✨Trịnh Tạc
Tây Định Vương Trịnh Tạc (chữ Hán: 西定王鄭柞, 11 tháng 4 năm 1606 – 24 tháng 9 năm 1682), thụy hiệu Hoằng Tổ Dương vương (弘祖陽王), là vị chúa Trịnh thứ 3 thời Lê Trung hưng, cai trị từ năm 1657 đến 1682. Trịnh Tạc là chúa Trịnh duy nhất chứng kiến cả bảy cuộc xung đột Trịnh-Nguyễn thế kỷ 17 và có công chấm dứt việc cát cứ của họ Mạc ở Cao Bằng, đưa miền Bắc nước Đại Việt bước vào thời thịnh trị.
Trịnh Tạc là con trai thứ 4 của Văn Tổ Nghị vương Trịnh Tráng, nhưng lại được quyền kế tập ngôi vị do người anh của ông mất sớm. Năm 1657, ông chính thức lên kế vị. Trong thời gian cai trị của ông, quân Trịnh đã giành được một số thắng lợi quân sự: dẹp yên thế lực chúa Bầu họ Vũ ở Tuyên Quang và họ Mạc ở Cao Bằng, giành lại vùng đất phía bắc sông Gianh từ tay chúa Nguyễn. Từ sau năm 1672, chiến tranh Trịnh - Nguyễn chấm dứt, Trịnh Tạc bắt tay vào việc xây dựng đất nước, thực hiện cải cách trên lĩnh vực chính trị - kinh tế và đạt một số thành tựu, đưa họ Trịnh vào thời kì đỉnh cao thịnh trị. Ông qua đời năm 1682, ngôi thế tử được truyền cho con trai trưởng là Chiêu Tổ Khang vương Trịnh Căn.
Thân thế
Trịnh Tạc là con thứ 4 của Thanh vương Trịnh Tráng, mẹ là Trần Thị Ngọc Đài, con gái Khải quận công, người làng Đồng Đợi, huyện Thiên Bản, Nam Định. Ông chào đời ngày 11 tháng 4 năm 1606 (tức ngày 5 tháng 3 ÂL). Xét về thế thứ, ông là con trai của Văn Tổ Nghị vương Trịnh Tráng, trên ông là Sùng quận công Trịnh Kiều.
Thời trẻ
Năm 1614, Trịnh Tạc lên 9 tuổi, được ông nội là Thành Tổ Triết vương Trịnh Tùng phong làm Tây quận công.
Vương thế tử
Mùa thu năm 1649, vua Lê Chân Tông mất không có con nối. Chúa ủy quyền cho Trịnh Tạc hội họp các quan cùng dâng biểu xin Thái Thượng hoàng Lê Thần Tông lại lên ngôi lần thứ hai. Trước tình hình đó, Trịnh Tạc được điều vào Nghệ An làm Thống lĩnh, chỉ huy các đạo quân ở đây chống Nguyễn, cùng Đường quận công Đào Quang Nhiêu, Bồi tụng Phan Hưng Tạo cùng đi theo; đóng quân ở An Trường; về cánh quân thủy có Hữu thị lang Dương Hổ và Lũng quận công Vũ Văn Thiêm. Nguyễn Hữu Tiến thấy viện binh của Trịnh Tạc sợ hãi không dám đối địch, phải lui về giữ Hà Trung (thủ phủ Nghệ An lúc đó). Tuy nhiên đúng lúc đó họ Mạc ở Cao Bằng lại quấy rối, Trịnh Tạc phải rút về bắc, để lại các tướng dưới quyền cầm cự quân Nguyễn.
Sang năm 1656, quân Nguyễn phản công, Đào Quang Nhiêu bại trận phải lui về giữ An Trường. Trịnh Tráng theo lời tiến cử, sai con út là Ninh quận công Trịnh Toàn ra thay thế.
Trịnh Tạc sai sứ đến trách cứ Trịnh Toàn về việc cha chết mà không về để tang, rồi triệu về kinh. Thủ hạ của Trịnh Toàn lo sợ sang hàng quân Nguyễn. Trịnh Toàn lo sợ, đến hỏi ý của Trịnh Căn. Trịnh Căn dụ Trịnh Toàn về kinh. Toàn nghe theo; khi về đến nơi Trịnh Tạc cùng tay chân thêu dệt cho Trịnh Toàn tội mưu phản, rồi tống giam vào ngục.
Sau một số trận giằng co, quân Nguyễn cũng phải hưu chiến vì không đủ lực lượng tổng tấn công ra bắc. Nguyễn Hữu Dật sai người ra bắc câu kết với các lực lượng phản Trịnh như Phạm Hữu Lễ ở Sơn Tây, họ Mạc ở Cao Bằng, họ Vũ ở Tuyên Quang (Chúa Bầu). Tuy nhiên hai bên dùng dằng, ỷ lại vào nhau. Trịnh Tạc phát giác việc Hữu Lễ mưu phản nhưng không cầm quân chinh phạt vì làm như vậy sẽ làm kinh động vua Lê và dân chúng quanh kinh kỳ, tạo thời cơ cho các lực lượng Mạc, Vũ và Nguyễn tấn công sẽ càng nguy hiểm hơn. Ông dùng mưu dụ và giết chết Phạm Hữu Lễ. Các cánh Vũ, Mạc vốn có toan tính riêng chứ không thực lòng muốn giúp Nguyễn, chỉ trông chờ quân Nguyễn đánh mạnh ra bắc mới hành động. Vì thế khi Hữu Lễ bị trừ rồi các cánh Mạc, Vũ không dám cử động, quân Nguyễn cũng hết trông đợi nội ứng.
Trịnh Tạc quyết định tăng thêm quân cho chiến trường phía nam. Nhờ có viện binh tiếp sức, đến cuối năm 1660, Trịnh Căn đại thắng quân Nguyễn, giành lại bảy huyện phía nam sông Lam và Bắc Bố Chính như cũ. Mùa đông năm tiếp theo, 1661, Trịnh Tạc kèm Lê Thần Tông đi Phù Lộ thuộc Bắc Bố Chính, chuẩn bị tấn công quân Nguyễn. Lần này ông vẫn để Trịnh Căn làm Nguyên soái, Đào Quang Nhiêu làm Thống suất, ngoài ra còn có Lê Thì Hiến, Hoàng Nghĩa Giao làm đốc suất.
Năm 1667, Trịnh Tạc dẫn quân đánh Cao Bằng, cử Trịnh Căn làm tổng chỉ huy cùng các tướng Đinh Văn Tả, Lê Thì Hiến, Lê Sĩ Triệt, Hồ Sĩ Dương tiến đánh Cao Bằng. Kính Vũ bỏ trốn sang nhà Thanh. Tháng 2 ÂL năm 1668, Trịnh Tạc rút quân về Thăng Long, để Đinh Văn Tả ở lại trấn giữ Thất Tuyên, giết các thủ lĩnh họ Mạc, còn lại đều tha.
Mạc Kính Vũ lại sang nương nhờ nhà Thanh ở Trung Quốc. Năm 1669, sứ nhà Thanh sang, ép vua Lê phải trả Cao Bằng cho họ Mạc. Các quan Đại Việt ra sức tranh nghị nhưng không được, giằng co nhau đến hơn 40 ngày. Trịnh Tạc sau đó nói rằng: "Thờ nước lớn phải cung kính theo mệnh lệnh", rồi tâu nhà vua hãy gượng mà làm theo. Vì thế họ Mạc lại được trở về Cao Bằng làm dân thường. Không lâu sau nhà vua mất, thái tử nối ngôi, tức là Lê Huyền Tông. Về quan chế, trên 6 quan thượng thư giữ 6 Bộ có đặt thêm quan Tham tụng và quan Bồi tụng coi việc chính trị. Năm 1664, chúa đặt thêm Chưởng phủ sự và Thự phủ sự để coi việc binh chính. Bên cạnh triều đình của nhà vua là phủ liêu, nắm hết quyền lực trong nước. Năm 1678, quy định lại lệ thi Hương, đặt trường thi ở nhiều vùng trong nước.
Năm 1682, Tham chính Thanh Hoa Nguyễn Văn Đương dâng sớ đàn hặc Tham tụng Nguyễn Mậu Tài. Tuy Mậu Tài chỉ phạm lỗi nhỏ, nhưng Trịnh Tạc muốn tỏ ra là người biết nghe lời nói thẳng, bèn bãi chức của ông ta, giáng làm Tả thị lang bộ Hộ, cất nhắc Văn Đương làm Hữu thị lang bộ Binh giữ việc Bồi tụng.
Tháng 8 năm đó (tức ngày 24 tháng 9), Trịnh Tạc qua đời, Định Nam Vương Trịnh Cǎn lên nối ngôi. Trịnh Tạc nắm quyền 25 nǎm, trải qua 4 đời vua: Lê Thần Tông, Lê Huyền Tông, Lê Gia Tông và Lê Hy Tông, hưởng thọ 77 tuổi, được tôn là Hoằng Tổ (弘祖), thụy là Thông Hiến (聰憲), tước Dương vương (陽王), lăng ở sách Vạn Lại.
Gia đình
Chính thất
- Chính phi Trịnh Thị Ngọc Lung, tên thụy là Từ Hậu, người làng Sài Sơn (huyện Vĩnh Phúc) Thanh Hóa. Con gái ông Thái tể Quảng quận công Trịnh Vĩnh Phúc, mẹ là Nguyễn thị, con gái của Thái tể Quỳnh Quốc công Nguyễn Mậu Nghị, người ở huyện Lôi Dương. Bà là người đôn hậu, chăm sóc Lê Gia Tông cùng Chiêu Tổ Trịnh Căn hết sức chu đáo từ nhỏ, được kính phong làm Quốc Thái mẫu. Khi Gia Tông băng, đến thăm táng, khóc rất thương tâm như chính mình mất con vậy. Mất ngày 5 tháng 9, thọ 94 tuổi. Tôn lăng ở làng Nguyệt Áng (huyện Lôi Dương).
Thứ thất
- Thái phi Vũ Thị Ngọc Lễ, tên thụy là Từ Tá, người xã Thạch Lỗi (huyện Cẩm Giàng) Hải Dương, con gái ông Hồng Nhân Công. Sinh ra Chiêu Tổ Khang vương Trịnh Căn. Mất ngày 22 tháng 7. Tôn lăng ở sứ Mạnh Sơn.
- Tây vương phi Vũ Thị Ngọc Tấn, người làng La Miên, huyện Quỳnh Côi, trấn Sơn Nam Hạ xưa, nay là thôn La Vân, xã Quỳnh Hồng, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.
- Chiêu nghi Vũ Thị Ngọc Huấn (1604 - 1686), người Minh Cảo, Từ Liêm, con nuôi của Thượng tướng quân, Tham đốc Đồng tri Vũ Tất Phù. Sinh quận chúa Ngọc Cang
- Chiêu Nghi Mai Thị Ngọc Tiến
- Trần Thị Thoi hay Bột, gia tặng Minh Châu công chúa, hiệu là Riệu Ngọc, thụy Đoan Trang, mất ngày 28 tháng 2, táng tại huyện An Sơn, xã Thụy Khuê.
- Chiêu nghi Đặng Thị Cúc (1610 - 1668), thụy Diệu Hộ, người làng Ổi Lỗi, xã Hoa Xá, huyện Gia Phúc (nay là thôn Phương Khê, xã Hồng Hưng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương). Cha là Tả hiệu điểm Văn Xá hầu Đặng Quang Tiến, mẹ là Bùi Thị Tính.
- Nội thị cung tần Lương Thị Ngọc Vinh, hiệu Thái Chân, tên theo Phật là Tĩnh Huệ Tiên Cung Khánh Quang Bồ tát. Bà người xã An Hòa huyện Ý Yên phủ Nghĩa Hưng. Xuất thân trong gia đình có nghề gia truyền ca hát, khi trở thành cung tần của Tây Định vương Trịnh Tạc bà sinh cho Vương một quận chúa.
Con trai
- Mậu quận công Trịnh Đức. Không có con trai nên cho cháu ngoại là Trịnh Ức phụng tự
- Thiệu công Trịnh Úc.
- Thiếu bảo Đường quận công Trịnh Lương. Không có con trai, có con gái lấy Điền quận công Đặng Đình Sinh, do cháu ngoại là Giai Thọ hầu phụng tự.
- Chiêu Tổ Khang Vương Trịnh Căn (1633 - 1709. Mẹ là Thái phi Vũ Thị Ngọc Lễ.
- Lý Trung công gia phong Thái vương Trịnh Đống (? - 1681).
- Điện nghĩa công Trịnh Ốc (? - 1681).
- Đại tư không Phái quận công Trịnh Thâu (? - 1700).
- Đề đốc Diệu quận công Trịnh Ký.
- Thiếu bảo Thiều quận công Trịnh Pháp. Ông thích chơi nghề Giát, thường chế đồ giát vàng, giát bạc để chơi. Thời bấy giờ gọi ông là Thợ giát.
- Quốc lão Tuyên Trung công tiến phong Tuyên Mậu Công Trịnh Quán.
- Liêu Quân công Trịnh Phức phạm tội ác nghịch, con cháu phải cải sang họ mẹ.
- Trà Quân công Trịnh Cầm phạm tội ác nghịch, con cháu phải cải sang họ mẹ.
Con gái
- Trịnh Thị Ngọc Thuyên (1626 - 1707), trưởng nữ. Mẹ là Thái phi Vũ Thị Ngọc Lễ. Là chị cùng mẹ với Khang vương Trịnh Căn. Tôn phong Ôn Cung Đoan Tĩnh Thái trưởng Quận thượng chúa, thụy là Từ Đức. Lấy Yên quận công Đặng Tiến Thự (1631 - 1698).
- Trịnh Thị Ngọc (? - 1648). Mẹ là Thái phi Vũ Thị Ngọc Lễ, chị cùng mẹ với Khang vương Trịnh Căn. Lấy Yên quận công Đặng Tiến Thự. Sau khi bà mất, Chúa lại gả chị bà là bà Ngọc Thuyên cho ông Thự làm Kế thất.
- Trịnh Thị Ngọc Án, mẹ là Chiêu nghi Vũ Thị Ngọc Huấn.
- Trịnh Thị Ngọc Cang, mẹ là Chiêu nghi Vũ Thị Ngọc Huấn.
- Trịnh Thị Ngọc Áng, Hoàng hậu của Lê Hy Tông.
- Trịnh Thị Ngọc Sanh, gả cho Nguyễn Đức Trung