✨Diễn văn Parchwitz

Diễn văn Parchwitz

Diễn văn Parchwitz, còn gọi là Diễn văn Parschwitz là bài hiệu triệu ba quân do nhà vua Friedrich II Đại Đế nước Phổ thực hiện vào cuối năm 1757 tại Parchwitz (Schlesien từ xứ Sachsen về tỉnh Schlesien nhằm thu hồi tỉnh này, sau khi binh tướng Phổ tại đây bị quân Áo đánh cho đại bại. Lời hiệu triệu này rất được ca ngợi như một bài diễn văn nổi tiếng, qua đó Friedrich II Đại Đế đã nêu rõ hậu quả trực tiếp của chiến bại tại trận Breslau và thôi thúc tướng sĩ chiến đấu, bởi vì vận mệnh của họ gắn với sự sinh tồn của Vương quốc Phổ. Ông đã tuyên bố với họ về kế hoạch tiến công quân Áo của ông ở Leuthen, bài diễn văn đầy khí phách này đã khiến cho quân thanh, sĩ khí của tướng sĩ Phổ tăng vọt.

Friedrich II Đại Đế khi ấy được ghi nhận là luôn chìm đắm trong khát vọng chiến đấu vì Tổ quốc, với quyết tâm đại thắng và sẵn sàng hy sinh (những người ca ngợi ông thường hay coi đây là "sự quý phái anh dũng" Trong khi bài diễn văn đã xác định rõ tình hình, nó đã được đáp ứng bằng sự vô cùng nồng nhiệt của các chiến binh Phổ. Ông được xem là trở nên tuyệt đối anh dũng trong lúc này, với lòng yêu nước nồng nàn và quả đoán (song bài diễn văn nổi tiếng cũng chứng tỏ quyền thưởng phạt của ông như một Quân vương). Điều ấy báo trước đại thắng cho ông trong trận Leuthen không lâu sau bài diễn văn hùng hồn được lắm người ca ngợi này, khi ông đánh tan tác quân Áo và làm nên một trong những chiến công "lấy ít thắng nhiều" của ông. Chiến thắng vang dội ấy đã lăng mạ nghiêm trọng Quân đội Áo, và trở thành sự đáp trả xứng đáng của các chiến binh Phổ đối với nhà vua.

Mỗi võ tướng đều phải phân phát quân lệnh này cho đơn vị của mình. Có nhiều phiên bản khác nhau về quân lệnh, nhưng đáng tin cậy nhất là phiên bản của Hoàng thân August Ferdinand, song bài diễn văn này đã đi vào lịch sử và ảnh hưởng lớn đến Nhà nước Đức Quốc xã về sau này. Được xem là một nhà sáng tạo quân sự tài ba, ông đã giành hết nửa đầu triều đại của ông để chống nhau với Đại Công nương Áo là Maria Theresia - Hoàng hậu của Đế quốc La Mã Thần thánh dân tộc Đức kiêm Nữ hoàng xứ Böhmen. nhà vua nước Phổ quyết tâm chủ động tiến công: ông thân chinh cất đại quân đi đánh Tuyển hầu quốc Sachsen. Đại Công nương Maria Theresia sai quân đến cứu xứ Sachsen, và trong trận kịch chiến tại Lobositz Friedrich II Đại Đế phải nhận thấy rõ rằng người Áo đã học tập được nhiều kinh nghiệm bổ ích kể từ khi bị ông đánh tan tác trong cuộc Chiến tranh Kế vị Áo (1740 - 1748). Tuy nhiên, đoàn quân Phổ chiến đấu dũng mãnh cho nên quân Áo bại trận, và cuối cùng thì Sachsen thất thủ. Cơn binh đao này thật sự là một cuộc Đại chiến thế giới, biết vậy, nhà vua ngự bút thư gửi cho em gái ông, rằng ông sẽ phải liên tục đấu tranh, vì tình hình của ông bấy giờ chẳng khác gì Quốc vương Karl XII nước Thụy Điển vào năm 1700 (Xem bài Đại chiến Bắc Âu cho rõ hơn). Năm mới đến, Friedrich II Đại Đế quyết định xua đại binh tấn công chớp nhoáng vào thành Praha để gạt nước Áo ra khỏi vòng chiến. Quân ông chiến thắng lớn trong trận chiến kịch liệt ở Praha, tuy nhiên đại bại trong trận đánh kế tiếp tại Kolín, do đó đến tháng 8 năm 1757 ông mất hoàn toàn xứ Böhmen. Tổn thất lớn nhất của ông là Thống chế đại tài Kurt Christoph Graf von Schwerin, đồng thời kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của người Phổ đã thất bại. Trong khi đó, ngay từ tháng 6 năm 1757 thì Nữ hoàng Nga là Elizaveta đã cử binh đánh vùng Đông Phổ. Nhưng sau trận ác chiến tại Gross-Jägersdorf thì quân Nga chịu tổn thất đáng kể về binh lực nên phải rút quân trở về. Song, vào ngày 7 tháng 9 năm 1757, quân Áo chiến thắng trong trận Moys, vị Thống chế lỗi lạc của nước Phổ là Hans Karl von Winterfeldt hy sinh, và từ đó quân Áo bắt đầu tiến công Schliesen. Chưa kể một đạo quân Áo còn tấn công kinh thành Berlin vào ngày 16 tháng 10 năm 1757, còn đại quân Áo do Vương công Karl Alexander xứ Lothringen và Bá tước Leopold Joseph von Daun chỉ huy thì đánh tỉnh Schliesen, cùng với binh đoàn của Tướng Nadasty. Trước tình hình ấy, Vua nước Phổ quyết tâm dùng kế "đánh và giữ" theo đó ông giao cho các tướng chỉ huy pháo đài trọng trách giam chân phần lớn quân Đồng minh, còn ông sẽ thân chinh đem binh đi đánh phần còn lại, giữa vào đường nội tuyến tuyệt vời của Phổ (ông sẽ còn phát huy rất thành công nội tuyến này và gây ảnh hưởng to lớn cho đời sau). Quân Áo vây khốn thành Schweidnitz từ tháng 10 năm 1757. Quân Liên minh Pháp - Đức bị hủy diệt, cuống cuồng tháo chạy. Ngay sau một thời gian nghỉ ngơi ngắn thì từ ngày 13 tháng 11 năm 1757 ông kéo rốc binh đoàn gồm 13 nghìn chiến binh từ Leipzig về Lusatia, để giúp Bevern đuổi địch khỏi thành Schweidnitz. Theo nhà sử học Hannsjoachim Wolfgang Koch thì ông có 14 nghìn quân sĩ, nói cách khác là 18 Tiểu đoàn và 20 Sư đoàn Kỵ Binh, còn một tư liệu khác chép là ông có 15 nghìn binh sĩ. Hoàng thân Phổ là Friedrich Heinrich Ludwig nhận lệnh chỉ huy một binh đoàn trấn thủ xứ Sachsen. Thống chế James Francis Edward Keith nhận lệnh nhà vua kéo một binh đoàn nhỏ đánh vào xứ Böhmen, dũng mãnh và kiên cường đến mức quân Áo hoảng sợ phải bỏ Lusatia về, mất nhiều chiến lợi phẩm, đạn dược về tay Keith. Trong lúc nhà vua còn ở Lusatia, trong ngày thứ năm của cuộc hành binh, Tuy dân chúng Schliesen đã chào đón cuộc chinh phạt của Friedrich II Đại Đế vào năm 1740, nhưng giờ đây họ đã nguyện thề trung thành với Đại Công nương Áo. Người Áo lúc bầy giờ rất mở cờ trong bụng, họ đều tự nhủ: "Friedrich là thằng nào? Chúng ta đã đè bẹp hắn tại Kolín! Bọn Phổ của hắn bị ta đập tan nát tại Zittau, Moys và Breslau" (là những thắng lợi của quân Áo trong năm 1757). Họ còn ung dung suy nghĩ phải làm gì nếu vị Quân vương nước Phổ kéo đại binh tới ? ]] Giữa lúc ấy, Quân vương vẫn bình tĩnh, kiên nhẫn; Nhưng đến ngày 25 tháng 11 năm 1757, sau khi nhà vua hành quân qua Weissenberg và vượt qua sông sông Queiss thẳng tiến đến Naumburg, Letswitz cũng bị giam cầm còn quan Tổng đốc thành Schweidnitz là Seers thì sau kih được người Áo trao trả tự do cũng sẽ bị Triều đình bãi chức. Vào ngày 26 tháng 11 năm 1757, Quân đội Phổ hành binh khỏi Naumburg, rồi lại đến Lobedau. Nhà vua cũng hành binh qua thành Liegnitz, mà ông xem nhẹ lực lượng đồn binh Áo tại đây. Quân ông đến vùng Barchwitz vào ngày 28 tháng 11 năm 1757 để cho quân sĩ nghỉ ngơi thêm một chút, chờ quân Ziethen (với khoảng 24 nghìn người) đến hợp binh. Thực sự, tình hình của ông lúc này là rất nguy kịch và chỉ một chiến thắng vĩ đại mới có thể cứu nguy được cho ông.

Bài diễn văn Parchwitz trước toàn quân

phải|Nhà vua [[Friedrich II của Phổ|Friedrich II Đại Đế nước Phổ đã gây cho cả châu Âu phải náo động bằng cuộc chinh phạt tỉnh Schliesen vào năm 1740. Sau này, ông đã dùng thiên tài quân sự và chính trị của mình để bảo vệ nước Phổ đánh lui các cuộc tấn công của phe Liên minh chống Phổ. Tuy thua trận Kolín, ông đại thắng trong chiến dịch Roßbach - Leuthen hiển hách. Chính những trận thắng lớn này đã củng cố ngoại hiệu "Đại Đế" của ông.]] Các Sĩ quan của đội bại binh này e sợ, xem chừng họ chẳng khác gì những tên tội phạm sắp phải đối đầu với đao phủ - chính là Quân vương. Nhưng chính cái khó ấy đã khiến Quân vương thể hiện rõ tài nghệ chỉ huy ba quân của ông: để kêu gọi ba quân đánh trận kế tiếp với quân Áo, ông cho họ uống rượu và kể lại với họ về những chiến tích oanh liệt của lực lượng Quân đội Phổ trong quá khứ. Các chiến binh tha hồ ăn uống, nhưng quan trọng hơn hết là những chiến binh đã vào sinh ra tử với Quốc vương tại Tuyển hầu quốc Sachsen - lúc này đang sướng sung bởi niềm huy hoàng đại phá tan tành quân Pháp trong trận đánh vang danh tại Roßbach mới đây - đã kể cho đội bại binh của Ziethen nghe về chiến thắng lịch sử tại Roßbach. Nhà sử học quân sự Đức là Hans Delbrück kể rằng người Phổ bị áp đảo về quân số, với 4 vạn binh sĩ phải chiến đấu chống lại từ 6 vạn cho đến 66 nghìn quân Áo. Nhà sử học quân sự Hoa Kỳ là David G. Chandler nói khác chút: Friedrich II Đại Đế có 35 nghìn chiến sĩ cùng với 71 khẩu đại pháo còn Karl và Daun có 6 vạn chiến sĩ và 65 khẩu đại pháo quanh thị trấn Leuthen. Tác giả Stanley Sandler thì cho biết quân Áo có đến 66 nghìn binh sĩ, cùng với 210 khẩu đại bác. Tài liệu khác cho biết vị vua Phổ hùng mạnh thân chinh thống suất 43 nghìn chiến sĩ tinh nhuệ chống nhau với 72 nghìn chiến sĩ Áo. Dù gì thì người Áo cũng đông đảo vượt trội đại quân Phổ của nhà vua Friedrich II Đại Đế: ông chỉ có 32 nghìn quân theo Franz Kugler, 36 nghìn quân theo tác giả Cormac O'Brien, 39 nghìn quân theo Stanley Sandler, và 43 nghìn quân theo Will Durant, Một cuốn sách khác cũng ghi nhận nhà vua Phổ thiên tài thống suất 36 nghìn đại binh trong khi quân Áo có đến 85 nghìn đại binh. Theo tác giả William Jacks trong cuốn sách The life of His Majesty William the Second, German emperor: with a sketch of his Hohenzollern ancestors, binh lực Phổ với 3 vạn binh sĩ chỉ bằng có 1/3 binh lực Áo.. Một bản chép nguyên văn bài hiệu triệu này như sau, được một số cuốn sử dẫn lại:). Cũng có một tài liệu đã ghi nhận bài diễn văn Parchwitz là nổi tiếng và thể hiện khát vọng "chiến thắng hoặc là hy sinh" của ông, và cho thấy vua Phổ đã quá xem nhẹ quân số của địch: ông nghĩ là họ chỉ còn có 4 vạn quân.

Ngoài ra, có một số: cuốn sách khác chép tóm lược lời hiệu triệu đầy khí phách của nhà vua Friedrich II Đại Đế như sau (tỷ dụ như sách Artillery through the ages của tác giả Philipp H. Stevens đã ghi nhận bản này khi viết về Friedrich II Đại Đế):

Sách Europe: The Making Of The Nation States cũng cho biết là ông tuyên bố với các tướng lĩnh về kế hoạch tấn công quân thù ở Leuthen Quân vương đã nói lời hiệu triệu này bằng tiếng Đức - đây là điều hiếm có ở ông do ông thường nói tiếng Pháp, trước các võ tướng cho đến cấp Tiểu đoàn. Như một người chứng kiến kể lại, lời hiệu triệu hùng tráng của nhà vua - là sự liên kết giữa quyền lợi của ba quân với Tổ quốc Giờ đây, hào khí của ba quân đều sục sôi. Với chủ nghĩa anh hùng, họ sẵn sàng xả thân vì đất nước, và vì niềm tin cao đẹp vào "Ông già Fritz" (Vater Fritz) lẫy lừng của họ. Vị Quốc vương vĩ đại thật thành công trong việc kêu gọi niềm nhiệt huyết và lòng trung quân, ái quốc của toàn quân. các Trung đoàn đều tập hợp lại cả, rời khoỉ các khu đóng quân của họ, và sẵn sàng hành binh vào ngày hôm sau. Đầu tiên, ông thăm hỏi Trung đoàn Thiết Kỵ Binh Tiền Vệ, được họ chúc một đêm vui vẻ, và ông cũng ân cần hồi đáp. Một số chiến binh lão luyện, với lòng trung dũng nghĩa khí, tâu: "Có tin gì vậy thưa Ngài, giờ đã muộn rồi!" Ông trả lời: _"Tin tốt, hỡi các con (Kinder)! Ngày mai ta sẽ đánh cho quân Áo đại bại tơi bời". Các chiến binh đáp: "Chúng thần sẵn sàng, kính bẩm". Nhà vua lại nói: "Những chỉ lo rằng ở đằng kia bọn chúng sẽ bố trí ở nơi nào và chúng sẽ phòng ngự bằng cách nào?" Các chiến binh tâu: "Và nếu chúng có một Ma Vương phía trước và xung quanh, chúng ta sẽ hạ thủ chúng! Chỉ có Ngài mới có thể lãnh đạo chúng thần làm vậy!" Nhà vua phán: "Tốt, Trẫm sẽ xem các Khanh làm được gì, bây giờ hãy nằm xuống và ngủ đi thôi; và xin chúc các con ngủ ngon". Toàn quân đồng thanh: "Chúc một đêm tốt lành, hỡi Fritz". Trong lúc ấy nhà vua lại đến gần Trung đoàn thứ hai và có lẽ ông sẽ nói chuyện với họ. Đó là Trung đoàn Pommern trứ danh kỷ cương, trung dũng nghĩa khí. Họ luôn tự giác có tinh thần đánh giặc, mà không cần phải được khen ngợi. Quân vương hỏi: "Này các con, các con nghĩ ngày mai tình hình sẽ ra sao? Giặc đông hơn ta nhiều lắm". Những người lính thiện chiến đồng thanh đáp: "Ngài không phải lo; chúng không có ai người Pommern cả; Ngài hãy tin rằng người Pommern có thể làm được" (có tư liệu chép là: "Đức Hoàng thượng khỏi lo, giặc không có người Pommern của chúng tôi. Ngài cũng biết là họ chiến đấu ra làm sao", và quả thực là người Pommern hùng dũng đã đóng góp rất lớn cho đại thắng ở Leuthen đúng như khẩu ngữ của người Đức là "Nơi nào có dân Pommern, nơi ấy cỏ không mọc được"). Ông đẹp lòng, nói: "Phải, Trẫm biết quá đi chứ, nếu không thể Trẫm đã không dám quyết định đánh trận. Bây giờ chúng các con ngủ ngon; chờ đến ngày mai, chúng ta sẽ hoặc là tiêu diệt quân địch, hoặc là cùng nhau ngã xuống". Cả Trung đoàn đồng thanh: "Dĩ nhiên, phải hy sinh hoặc là đánh bại địch thù". Nói xong, cả họ đều ngủ. Những người lính dũng cảm ngủ rất sâu. Những đối thoại này, và cả bản dài hơn của lời hiệu triệu Parchwitz là do ông F. A. Retzow - con của Trung tướng Retzow trong trận này - kể lại, dù người ta đã tranh cãi về ngày tháng của chúng. Theo Thomas Carlyle, quân Áo khi ấy họp một Hội đồng Chiến tranh, và ra quyết định bỏ vị trí phòng thủ: họ sẽ rút quân khỏi đại bản doanh kiên cố của mình, vượt sông Schweidnitz mà tiến quân về phía trước Lissa mà giao chiến với vị vua Phổ anh dũng. Nhiều võ tướng phản đối, trong số đó có cả Daun. Ông cho rằng: "Nói chung là không cần thiết phải tấn công, chúng ta có thể phòng thủ ở sông Schweidnitz, làm hỏng kế hoạch của hắn trước khi hắn có thể băng qua sông này". Bá tước Lucchesi d'Abarra (người Ý) lại bất đồng với Bá tước Daun: "Phòng thủ ư? Bị tấn công bởi một đội quân như vậy ấy? Thật là không xứng đáng tẹo nào với chúng ta cả! Chúng ta đã thắng cuộc; và gặt hái mọi vinh quang; hãy để chúng ta hoàn thiện nó. Đánh trận với hắn, vì hắn may mắn quyết định như thế; chúng ta sẽ kết liễu hắn, và kết liễu cuộc chiến trong niềm huy hoàng nữa"! Lucchesi cứ khăng khăn giữ vững quan điểm của mình, và số phận của trận đánh đã được xác định khi Karl đồng ý với ông. Mọi chiến binh Áo đều thấy rằng Karl Alexander đẹp lòng trước lời thuyết phục hùng hồn của Lucchesi. Karl chủ quan rằng quân Áo đã thắng trận Breslau, và do đó, đây là lần cuối cùng, và cũng là lần duy nhất mà người Áo quyết định tấn công người Phổ. Điều này khiến nhà vua Friedrich II Đại Đế rất hài lòng, và ông nói với em vợ là Vương công Franz xứ Brunswick: "Con cáo đã ra khỏi hang, Ta sẽ trừng phạt sự xấc láo của chúng"_. và được đánh giá là một "kiệt tác" trong quân sử nhân loại. Chiến thắng lịch sử này khiến lực lượng Quân đội Phổ trở thành một đoàn quân đáng mặt xưng hùng xưng bá giống như Đế quốc Thụy Điển hồi thế kỷ thứ XVII.]]

Với tầm trọng đại của mình Được coi là bậc Quân vương có lời lẽ hết sức hùng hồn, đanh thép và sắc bén, do đó ông không thể nào không nêu cho ba quân hiểu rõ về tầm quan trọng của trận đánh quyết định sắp tới. Theo tác giả Frederick William Longman, ông đã chọn lựa chính xác những ngôn từ chuẩn mực để kêu gọi quân sĩ chiến đấu chống giặc. Trong đó, Santa Crutz có thừa nhận: "...do những người lính luôn bị suy sụp tinh thần bởi lối nghĩ rằng nếu họ chết, họ sẽ để cho vợ con của mình phải khó sống đến mức phải đi làm ăn mày". Theo nhà sử học quân sự Christopher Duffy (người Anh), hẳn là điều này có truyền cảm sâu đậm đến lời hiệu triệu của vị Quốc vương nước Phổ. (lưu ý rằng ông đã nêu rõ rằng cuộc chiến đấu là vì gia đình, vì vợ con của các binh sĩ và ông sẽ chăm lo cho gia quyến của họ Với tài năng truyền cảm của ông, qua bài diễn văn được lắm người ca ngợi và trùng khớp với lý luận Von Clausewitz này Friedrich II Đại Đế đã khiến cho lòng nhiệt huyết, trung dũng của ba quân bừng bừng rực cháy, sẵn sàng hết mình vì bậc Đế vương cao quý của họ.

Bài diễn văn này được xem là một "danh ngôn" về tấn công. Không ít võ tướng đã rơi lệ khi nghe bài hiệu triệu Parchwitz do Friedrich II Đại Đế dành cho các tướng lĩnh và Sĩ quan Tham mưu của ông trước chiến thắng Leuthen này (tỷ dụ như dũng tướng Rohr đã vô cùng cảm động trước những lời cổ động của nhà vua Ngoài ra, theo nhận xét của nhà sử học William Fiddian Reddaway (người Anh), trong mấy giờ phút ấy, hình ảnh một ông vua Friedrich II Đại Đế đam mê văn hóa Pháp đã bị thay thế bằng hình ảnh của Người Cha Friedrich II Đại Đế của Nhân dân. Một điểm đáng lưu ý là lúc này những binh sĩ Phổ người ngoại quốc đều đã đào ngũ trong những lần bại trận trước kia, do đó quân Phổ chỉ còn có các binh sĩ bản xứ - họ mới nồng nàn trung quân ái quốc và tin tưởng mãnh liệt vào đức tin Kháng Cách như vậy. Trong khi ấy, mọi huấn lệnh ban đầu của ông trước trận huyết chiến đều đúng đắn, sáng suốt. Áng văn hùng hồn hiệu triệu ba quân tại Parchwitz của ông đã đi vào lịch sử Được coi là một áng văn hay, ngắn gọn và súc tích, và là một minh chứng cho tài năng lãnh đạo cũng như sự tận tụy đối với ba quân của nhà vua nước Phổ, bài diễn văn Parchwitz đã được dịch ra nhiều ngoại ngữ và thu hút được muôn triệu độc giả.

Không chỉ thể hiện niềm tin vào lòng yêu nước và can trường của các Sĩ quan dưới quyền ông, Friedrich II Đại Đế được đánh giá là đã miêu tả tình thế hiểm nghèo của ông qua bài văn nổi tiếng này bằng chứng cớ nhiều hơn là lập luận. Qua bài diễn văn trong "Hội đồng Chiến tranh" này, ta có thể hiểu rằng ông xem tình thế là bức bách, nhưng chưa đến mức phải tuyệt vọng. Có tài liệu khác đánh giá rằng bài diễn văn này của nhà vua Friedrich II Đại Đế cùng với lời hiệu triệu của Thống chế Phổ là Gebhard Leberecht von Blücher trên đường hành quân đến đánh trận Waterloo là những điển mẫu tuyệt vời, cho thấy: "Tính khách quan đúng mực sẽ hiệp đồng rất tốt với những lời kêu gọi trong biến cố để đạt được sự sắt đá của trái tim". Theo nhận định của tác giả Joachim von Kürenberg trong cuốn The Kaiser: a life of Wilhelm II, last Emperor of Germany, trước khi Wilhelm II lên ngôi Hoàng đế Đức (Kaiser), không vị vua nào của triều Hohenzollern thường đọc diễn văn trước toàn dân, trong đó Đại Tuyển hầu tước Friedrich Wilhelm I và Friedrich II Đại Đế cũng rất hiếm khi đọc diễn văn, ngoại trừ những khi cấp thiết như bài diễn văn Parchwitz mang đậm nét một lời kêu gọi giữa cơn lâm nguy. Đóng vai trò rất quan trọng đối với chiến thắng vang dội của ông trong trận chiến tại Leuthen, bài hiệu triệu này được xem là tương phản với thói quen của Friedrich II Đại Đế, do ông đã tuyên bố nó trước toàn quân. Trong niềm mến mộ "Ông già Fritz" nồng nhiệt như thế, những người lính Phổ đã hoàn tất việc báo ơn vua: họ tiêu diệt từng lớp quân Áo trong trận Leuthen đại thắng kia, làm nên một trong những chiến tích "lấy ít thắng nhiều" cho ông và tiếp nối đại thắng ở Roßbach vừa qua của ông. Nhà sử học Hoa Kỳ là Will Durant coi bài diễn văn hào hùng này như một điềm báo cho tinh thần thượng võ của Napoléon I về sau này. Chính sự tận tâm của ông, không ngại ốm yếu và mỏi mệt, mà đi hết qua ánh lửa này đến ánh lửa khác, hứa sẽ thăng quan tiến chức cho các công thần, khuyên chiến sĩ ủ ấm, v.v..., đã tạo nên huyền thoại về Ông già Fritz. Ông chỉ quyết chiến, quyết thắng, và bài diễn văn Parchwitz nổi tiếng của ông thực chất cũng chứng tỏ quyền thưởng phạt của ông như một bậc Đế vương (ông đã đề xuất những hình phạt cho các đơn vị Kỵ binh và Bộ binh bỏ chạy khỏi trận địa), cùng với sự vô cùng tuân phục của quan tướng đối với ông, sau khi nghe thấu những suy nghĩ của ông. Thành công này của ông là một nhân tố không thể thiếu được đối với "Phép lạ của Nhà Brandenburg" (còn gọi là Phép lạ của Nhà Hohenzollern), nói cách khác là thắng lợi của đất nước Phổ trong cuộc Chiến tranh Bảy Năm. "Đội Vệ binh thành Potsdam" (Potsdamer Wachtparade) như vậy là đã hết mình chiến đấu và hy sinh vì ông - là "Nhà hiền triết nơi Sans Souci", vị chủ tướng đại tài (Fedherren) của họ, sẵn sàng xông pha và chiến thắng được đại quân Áo hùng mạnh ở Leuthen hướng Đông Bắc con sông Oder và mãi mãi trung thành với ông mãi cho đến khi ông qua đời vào năm 1786. Sau này, Tiến sĩ Kurt Hesse trong thời kỳ Đức Quốc xã đã viết cuốn sách nhỏ "Achtzig Millionen Kämpfen" (tạm dịch là Tám triệu người chiến đấu) trong đó có 6 trang trích dẫn bài diễn văn của nhà vua Friedrich II Đại Đế trước trận chiến ở Leuthen (1757), chung hàng thẳng lối với các bài diễn văn của Lãnh tụ Adolf Hitler tại Danzig vào năm 1939. Tuy những bài diễn văn này kỳ thực là có rất ít điểm tương đồng với nhau, Nhà nước phát xít Đức luôn tuyên truyền không ngưng nghỉ để coi Hitler như là một người "kế thừa" của vị vua nước Phổ năm xưa, và cũng bôi nhọ "huyền thoại Friedrich" sao cho phù hợp với lý tưởng của Hitler. Điều đấy chứng tỏ phát xít Đức luôn coi mình là kẻ kế tục của truyền thống Phổ thuở trước.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Diễn văn Parchwitz**, còn gọi là **Diễn văn Parschwitz** là bài hiệu triệu ba quân do nhà vua Friedrich II Đại Đế nước Phổ thực hiện vào cuối năm 1757 tại Parchwitz (Schlesien từ xứ