi là "carpetbagger", tức những người miền Bắc di cư đến miền Nam sau khi hòa bình lập lại. Stevens tuyên bố "những người anh em trung thành của chúng ta ở miền Nam, bất kể da trắng hay da đen" cần được bảo vệ cấp bách "khỏi những kẻ man rợ nay đang giết họ hàng ngày". Stevens tin rằng dù Tuyên ngôn độc lập và các Đạo luật Cơ bản (Organic Acts) đã ràng buộc chính quyền liên bang với các nguyên lý này, nhưng một tu chính án vẫn cần thiết để thi hành chống lại phân biệt đối sử ở cấp tiểu bang. Nghị quyết mà sau này trở thành Tu chính án thứ 14 đã bị giảm bớt tại Quốc hội; trong cuộc tranh luận lần cuối, Stevens phát biểu rằng những thay đổi này đã làm tan vỡ ước vọng của cả cuộc đời mình để mang lại bình đẳng cho tất cả mọi người Mỹ. Tuy vậy, ông tuyên bố rằng mình đang sống với con người chứ không phải các thiên thần, nên ông đã ủng hộ tu chính án đã được thỏa hiệp. Tuy thế, Stevens phát biểu tại Hạ viện: "Bốn mươi mẫu đất và một ngôi chòi sẽ có giá trị đối với [người Mỹ gốc Phi] nhiều hơn so với quyền bỏ phiếu ngay lập tức." trái|nhỏ|Dựa theo một lời trao đổi giữa Johnson và những người la ó trong vận động "Xoay quanh vòng tròn", phần tranh biếm họa này của [[Thomas Nast cho thấy Johnson đang ân xá Davis trong lúc Stevens và Wendell Phillips đang bị treo cổ ở đằng sau.]]

Khi Thượng nghị sĩ từ Illinois Lyman Trumbull đề xuất dự luật nhằm tái cấp quyền và mở rộng Cục cho Người tự do, Stevens cho rằng dự luật này là một "vụ cướp" vì nó không có đầy đủ những điều khoản để cải cách ruộng đất hay bảo vệ tài sản của những người di cư được chính quyền quân sự chiếm đóng ở miền Nam trao cho. Dù sao thì Johnson cũng đã phủ quyết dự luật này, cho rằng Cục cho Người tự do là vi hiến và chỉ trích chi phí của nó: Quốc hội chưa từng mua đất, thành lập trường học, hay trợ cấp "người của chúng ta". Quốc hội không có đủ phiếu để vượt qua hành động phủ quyết của Johnson vào tháng 2, nhưng năm tháng sau lại thông qua một dự luật tương tự. Stevens chỉ trích Đạo luật Nhà ở miền Nam 1866 được thông qua, cho rằng đất hạng xấu mà đạo luật cung cấp không thúc đẩy được sự phát triển kinh tế cho các hộ người da đen.

Sau khi Quốc hội giải tán vào tháng 7, chiến dịch cho cuộc bầu cử mùa thu lại bắt đầu. Johnson tiến hành một chuyến đi bằng đường sắt, được gọi là "Xoay quanh vòng tròn" (Swing Around the Circle), nhưng không mang lại cho ông nhiều người ủng hộ; những cuộc tranh luận giữa ông và những người la ó chất vấn bị xem là làm mất thể thống. Ông tấn công Stevens và những nhân vật cấp tiến khác trong chuyến đi này. Stevens thì vận động cho những biện pháp cứng rắn đối với miền Nam, và quan điểm ông được củng cố do những sự kiện bạo động ở Memphis và New Orleans, nơi những người Mỹ gốc Phi và người da trắng trung thành với Liên bang miền Bắc bị những đám đông tấn công, kể cả cảnh sát. Stevens được cử tri bầu lại vào Quốc hội; Đảng Cộng hòa giành được tỷ lệ đa số 2/3 trong cả hai viện trong khóa Quốc hội kế tiếp.

Kế hoạch Tái thiết của nhóm Cấp tiến

Tháng 1 năm 1867, Stevens đề xuất các dự luật nhằm phân chia miền Nam thành năm hạt, một hạt do một tướng lĩnh quân đội chỉ huy, có quyền cao hơn chính quyền dân sự. Những chỉ huy quân sự này có nhiệm vụ giám sát các cuộc bầu cử để bảo đảm tất cả những người phái nam, bất kể thuộc chủng tộc nào, đều có quyền bỏ phiếu, trừ những người không thể tuyên thệ rằng họ chưa từng ủng hộ Liên minh miền Namhầu hết những người dân da trắng miền Nam không thể đáp ứng yêu cầu này. Những tiểu bang đó phải phác thảo những hiến pháp mới (phải được Quốc hội phê chuẩn) và tổ chức bầu cử những viên chức tiểu bang. Chỉ khi tiểu bang nào thông qua Tu chính án thứ 14 thì đoàn nghị sĩ của tiểu bang đó mới được cho phép nhậm chức tại Quốc hội. Hệ thống này trao quyền cho một liên hiệp trong Đảng Cộng hòa giữa những người cựu nô lệ mới được thả tự do (được Hội Liên bang huy động), những carpetbagger, và những người dân miền Nam cộng tác (những người này bị những người bất tuân gọi mỉa mai bằng tên gọi scalawag) tại hầu hết các tiểu bang miền Nam. Tu chính án thứ 14 được các tiểu bang này thông qua rồi có hiệu lực vào giữa năm 1868.

Stevens đề xuất một Đạo luật Nhiệm kỳ Chức vụ, đòi hỏi tổng thống nhận sự phê chuẩn của Thượng viện để sa thải những viên chức từng được Thượng viện phê chuẩn cho chức vụ đó. Đạo luật này có điều mơ hồ vì có thể hiểu được chỉ bảo vệ những viên chức trong nhiệm kỳ của tổng thống đã bổ nhiệm họ, và hầu hết những viên chức mà phe cấp tiến muốn bảo vệ là do Lincoln bổ nhiệm. Quan trọng nhất trong số những viên chức đó là Bộ trưởng Chiến tranh Edwin Stanton, vốn là một thành viên phe cấp tiến.

Stevens dẫn lái một dự luật thông qua Hạ viện nhằm trao quyền bỏ phiếu cho người Mỹ gốc Phi ở quận Columbia; dự luật được Thượng viện thông qua vào năm 1867, và được ban hành dù bị Johnson phủ quyết. Quốc hội đang cắt giảm Lục quân trong thời bình; Stevens đưa ra một đề xuất sửa đổi để cho thêm hai trung đoàn kỵ binh người Mỹ gốc Phi – đề xuất này được chấp thuận và được thông qua với đạo luật. Mối quan tâm của ông đối với người Mỹ gốc Phi cũng được mở rộng đối với người thổ dân; Stevens đã ngăn chặn một dự luật nhằm đặt các khu vực dành riêng cho người da đỏ dưới luật tiểu bang, ghi nhận rằng những người thổ dân thường bị các tiểu bang lạm dụng. Là một người theo chủ nghĩa bành trướng, ông ủng hộ các công ty đường sắt. Ông thêm một điều kiện trong Đạo luật Đường sắt Lục địa Thái Bình Dương (Pacific Railroad Act) đòi hỏi các công ty đường sắt phải mua sắt "do Mỹ sản xuất" ở giá chất lượng hàng đầu. Dù ông cố gắng hỗ trợ những nhà sản xuất bằng cách đánh thuế nhập khẩu cao, ông đã không thành công trong nỗ lực thông qua một dự luật bảo vệ lao động với ngày làm việc dài 8 giờ ở quận Columbia. Stevens cũng đã đề xuất một dự luật tăng lương nhân viên chính phủ, nhưng không thành công.

Luận tội Tổng thống

Khóa họp Quốc hội thứ 40, tụ họp vào ngày 4 tháng 3 năm 1867, không xông xáo chống đối Johnson như Stevens mong muốn. Quốc hội nhanh chóng tan họp đến tháng 7, dù Ủy ban Tư pháp vẫn còn ở lại để điều trần về vấn đề có nên luận tội Johnson hay không. Stevens cương quyết ủng hộ luận tội, nhưng những thành viên khác thì ít hăng hái hơn khi Thượng viện bầu chọn Benjamin Wade từ Ohio làm chủ tịch tạm quyền, tức người kế vị tổng thống nếu không có phó tổng thống. Wade là một người cấp tiến ủng hộ chính sách tái phân phát của cải; một diễn văn của Wade tại Kansas đã khiến Karl Marx ấn tượng đến mức ông đã nhắc đến nó trong phiên bản tiếng Đức đầu tiên của tác phẩm Tư bản. Đồng thời là một người ủng hộ trao quyền bỏ phiếu cho phụ nữ, quan điểm của Wade đã khiến nhiều người không tin tưởng; viễn cảnh ông kế vị khiến một số người muốn phế truất Johnson phải lưỡng lự. Tuy nhiên Stevens thì vẫn cương quyết muốn truất phế Tổng thống, và khi Ủy ban Tư pháp chưa có báo cáo, ông đã cố gắng duy trì cuộc họp Quốc hội cho đến khi có báo cáo. Dù phản đối tổng thống, Stevens vẫn hợp tác với chính quyền Johnson trong các vấn đề mà cả hai phía đều ủng hộ; ông đã giành được khoản tiền để chính phủ mua Alaska và thúc giục Ngoại trưởng Seward tìm các lãnh thổ khác để bành trướng.

Hầu hết các bộ trưởng trong nội các của Johnson ủng hộ ông, duy Bộ trưởng Chiến tranh Stanton thì không. Ông cùng Thống tướng Lục quân và anh hùng chiến tranh Ulysses S. Grant đã hợp tác để làm hao mòn các chính sách Tái thiết của Johnson. Johnson đã tuân thủ các đạo luật mà Quốc hội đã thông qua, đôi khi bất chấp cả phủ quyết của ông, nhưng ông thường diễn giải chúng theo cách ngược lại ý định của Quốc hội. Sau khi Stanton không chịu từ chức theo yêu cầu của Johnson vào tháng 8 năm 1867, Johnson đã đình chỉ Stanton, đúng theo điều khoản của Đạo luật Nhiệm kỳ Chức vụ, và bổ nhiệm Thống tướng Grant làm Bộ trưởng Chiến tranh lâm thời. Trong cuộc bầu cử năm đó, các đảng viên Cộng hòa vận động xoay quanh chính sách trao quyền bỏ phiếu cho người Mỹ gốc Phi, nhưng cử tri lại bầu cho những đảng viên Dân chủ vốn không ủng hộ chính sách này. Dù không có ghế Quốc hội nào trực tiếp chịu ảnh hưởng, cử tri Ohio đã đánh bại một trưng cầu dân ý trao quyền bỏ phiếu cho người da đen và đưa Đảng Dân chủ đa số ghế trong cơ quan lập pháp tiểu bang, khiến Wade không được bầu vào lại Thượng viện khi nhiệm kỳ của ông kết thúc vào năm 1869. phải|nhỏ|Tranh khác gỗ trên tờ [[Harper's Weekly miêu tả Stevens đang nói lời tranh luận cuối cùng tại Hạ viện]]

Khi Quốc hội họp lại vào tháng 12, mặc dù Ủy ban Tư pháp bỏ phiếu 5-4 ủng hộ luận tội, Hạ viện đã bỏ phiếu chống. Ngày 13 tháng 1 năm 1868, Thượng viện đã hủy bỏ lệnh đình chỉ của Johnson đối với Stanton. Grant từ chức Bộ trưởng Chiến tranh và Stanton được phục hồi chức vụ. Tuy nhiên, ngày 21 tháng 2 thì Tổng thống lại đuổi việc Stanton và bổ nhiệm Tướng Lorenzo Thomas để thế chỗ ôngdù Stanton không chịu rời vị trí và phòng thủ trong văn phòng. Các hành động này đã gây xôn xao khắp thủ đô, và tại Hạ viện Stevens đã đi qua từng nhóm, lặp đi lặp lại câu nói "Tôi đã nói rồi mà đúng không? Ôn hòa thì có ích gì? Nếu các ông không tiêu diệt con quái vật thì nó sẽ giết các ông." Stevens kết thúc cuộc tranh luận về nghị quyết mới nhằm luận tội Johnson vào ngày 24 tháng 2, nhưng do sức khỏe yếu ông không thể đọc hết diễn văn mà phải đưa cho Thư ký Hạ viện đọc giúp. Ông cáo buộc Johnson đã giành quyền từ các nhánh khác của chính quyền và phớt lờ nguyện vọng của nhân dân. Ông không phủ nhận rằng cuộc luận tội là một vấn đề chính trị, nhưng rằng "đây sẽ không chỉ là một chiến thắng tạm thời cho một đảng phái nào, mà hệ quả của nó sẽ kéo dài cho đến khi toàn bộ châu lục tràn đầy con người tự do và không bị cản trở, hoặc là [biến thành] một cái ổ đầy nô lệ lùi bước, nhút nh

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thaddeus Stevens** (4 tháng 4 năm 179211 tháng 8 năm 1868) là một dân biểu trong Hạ viện Hoa Kỳ đến từ Pennsylvania. Ông từng là một trong những lãnh tụ phái Cộng hòa Cấp
**Quận Stevens** là một quận thuộc tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ. Theo điều tra dân số năm 2000 của Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, quận có dân số 5463 người. Quận lỵ là
**Abraham Lincoln** (; 12 tháng 2 năm 1809 – 15 tháng 4 năm 1865) là một chính khách và luật sư người Mỹ, tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ từ năm 1861 cho đến
**Nội chiến Hoa Kỳ** (, 12 tháng 4 năm 1861 – 9 tháng 5 năm 1865, còn được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau), là một cuộc nội chiến diễn ra ở Hoa
**Lancaster** là một thành phố thuộc quận trong tiểu bang Pennsylvania, Hoa Kỳ. Thành phố có diện tích  km², dân số theo điều tra năm 2000 của Cục điều tra dân số Hoa Kỳ là
**_Lincoln_** là một phim điện ảnh chính kịch lịch sử của Mỹ năm 2012 do Steven Spielberg đạo diễn kiêm sản xuất, với sự tham gia diễn xuất của nam diễn viên Daniel Day-Lewis trong
**Tommy Lee Jones** (sinh ngày 15 tháng 9 năm 1946) là một diễn viên và đạo diễn phim người Mỹ. Ông đã nhận được 4 đề cử giải Oscar và nhận được một Giải Oscar
Cuộc **bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1856** là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần thứ 18, được tổ chức vào thứ ba, ngày 4 tháng 11 năm 1856. Trong một
**_What If...?_** (tạm dịch tiếng Việt: **_Sẽ ra sao nếu...?_**) là một bộ phim hoạt hình tuyển tập dài tập của Mỹ do A. C. Bradley tạo ra cho dịch vụ phát trực tuyến Disney+,