✨Trịnh Tạc

Trịnh Tạc

Tây Định Vương Trịnh Tạc (chữ Hán: 西定王鄭柞, 11 tháng 4 năm 1606 – 24 tháng 9 năm 1682), thụy hiệu Hoằng Tổ Dương vương (弘祖陽王), là vị chúa Trịnh thứ 3 thời Lê Trung hưng, cai trị từ năm 1657 đến 1682. Trịnh Tạc là chúa Trịnh duy nhất chứng kiến cả bảy cuộc xung đột Trịnh-Nguyễn thế kỷ 17 và có công chấm dứt việc cát cứ của họ Mạc ở Cao Bằng, đưa miền Bắc nước Đại Việt bước vào thời thịnh trị.

Trịnh Tạc là con trai thứ 4 của Văn Tổ Nghị vương Trịnh Tráng, nhưng lại được quyền kế tập ngôi vị do người anh của ông mất sớm. Năm 1657, ông chính thức lên kế vị. Trong thời gian cai trị của ông, quân Trịnh đã giành được một số thắng lợi quân sự: dẹp yên thế lực chúa Bầu họ Vũ ở Tuyên Quang và họ Mạc ở Cao Bằng, giành lại vùng đất phía bắc sông Gianh từ tay chúa Nguyễn. Từ sau năm 1672, chiến tranh Trịnh - Nguyễn chấm dứt, Trịnh Tạc bắt tay vào việc xây dựng đất nước, thực hiện cải cách trên lĩnh vực chính trị - kinh tế và đạt một số thành tựu, đưa họ Trịnh vào thời kì đỉnh cao thịnh trị. Ông qua đời năm 1682, ngôi thế tử được truyền cho con trai trưởng là Chiêu Tổ Khang vương Trịnh Căn.

Thân thế

Trịnh Tạc là con thứ 4 của Thanh vương Trịnh Tráng, mẹ là Trần Thị Ngọc Đài, con gái Khải quận công, người làng Đồng Đợi, huyện Thiên Bản, Nam Định. Ông chào đời ngày 11 tháng 4 năm 1606 (tức ngày 5 tháng 3 ÂL). Xét về thế thứ, ông là con trai của Văn Tổ Nghị vương Trịnh Tráng, trên ông là Sùng quận công Trịnh Kiều.

Thời trẻ

Năm 1614, Trịnh Tạc lên 9 tuổi, được ông nội là Thành Tổ Triết vương Trịnh Tùng phong làm Tây quận công.

Vương thế tử

Mùa thu năm 1649, vua Lê Chân Tông mất không có con nối. Chúa ủy quyền cho Trịnh Tạc hội họp các quan cùng dâng biểu xin Thái Thượng hoàng Lê Thần Tông lại lên ngôi lần thứ hai. Trước tình hình đó, Trịnh Tạc được điều vào Nghệ An làm Thống lĩnh, chỉ huy các đạo quân ở đây chống Nguyễn, cùng Đường quận công Đào Quang Nhiêu, Bồi tụng Phan Hưng Tạo cùng đi theo; đóng quân ở An Trường; về cánh quân thủy có Hữu thị lang Dương Hổ và Lũng quận công Vũ Văn Thiêm. Nguyễn Hữu Tiến thấy viện binh của Trịnh Tạc sợ hãi không dám đối địch, phải lui về giữ Hà Trung (thủ phủ Nghệ An lúc đó). Tuy nhiên đúng lúc đó họ Mạc ở Cao Bằng lại quấy rối, Trịnh Tạc phải rút về bắc, để lại các tướng dưới quyền cầm cự quân Nguyễn.

Sang năm 1656, quân Nguyễn phản công, Đào Quang Nhiêu bại trận phải lui về giữ An Trường. Trịnh Tráng theo lời tiến cử, sai con út là Ninh quận công Trịnh Toàn ra thay thế.

Trịnh Tạc sai sứ đến trách cứ Trịnh Toàn về việc cha chết mà không về để tang, rồi triệu về kinh. Thủ hạ của Trịnh Toàn lo sợ sang hàng quân Nguyễn. Trịnh Toàn lo sợ, đến hỏi ý của Trịnh Căn. Trịnh Căn dụ Trịnh Toàn về kinh. Toàn nghe theo; khi về đến nơi Trịnh Tạc cùng tay chân thêu dệt cho Trịnh Toàn tội mưu phản, rồi tống giam vào ngục.

Sau một số trận giằng co, quân Nguyễn cũng phải hưu chiến vì không đủ lực lượng tổng tấn công ra bắc. Nguyễn Hữu Dật sai người ra bắc câu kết với các lực lượng phản Trịnh như Phạm Hữu Lễ ở Sơn Tây, họ Mạc ở Cao Bằng, họ Vũ ở Tuyên Quang (Chúa Bầu). Tuy nhiên hai bên dùng dằng, ỷ lại vào nhau. Trịnh Tạc phát giác việc Hữu Lễ mưu phản nhưng không cầm quân chinh phạt vì làm như vậy sẽ làm kinh động vua Lê và dân chúng quanh kinh kỳ, tạo thời cơ cho các lực lượng Mạc, Vũ và Nguyễn tấn công sẽ càng nguy hiểm hơn. Ông dùng mưu dụ và giết chết Phạm Hữu Lễ. Các cánh Vũ, Mạc vốn có toan tính riêng chứ không thực lòng muốn giúp Nguyễn, chỉ trông chờ quân Nguyễn đánh mạnh ra bắc mới hành động. Vì thế khi Hữu Lễ bị trừ rồi các cánh Mạc, Vũ không dám cử động, quân Nguyễn cũng hết trông đợi nội ứng.

Trịnh Tạc quyết định tăng thêm quân cho chiến trường phía nam. Nhờ có viện binh tiếp sức, đến cuối năm 1660, Trịnh Căn đại thắng quân Nguyễn, giành lại bảy huyện phía nam sông Lam và Bắc Bố Chính như cũ. Mùa đông năm tiếp theo, 1661, Trịnh Tạc kèm Lê Thần Tông đi Phù Lộ thuộc Bắc Bố Chính, chuẩn bị tấn công quân Nguyễn. Lần này ông vẫn để Trịnh Căn làm Nguyên soái, Đào Quang Nhiêu làm Thống suất, ngoài ra còn có Lê Thì Hiến, Hoàng Nghĩa Giao làm đốc suất.

Năm 1667, Trịnh Tạc dẫn quân đánh Cao Bằng, cử Trịnh Căn làm tổng chỉ huy cùng các tướng Đinh Văn Tả, Lê Thì Hiến, Lê Sĩ Triệt, Hồ Sĩ Dương tiến đánh Cao Bằng. Kính Vũ bỏ trốn sang nhà Thanh. Tháng 2 ÂL năm 1668, Trịnh Tạc rút quân về Thăng Long, để Đinh Văn Tả ở lại trấn giữ Thất Tuyên, giết các thủ lĩnh họ Mạc, còn lại đều tha.

Mạc Kính Vũ lại sang nương nhờ nhà Thanh ở Trung Quốc. Năm 1669, sứ nhà Thanh sang, ép vua Lê phải trả Cao Bằng cho họ Mạc. Các quan Đại Việt ra sức tranh nghị nhưng không được, giằng co nhau đến hơn 40 ngày. Trịnh Tạc sau đó nói rằng: "Thờ nước lớn phải cung kính theo mệnh lệnh", rồi tâu nhà vua hãy gượng mà làm theo. Vì thế họ Mạc lại được trở về Cao Bằng làm dân thường. Không lâu sau nhà vua mất, thái tử nối ngôi, tức là Lê Huyền Tông. Về quan chế, trên 6 quan thượng thư giữ 6 Bộ có đặt thêm quan Tham tụng và quan Bồi tụng coi việc chính trị. Năm 1664, chúa đặt thêm Chưởng phủ sự và Thự phủ sự để coi việc binh chính. Bên cạnh triều đình của nhà vua là phủ liêu, nắm hết quyền lực trong nước. Năm 1678, quy định lại lệ thi Hương, đặt trường thi ở nhiều vùng trong nước.

Năm 1682, Tham chính Thanh Hoa Nguyễn Văn Đương dâng sớ đàn hặc Tham tụng Nguyễn Mậu Tài. Tuy Mậu Tài chỉ phạm lỗi nhỏ, nhưng Trịnh Tạc muốn tỏ ra là người biết nghe lời nói thẳng, bèn bãi chức của ông ta, giáng làm Tả thị lang bộ Hộ, cất nhắc Văn Đương làm Hữu thị lang bộ Binh giữ việc Bồi tụng.

Tháng 8 năm đó (tức ngày 24 tháng 9), Trịnh Tạc qua đời, Định Nam Vương Trịnh Cǎn lên nối ngôi. Trịnh Tạc nắm quyền 25 nǎm, trải qua 4 đời vua: Lê Thần Tông, Lê Huyền Tông, Lê Gia Tông và Lê Hy Tông, hưởng thọ 77 tuổi, được tôn là Hoằng Tổ (弘祖), thụy là Thông Hiến (聰憲), tước Dương vương (陽王), lăng ở sách Vạn Lại.

Gia đình

Chính thất

  • Chính phi Trịnh Thị Ngọc Lung, tên thụy là Từ Hậu, người làng Sài Sơn (huyện Vĩnh Phúc) Thanh Hóa. Con gái ông Thái tể Quảng quận công Trịnh Vĩnh Phúc, mẹ là Nguyễn thị, con gái của Thái tể Quỳnh Quốc công Nguyễn Mậu Nghị, người ở huyện Lôi Dương. Bà là người đôn hậu, chăm sóc Lê Gia Tông cùng Chiêu Tổ Trịnh Căn hết sức chu đáo từ nhỏ, được kính phong làm Quốc Thái mẫu. Khi Gia Tông băng, đến thăm táng, khóc rất thương tâm như chính mình mất con vậy. Mất ngày 5 tháng 9, thọ 94 tuổi. Tôn lăng ở làng Nguyệt Áng (huyện Lôi Dương).

Thứ thất

  • Thái phi Vũ Thị Ngọc Lễ, tên thụy là Từ Tá, người xã Thạch Lỗi (huyện Cẩm Giàng) Hải Dương, con gái ông Hồng Nhân Công. Sinh ra Chiêu Tổ Khang vương Trịnh Căn. Mất ngày 22 tháng 7. Tôn lăng ở sứ Mạnh Sơn.
  • Tây vương phi Vũ Thị Ngọc Tấn, người làng La Miên, huyện Quỳnh Côi, trấn Sơn Nam Hạ xưa, nay là thôn La Vân, xã Quỳnh Hồng, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.
  • Chiêu nghi Vũ Thị Ngọc Huấn (1604 - 1686), người Minh Cảo, Từ Liêm, con nuôi của Thượng tướng quân, Tham đốc Đồng tri Vũ Tất Phù. Sinh quận chúa Ngọc Cang
  • Chiêu Nghi Mai Thị Ngọc Tiến
  • Trần Thị Thoi hay Bột, gia tặng Minh Châu công chúa, hiệu là Riệu Ngọc, thụy Đoan Trang, mất ngày 28 tháng 2, táng tại huyện An Sơn, xã Thụy Khuê.
  • Chiêu nghi Đặng Thị Cúc (1610 - 1668), thụy Diệu Hộ, người làng Ổi Lỗi, xã Hoa Xá, huyện Gia Phúc (nay là thôn Phương Khê, xã Hồng Hưng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương). Cha là Tả hiệu điểm Văn Xá hầu Đặng Quang Tiến, mẹ là Bùi Thị Tính.
  • Nội thị cung tần Lương Thị Ngọc Vinh, hiệu Thái Chân, tên theo Phật là Tĩnh Huệ Tiên Cung Khánh Quang Bồ tát. Bà người xã An Hòa huyện Ý Yên phủ Nghĩa Hưng. Xuất thân trong gia đình có nghề gia truyền ca hát, khi trở thành cung tần của Tây Định vương Trịnh Tạc bà sinh cho Vương một quận chúa.

Con trai

  • Mậu quận công Trịnh Đức. Không có con trai nên cho cháu ngoại là Trịnh Ức phụng tự
  • Thiệu công Trịnh Úc.
  • Thiếu bảo Đường quận công Trịnh Lương. Không có con trai, có con gái lấy Điền quận công Đặng Đình Sinh, do cháu ngoại là Giai Thọ hầu phụng tự.
  • Chiêu Tổ Khang Vương Trịnh Căn (1633 - 1709. Mẹ là Thái phi Vũ Thị Ngọc Lễ.
  • Lý Trung công gia phong Thái vương Trịnh Đống (? - 1681).
  • Điện nghĩa công Trịnh Ốc (? - 1681).
  • Đại tư không Phái quận công Trịnh Thâu (? - 1700).
  • Đề đốc Diệu quận công Trịnh Ký.
  • Thiếu bảo Thiều quận công Trịnh Pháp. Ông thích chơi nghề Giát, thường chế đồ giát vàng, giát bạc để chơi. Thời bấy giờ gọi ông là Thợ giát.
  • Quốc lão Tuyên Trung công tiến phong Tuyên Mậu Công Trịnh Quán.
  • Liêu Quân công Trịnh Phức phạm tội ác nghịch, con cháu phải cải sang họ mẹ.
  • Trà Quân công Trịnh Cầm phạm tội ác nghịch, con cháu phải cải sang họ mẹ.

Con gái

  • Trịnh Thị Ngọc Thuyên (1626 - 1707), trưởng nữ. Mẹ là Thái phi Vũ Thị Ngọc Lễ. Là chị cùng mẹ với Khang vương Trịnh Căn. Tôn phong Ôn Cung Đoan Tĩnh Thái trưởng Quận thượng chúa, thụy là Từ Đức. Lấy Yên quận công Đặng Tiến Thự (1631 - 1698).
  • Trịnh Thị Ngọc (? - 1648). Mẹ là Thái phi Vũ Thị Ngọc Lễ, chị cùng mẹ với Khang vương Trịnh Căn. Lấy Yên quận công Đặng Tiến Thự. Sau khi bà mất, Chúa lại gả chị bà là bà Ngọc Thuyên cho ông Thự làm Kế thất.
  • Trịnh Thị Ngọc Án, mẹ là Chiêu nghi Vũ Thị Ngọc Huấn.
  • Trịnh Thị Ngọc Cang, mẹ là Chiêu nghi Vũ Thị Ngọc Huấn.
  • Trịnh Thị Ngọc Áng, Hoàng hậu của Lê Hy Tông.
  • Trịnh Thị Ngọc Sanh, gả cho Nguyễn Đức Trung
👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tây Định Vương Trịnh Tạc** (chữ Hán: 西定王鄭柞, 11 tháng 4 năm 1606 – 24 tháng 9 năm 1682), thụy hiệu **Hoằng Tổ Dương vương** (弘祖陽王), là vị chúa Trịnh thứ 3 thời Lê Trung
**Trịnh Căn** (chữ Hán: 鄭根, 18 tháng 7 năm 1633 Lúc nhỏ, Trịnh Căn chưa được xem là một ứng cử viên cho việc kế thừa ngôi Chúa, bởi bác cả của ông là Sùng
**Trịnh Thị Ngọc Lung** (chữ Hán: 鄭氏玉瓏, 1612-1706), là một vương phi của chúa Trịnh. Bà là chính phi của Tây định Vương Trịnh Tạc. Bà là mẹ nuôi của Lê Gia Tông và Định
**Thanh vương** **Trịnh Tráng** (chữ Hán: 鄭梉, 6 tháng 8 năm 1577 – 28 tháng 5 năm 1657), thụy hiệu **Văn Tổ Nghị vương** (文祖誼王), là chúa Trịnh thứ 2 thời Lê Trung hưng chính
**Chúa Trịnh** (chữ Nôm: 主鄭, chữ Hán: 鄭王 / **Trịnh vương**; 1545 – 1787) là một vương tộc phong kiến kiểm soát quyền lực lãnh thổ Đàng Ngoài suốt thời Lê Trung hưng. Về danh
**Trịnh** là một họ của người thuộc vùng Văn hóa Đông Á. Họ này tương đối phổ biến ở Việt Nam và Trung Quốc (giản thể: 郑, Bính âm: Zhèng, Wade-Giles: Cheng) và Triều Tiên
**Trịnh Tùng** (chữ Hán: 鄭松, 19 tháng 12 năm 1550 – 17 tháng 7 năm 1623), thụy hiệu **Thành Tổ Triết Vương** (成祖哲王), là vị chúa chính thức đầu tiên của dòng họ Trịnh dưới
**Trịnh Doanh** (chữ Hán: 鄭楹, 4 tháng 12 năm 1720 – 12 tháng 5 năm 1767), thụy hiệu **Nghị Tổ Ân vương** (毅祖恩王), là vị chúa Trịnh thứ 7 thời Lê Trung hưng trong lịch
**Trịnh Vịnh** (chữ Hán: 鄭栐, 1654 - 1683) là vương thế tử của chúa Trịnh Căn đời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, tuy nhiên ông qua đời trước khi được truyền ngôi.
**Trịnh – Nguyễn phân tranh** (chữ Hán: 鄭阮紛爭) là thời kỳ phân chia lãnh thổ giữa chế độ "vua Lê chúa Trịnh" ở phía Bắc sông Gianh (Đàng Ngoài) và chúa Nguyễn cai trị ở
Nhân dịp CLB Tuổi Trẻ họ Đặng dòng Lương Xá, Chúc Sơn, mời Ban Thanh niên Trịnh tộc dự lễ niệm 2 năm thành lập, Ban Thanh niên Trịnh tộc Việt Nam đăng bài viết
**Trịnh Bính** (30 tháng 6 năm 1670 - 3 tháng 2 năm 1703) là một thế tử trong phủ chúa Trịnh dưới thời Lê Trung Hưng trong lịch sử Việt Nam, tuy nhiên đã qua
**Sùng Nghĩa vương Trịnh Kiều** (崇義王鄭橋, 1601 - 1642) là Thế tử của phủ chúa Trịnh dưới thời nhà Lê Trung Hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Trịnh Kiều là con trai
**Trịnh Thiếu Thu** (sinh ngày 24 tháng 2 năm 1947) là nam diễn viên, ca sĩ Hồng Kông. ## Trước khi tham gia điện ảnh thumb|Trịnh Thiếu Thu năm 1995. Trịnh Thiếu Thu từ nhỏ
**Trịnh Thị Ngọc Trúc** (1595 - 1660, chữ Hán: 鄭氏玉竹) còn được biết đến là **Lê Thần Tông Trịnh hoàng hậu** (黎神宗鄭皇后), là một Hoàng hậu của nhà Lê trung hưng, vợ của Lê Thần
**Trịnh Văn Chiến** (sinh ngày 15 tháng 1 năm 1960) là một quan chức Việt Nam. Ông nguyên là Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Thanh Hóa nhiệm kì 2011-2016, 2016-2021, nguyên Chủ tịch
**Oanh tạc Singapore (1944–45)** là một chiến dịch quân sự do các lực lượng hàng không của Đồng Minh tiến hành trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Các đơn vị oanh tạc cơ tầm
**Đặng Đình Lân** (9 tháng 4 năm 1667 – 22 tháng 7 năm 1731) là một trọng thần thời Lê Trịnh từng làm đến chức Đại tư mã, được ban tước Quận công và theo
**Làng tạc tượng Bảo Hà** là làng nghề điêu khắc, sơn mài truyền thống đã tồn tại trên 500 năm tại xã Đồng Minh, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Làng nghề được duy
**Xuyên tạc lịch sử** (_Historical negationism_) hay còn gọi là **bóp méo lịch sử** (_Historical denialism_) là hành vi nỗ lực làm thay đổi và tác động đến quá khứ qua đó nhằm thực hiện
**Vụ oanh tạc Căn cứ không quân Tân Sơn Nhứt** xảy ra vào ngày 28 tháng 4 năm 1975, chỉ hai ngày trước khi Sài Gòn sụp đổ. Vụ ném bom do Phi đội Quyết
Giới Thiệu Chung: Với Thảo dược Cai thuốc lá Thanh Nghị sẽ giúp bạn cai thuốc lá nhanh chóng, đơn giản và dễ dàng hơn. Giảm các cảm giác bức bối, khó chịu trong quá
phải|thumb|[[Lựu pháo D-20 152 mm trong Chiến tranh Iran-Iraq.]] **Oanh tạc** hay **oanh kích** () là hoạt động tấn công bằng hỏa lực của pháo binh (**pháo kích**) hoặc bằng bom của máy bay (**không
nhỏ|Thiếu nữ mặc đồ trắng thường được xem là biểu hiện cho trinh tiết **Trinh tiết** theo là một khái niệm chỉ một người chưa từng quan hệ tình dục. **Trinh nữ** là từ để
**Trịnh Khắc Phục** (chữ Hán: 鄭克復; 1400 - 26 tháng 7, 1451), còn gọi là **Lê Khắc Phục**, là một khai quốc công thần nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam, có công giúp
thumb|right|Con tàu _Beagle_ neo đậu tại [[Tierra del Fuego vào năm 1832; tác phẩm của phác họa gia Conrad Martens.]] **Hành trình thứ hai của tàu HMS _Beagle**_ (ngày 27 tháng 12 năm 1831 -
thumb|Sứ thần triều cống và chức sắc [[Chăm pa, Lan Xang, Ayutthaya, Taungoo, Demak, Khơme, Lan Na, Ba Tư, Lưu Cầu,... yết kiến triều đình nhà Lê ở Thanh Hóa (tranh thế kỷ 16)]] **Thương
**Hương Hải** (1628 - 1715), tục gọi là **Tổ Cầu**, là một thiền sư Việt Nam ở thời Hậu Lê. Sư và thiền sư Chân Nguyên là hai người đi đầu trong công cuộc phục
Chương trình aurora được biết đến là một trương trình dòng máy bay bí mật của nước mỹ đã tồn tại suốt 2 thập kỷ qua từ những năm 90 trở đi nhiều giả thuyết
**Trận cảng Eo 1643** là trận chiến diễn ra ngày 7 tháng 7 năm 1643 giữa đội thuyền của Công ty Đông Ấn Hà Lan (_Vereenigde Oost-Indische Compagnie_) với Hải quân chúa Nguyễn trong cuộc
**Trình Kỳ** (chữ Hán: 程畿, ? – 222), tên tự là **Quý Nhiên**, người huyện Lãng Trung, quận Ba Tây , là quan nhà Thục Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ##
Cây mít là loại cây ăn quả quen thuộc với người dân Việt Nam, gắn bó với đời sống văn hóa và ẩm thực qua nhiều thế hệ. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nguồn
**Trần Thị Ngọc Đài** (陳氏玉台, 1577 - 1669), thụy **Từ Huyên** (慈萱), là một phi tần của Thanh Đô Vương Trịnh Tráng, mẹ của Tây Định Vương Trịnh Tạc. Bà là người làng Đồng Đợi,
**Đinh Văn Tả** (chữ Hán: 丁文左; 1602-1685) là một tướng lĩnh Việt Nam dưới thời Lê trung hưng. Ông thuộc dòng dõi Đinh Đàm, tướng tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, người làng Hàm Giang,
**Tôn Thất Hiệp** (chữ Hán: 尊室協; 1653-1675) là một hoàng tử, con của chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần. Ông từng là Nguyên soái thống lĩnh quân Đàng Trong đánh nhau với quân Trịnh vào năm
Đền Vua Đinh nhìn từ cổng đền Tế hội đền Vua Đinh Đền Vua Đinh nhìn từ Mã Yên Sơn **Đền thờ Đinh Tiên Hoàng** là một di tích quan trọng thuộc vùng bảo vệ
**Petra** (tiếng Hy Lạp: πέτρα, có nghĩa là "đá"; tiếng Ả Rập: البتراء _Al-Butrā_) là một khu vực khảo cổ học ở phía Tây Nam Jordan, nằm trên sườn núi Hor, trong một lòng chảo
**Vũ Duy Chí** (1604-1678) là quan nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp Vũ Duy Chí là người làng Mộ Trạch, huyện Đường An (nay là huyện Bình Giang, Hải
**Dòng họ Đặng ở Lương Xá** là một dòng họ có lịch sử lâu đời ở Việt Nam, định cư ở thôn Lương Xá thuộc tỉnh Hà Tây từ khoảng thế kỷ 15. ## Lịch
**Chùa Tây Phương** (tên chữ là **Sùng Phúc tự** 崇福寺) là một ngôi chùa được xây trên đỉnh đồi Câu Lâu , xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội. ## Lịch sử
**Nhà thờ chính tòa Đức Bà Sài Gòn** (hay **Vương cung thánh đường chính tòa Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội**, tiếng Anh: _Immaculate Conception Cathedral Basilica_, tiếng Pháp: _Cathédrale Notre-Dame de Saïgon_), thường được
**Lê Huyền Tông** (chữ Hán: 黎玄宗 1654 – 16 tháng 11 năm 1671) tên thật là **Lê Duy Vũ** (黎維禑), tên khác là **Lê Duy Hi** (黎維禧), là vị Hoàng đế thứ tám của nhà
**Lê Gia Tông** (chữ Hán: 黎嘉宗 1661 – 27 tháng 4 năm 1675), tên húy là **Lê Duy Cối** (黎維禬, 黎維𥘺) là vị Hoàng đế thứ 9 của nhà Lê Trung hưng và thứ 20
Tranh vẽ cảnh vua Lê thiết triều của Samuel Baron - thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVII. **Hành chính Đàng Ngoài thời Lê trung hưng**, hay còn gọi là **hành chính Đại Việt thời
**_Đại Việt sử ký toàn thư_** (), đôi khi gọi tắt là **_Toàn thư_**, là bộ quốc sử viết bằng Hán văn của Việt Nam, viết theo thể biên niên, ghi chép lịch sử Việt
**Lê Thần Tông** (chữ Hán: 黎神宗) (1607 – 2 tháng 11 năm 1662) tên húy là **Lê Duy Kỳ** (黎維祺), là vị hoàng đế thứ sáu của nhà Lê Trung hưng và thứ 17 của
Dưới đây là danh sách ghi nhận những cuộc nhường ngôi trong lịch sử Việt Nam: ## Tự nguyện nhường ngôi ### Nhường ngôi nhưng vẫn giữ quyền nhiếp chính #Không rõ năm bao nhiêu
**Nguyễn Hy Quang** (1634-1692), húy **Vẹ**, tự **Hy Quang**, là một nhà giáo, đại thần nhà Lê trung hưng đã phụ đạo cho Thái phó Lương Mục Công Trịnh Vịnh, đích tôn của chúa Trịnh
**Lê Thì Hiến** (chữ Hán: 黎時憲, 1609-1674) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp ### Mặt trận phía nam Lê Thì Hiến người làng Phú Hào huyện Lôi
**Tượng Nữ thần Tự do** (; tên đầy đủ là **Nữ thần Tự do Soi sáng Thế giới**; ; ) là một tác phẩm điêu khắc bằng đồng theo phong cách tân cổ điển với