✨Petra

Petra

Petra (tiếng Hy Lạp: πέτρα, có nghĩa là "đá"; tiếng Ả Rập: البتراء Al-Butrā) là một khu vực khảo cổ học ở phía Tây Nam Jordan, nằm trên sườn núi Hor, trong một lòng chảo nằm giữa những ngọn núi tạo nên sườn phía Đông của Arabah (Wadi Araba), một thung lũng lớn chạy từ Biển Chết đến Vịnh Aqaba.

Nó nổi tiếng vì có rất nhiều bức tượng được tạc trên vách đá. Khu vực được che giấu trong một thời gian rất dài này được công bố cho thế giới Tây phương bởi một nhà thám hiểm người Thuỵ Sĩ, Johann Ludwig Burckhardt, vào năm 1812. Nó cũng được công nhận như "một thành phố hoa hồng đỏ với tuổi đời bằng một nửa độ dài của thời gian" trong một bài thơ sonnet đạt giải thưởng Newdigate của John William Burgon. Burgon thực sự chưa đến thăm Petra, nơi mà người Âu Châu chỉ có thể tiếp cận với sự trợ giúp của hướng dẫn viên địa phương và đội hộ tống có vũ trang sau khi Thế Chiến thứ Nhất kết thúc. Khu vực này được công nhận là di sản thế giới của UNESCO năm 1985 và được mô tả là "một trong những tài sản văn hoá quý giá nhất của nhân loại".

Địa lý

nhỏ|Nhìn toàn cảnh nhỏ|Đền lớn của Petra nhỏ|Cánh cổng Hadrian ở con đường chính (cardo maximus) Rekem là tên cổ của Petra và xuất hiện trong Dead Sea scrolls (Những cuộn giấy da tại Biển Chết) thường được kết hợp với Núi Seir. Thêm vào đó, Eusebius và Jerome khẳng định rằng Rekem là tên gốc của Petra, dựa theo lời của Josephus, Pliny Già và các tác giả khác cũng công nhận Petra là thủ phủ của Vương quốc Nabatea của người Nabataea, những người Semite nói tiếng Aramaic, và là trung tâm của nền thương mại trao đổi bằng caravan (những nhóm lữ hành) của họ. Được che giấu bởi các vách đá nhô cao và cung cấp nước bởi một con suối quanh năm không cạn nước, Petra không chỉ có những lợi thế của một pháo đài mà còn kiểm soát các luồng thương mại chủ yếu đi qua nó để đến Gaza ở phía Tây, Bosra và Damascus ở phía Bắc, đến Aqaba và Leuce Come bên bờ Biển Đỏ, và đi qua sa mạc đến vịnh Ba Tư.

Khe núi Siq dẫn vào Petra Các cuộc khai quật đã chứng tỏ có khả năng người Nabataea đã kiểm soát nguồn cung cấp nước dẫn tới sự phát triển của thành phố trên sa mạc, tạo nên một ốc đảo đầy tính nghệ thuật. Khu vực này cũng đã chịu ảnh hưởng bởi các trận lũ quét và các bằng chứng khảo cổ học đã cho thấy cách người Nabataea chống chọi với lũ lụt bằng cách sử dụng các đập, bể chứa và đường ống dẫn nước. Do vậy, nước được tích trữ có thể được sử dụng trong những thời kỳ hạn hán kéo dài, và thành phố đã làm giàu bằng cách bán nước.

Mặc dù dưới thời một thời xa xưa người ta có thể đến Petra từ phía Nam (qua Ả Rập Xê Út trên một tuyến đường vòng qua Jabal Haroun, Núi của Aaron, đi xuyên qua vùng đất Petra), hoặc có thể từ các cao nguyên tới phía Bắc, nhưng phần lớn các du khách hiện đại đến với khu vực cổ kính này qua cửa ngõ phía Đông. Lối vào từ phía Đông phải đi qua một hẻm núi dốc đứng vừa tối vừa hẹp (nhiều nơi chỉ rộng 3–4 m) gọi là hẻm Siq (mũi tên/ngọn giáo/tia chớp/đường thông), một thành tự nhiên được tạo thành bởi một vết nứt sâu trong các phiến đá sa thạch và là cửa ngõ tiến vào Wadi Musa. Cuối đoạn đường này là công trình có giá trị nhất ở Petra, Al Khazneh ("Kho báu"), tạc dựng ngay vào sườn núi.

Cách "Kho báu" một quãng không xa, dưới chân núi en-Nejr là một nhà hát lớn, được đặt tại chỗ mà từ đó có thể nhìn thấy nhiều lăng mộ nhất. Tại nơi mà thung lũng mở vào khu vực đất đai rộng lớn thì thành phố hiện ra với rất nhiều ấn tượng. Trong quá trình xây dựng, đài vòng (amphitheatre) được tạc vào sườn núi và một số lăng mộ. Những đường cắt vuông góc nhau ở chỗ các chỗ ngồi vẫn còn có thể quan sát được. Bao bọc thành phố ở cả ba phía là những bức tường núi màu hồng, được chia thành các cụm bởi những vết nứt sâu, và nối liền với những gò đá cao có dạng của những cái tháp.

Lịch sử

nhỏ|phải|Khe núi Siq nhỏ|phải|Toàn cảnh di tích Petra nhỏ|phải|[[Al Khazneh (Kho báu)]] nhỏ|[[Ad Deir hay là El Deir ("Tu viện")]] Đến giờ, người ta chưa phát hiện được lịch sử của Petra bắt đầu từ khi nào, phỏng đoán là 1550 đến 1292 trước Công Nguyên trong thời triều đại thứ 18 của Ai Cập. Các chứng cứ cho thấy thành phố này được xây dựng tương đối muộn, mặc dù một khu thánh địa có thể đã tồn tại ở nơi này từ thời cổ đại. Khu vực này là nơi sinh sống truyền thống của người Horites, có thể là những người cư trú trong hang động, tổ tiên của người Edomites.Thói quen của những chủ nhân đầu tiên có thể đã ảnh hưởng đến phong tục chôn người chết và tổ chức tế lễ trong những cái hang cụt của người Nabataea. Tuy nhiên, sự việc Petra được nhắc tới bằng tên gọi trong Cựu Ước không thể được chứng thực. Mặc dù Petra thường được biết đến với tên gọi Sela, cũng có nghĩa là đá, nhưng những tham khảo trong kinh Thánh cũng không rõ ràng . Sách Các Vua (2 Kings xiv. 7) có vẻ như cụ thể hơn. Trong đoạn đó, dù vậy, Sela cũng được hiểu đơn giản là "đá" (2 Chr. xxv. 12, xem LXX). Kết quả là, nhiều học giả nghi ngờ rằng liệu có hay không một thành phố có tên là Sela được nhắc đến trong Cựu Ước.

Cũng không rõ cách cư dân Semitic gọi thành phố của họ như thế nào. Có vẻ như trong tài liệu của Josephus (Antiquities of the Jews (phong tục cổ của người Do Thái) iv. 7, 1~ 4, 7), Eusebius và Jerome (Onom. sacr. 286, 71. 145, 9; 228, 55. 287, 94), khẳng định rằng Rekem là tên gốc và Rekem xuất hiện trong Dead Sea scrolls như là một Edom vĩ đại, gần như mô tả về Petra. Nhưng trong các bản viết bằng chữ Aramaic, Rekem là tên gọi của Kadesh, ngụ ý rằng Josephus có thể đã nhầm lẫn giữa hai địa danh. Đôi khi các bản viết Aramaic lại đề cập đến cụm từ Rekem-Geya như là tên của làng El-ji, nằm về phía Tây Nam của Petra. Khu vực thủ phủ, dù vậy, khó có thể được ghi lại bằng tên của một thị trấn gần đó. Tên gọi theo tiếng Semitic của thành phố, nếu không phải là Sela, thì cũng chưa biết là gì. Đoạn trích trong Diodorus Siculus (xix. 94–97) mô tả cuộc viễn chinh mà Antigonus tiến hành chống lại người Nabataea năm 312 TCN được cho là đem lại một chút ánh sáng cho lịch sử của Petra, nhưng "petra" - tượng trưng cho một pháo đài và là một nơi ẩn náu, không thể là một cái tên chính xác và những mô tả ngụ ý rằng thành phố không còn tồn tại nữa. Brünnow cho rằng từ "đá" ám chỉ khu vực núi thiêng en-Nejr (đề cập phía trên). Nhưng Buhl lại cho rằng đó một đỉnh núi cao cách Petra khoảng 16 km về phía Bắc, Shobak, núi Mont-royal của người Crusaders (lính viễn chinh).

Những bằng chứng xác thực hơn về thời điểm sớm nhất người Nabataea định cư ở đây có thể được tìm thấy qua các cuộc khảo sát các lăng mộ. Có hai nhóm khác nhau—nhóm Nabataea và nhóm Greco-Roman (Hy Lạp – La Mã). Nhóm Nabataea bắt đầu từ những mộ tháp đơn giản với một cửa vào có lan can, mô phỏng mặt tiền của một ngôi nhà. Trải qua các giai đoạn khác nhau, dạng mộ Nabataea hoàn thiện đã được đạt tới, giữ lại tất cả những đặc điểm tự nhiên, đồng thời thể hiện những đặc điểm của nghệ thuật Ai Cập và Hy Lạp. Có sự giống nhau với kiến trúc các mộ tháp ở el-I~ejr, phía Bắc khu vực Arập, với những lời đề tặng dài của Nabataea và cho biết niên đại của những thánh địa tương tự ở Petra. Sau đó là kiểu mộ với những mái vòm hình bán nguyệt, một đặc điểm học tập được từ phía Bắc Syria. Cuối cùng là kiểu mặt tiền phức tạp, sao chép lại từ một ngôi đền kiểu La Mã. Tuy nhiên, tất cả những dấu vết của phong cách ban đầu đều đã biến mất. Niên đại của các giai đoạn trong quá trình phát triển không thể xác định chính xác. Thật lạ là rất ít ghi chép, dù ngắn hay dài, được tìm thấy ở Petra, có lẽ là do chúng đã bị ảnh hưởng bởi vữa và xi măng được sử dụng trong rất nhiều công trình kiến trúc. Kiểu mộ tháp đơn giản thuộc về giai đoạn tiền Hellenic được coi là bằng chứng cho thời kỳ sớm nhất. Vẫn chưa biết chính xác người Nabataea định cư ở đây từ khi nào nhưng không thể sau thế kỷ VI TCN quá lâu.

Giai đoạn sau đó với một nền văn minh kết hợp các yếu tố của Hy Lạp, Ai Cập và Syria, thuộc về thời kỳ Ptolemies. Theo sau sự kết thúc vào cuối thế kỷ II của Công Nguyên, khi các vương quốc Ptolemaic và Seleucid sụp đổ, vương quốc của người Nabataea trở nên hùng mạnh. Dưới thời Aretas III Philhellene (85–60 BC), thời của những đồng xu bắt đầu. Nhà hát có thể được xây dựng vào thời điểm này, và Petra chắc hẳn phải có những đặc điểm của một thành phố Hellenistic. Aretas IV Philopatris, (9 BC–AD 40), là thời điểm của những lăng mộ ở núi el-I~ejr [?], và có lẽ là cả đỉnh cao vĩ đại (the great High-place).

Thời cai trị của Đế chế La Mã

Năm 106, khi Cornelius Palma là người cai trị Syri, vùng đất Arập nằm dưới sự quản lý của Petra này bị sáp nhập vào đế chế La Mã như một phần của Arabia Petraea, triều đại phong kiến ở đây chấm dứt sự tồn tại. Nhưng thành phố vẫn tiếp tục phát triển. Một thế kỷ sau, dưới thời Alexander Severus, khi thành phố đạt tới đỉnh cao thịnh vượng, những đồng tiền đúc cũng không còn được sử dụng. Không còn những lăng mộ lộng lẫy, có thể do những tai hoạ bất ngờ, như sự xâm lược của người Persian hiện đại của đế chế Sassanid. Tuy nhiên, khi Palmyra (fl. 130–270) nâng cao được vai trò và thu hút các dòng thương mại của khu vực Arập khỏi Petra, thành phố lại dần suy sụp. Tuy nhiên, nó dường như vẫn còn tiếp tục vai trò của mình như là một trung tâm tôn giáo. Epiphanius của Salamis (c.315–403) viết rằng ở thời của ông, một lễ hội được tổ tức ở đây vào ngày 25 tháng 12 để tưởng niệm mẹ đồng trinh Chaabou và con gái bà là Dushara (Haer. 51).

Tôn giáo

Mặt cắt nhà thờ, thế kỷ thứ V Người Nabataea thờ các vị chúa của người Arập, những nữ thần của thời tiền Hồi giáo và một số vị vua được sùng bái của họ. Người nổi tiếng nhất trong số đó là Obodas I, được phong thần sau khi qua đời. Dushara là vị thần chính cùng với ba ngôi nữ thần Uzza, Allat và Manah. Nhiều bức tượng được tạc vào đá, mô tả các vị nam thần và nữ thần.

Đền Monastery, đền thờ lớn nhất ở Petra, được xây dựng từ thế kỷ thứ nhất trước công nguyên. Nó được dành cho Obodas I và được tin rằng là nơi nghỉ ngơi của thần Obodas. Thông điệp này được tạc trên di tích Monastery (dịch sang tiếng Arập là "Ad-Deir", có nghĩa là "tu viện").

Đạo Cơ đốc xuất hiện tại Petra từ thế kỷ IV của Công Nguyên, gần 500 năm sau khi Petra được thiết lập như một trung tâm thương mại. Athanasius đề cập đến một giáo sĩ của Petra (Anhioch. 10), tên là Asterius. Ít nhất một trong số các ngôi mộ (lăng mộ chứa tro hài cốt) được dùng như một nhà thờ. Một đoạn miêu tả viết bằng sơn đỏ ghi lại những nghi lễ phong thánh "trong thời kỳ của giáo sĩ mộ đạo nhất, Jason" (447). Đạo Cơ đốc ở Petra, cũng như ở phía Bắc vùng đất Arập, đã bị đánh bật bởi sự xâm chiếm của Hồi giáo trong giai đoạn 629–632. Trong suốt cuộc thập tự chinh lần thứ nhất, Petra bị đô hộ bởi Baldwin I của vương quốc Jerusalem and sau đó là sự cai trị của nam tước Al Karak(vùng Oultrejordain), với tên gọi Château de la Valée de Moyse hay Sela. Nó còn nằm dưới quyền lực của người Franks tới tận năm 1189. Theo truyền thống Arập, Petra là nơi Moses ném một viên đá cùng với người hầu của mình và nước bắn lên, và là nơi chị/em gái của Moses, Miriam, được chôn cất.

Thời kỳ suy thoái

Thời kỳ suy thoái của Petra bắt đầu rất nhanh chóng dưới thời kỳ cai trị của đế chế La Mã, phần lớn là do sự chuyển hướng sang những tuyến thương mại trên biển. Năm 363, một trận động đất đã phá huỷ các công trình xây dựng và hệ thống quản lý nước . Sự suy sụp của Petra là một điều bí ẩn vào thời Trung cổ và đã chứng kiến sự thăm viếng của Sultan (vua) Baibars của Ai Cập vào thời điểm cuối thế kỷ XIII. Người châu Âu đầu tiên viết về Petra là Johann Ludwig Burckhardt vào năm 1812.

Petra ngày nay

Ngày 6 tháng 12 năm 1985, Petra được UNESCO liệt vào hàng di sản thế giới.

Năm 2006, một nhóm kiến trúc sư bắt đầu thiết kế một "Trung tâm du lịch", và du lịch Jordan được kỳ vọng sẽ tăng trưởng mạnh mẽ với các chuyến du lịch trọn gói. Thời báo Jordan, trong số tháng 12/2006, viết rằng, 59.000 người đã tới thăm quốc gia này trong hai tháng 10 và 11, giảm 25% so với cùng kỳ năm trước, có thể là do ảnh hưởng của sự bất ổn định về chính trị hoặc sự cân nhắc về an toàn du lịch

Ngày 7 tháng 7 năm 2007, Petra được công nhận là một trong 7 kỳ quan của thế giới hiện đại.

Petra trong phim ảnh và những tác phẩm văn hoá

  • David Lean đã lên kế hoạch làm một bộ phim dài về Lawrence of Arabia (Lawrence vùng Arập) (1962), từ khi T. E. Lawrence phát hiện ra vùng đất này. Do hạn chế về kinh phí, việc sản xuất đã bị hoãn lại trước khi những cảnh quay đầu tiên được bấm máy.
  • Petra được nhắc đến trong phim Indiana Jones and the Last Crusade (Indiana Jones và cuộc thập tự chinh cuối cùng) như một ngôi đền thiêng nơi Chén thánh được cất giữ.
  • Bộ phim độc lập Passion in the Desert (Niềm đam mê trên sa mạc) sử dụng những địa điểm ở Petra cho việc làm phim.[10]
  • Petra là nơi trốn tránh được tiên đoán trước cho The Remnant (Kẻ sống sót) trong series Left Behind (Bỏ lại phía sau).
  • Nhóm nhạc rock Anh quốc The Sisters of Mercy (Những nàng tiên) quay video cho bài "Dominion" (quyền lực/lãnh thổ) ở Petra năm 1988.
  • Tiểu thuyết trinh thám của Agatha Christie, Appointment with Death (Hẹn với tử thần), lấy Petra làm bối cảnh chính.
  • Ha-Sela ha-Adom (The Red Rock – Đá đỏ) là một bài hát nổi tiếng trong thập kỉ 1950 ở Israel, nhắc đến một thói quen rất nguy hiểm của giới trẻ nước này là vượt qua biên giới với Jordani một cách bất hợp pháp để đến thăm Petra. Rất nhiều chuyến phiêu lưu như thế kết thúc với cái chết của những kẻ tham gia.
  • Petra là nhiệm vụ cuối cùng (Eye of the Storm - mắt bão) trong trò chơi năm 2001, Spy Hunter (Kẻ săn lùng điệp viên).
  • Trong cuốn sách Chasing Vermeer (Đuổi bắt Vermeer), một trong những nhân vật chính, Petra Andalee, được đặt tên theo tên của thành phố cổ.
  • Trong một bộ phim hoạt hình năm 1977, "Sinbad and the Eye of the Tiger" (Sinbad và Mắt hổ), Petra được nhớ đến như là nơi ẩn náu của một phù thủy quyền lực.
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Petra** (tiếng Hy Lạp: πέτρα, có nghĩa là "đá"; tiếng Ả Rập: البتراء _Al-Butrā_) là một khu vực khảo cổ học ở phía Tây Nam Jordan, nằm trên sườn núi Hor, trong một lòng chảo
nhỏ|Petra Kelly, 1987. nhỏ|Petra Kelly và [[Otto Schily sau Cuộc tuyển cử liên bang Tây Đức 1983]] **Petra Karin Kelly** (29.11.1947 – 01.10.1992), là một nữ chính trị gia người Đức, và là người góp
- Son dưỡng môi này giúp dưỡng ẩm và làm mềm, đồng thời giúp tạo ra đôi môi mịn màng và đầy đặn hơn. Sử dụng xung quanh môi để làm mịn các nếp nhăn.
**Petra Yolanda Sonia Bockle** (sinh ngày 14 tháng 5 năm 1995) được biết đến với tên chuyên nghiệp là **Petra**, là một rapper, nhạc sĩ và ca sĩ gốc Kenyan và Seychellois. Cô biểu diễn
**Petra Schürmann-Freund** (15 tháng 09 năm 1933 – 14 tháng 01 năm 2010) là một người mẫu của Đức, phát thanh viên, và diễn viên. ## Tiểu sử Schürmann chiến thắng trong cuộc thi Hoa
The **Rock Skolly** (_Thestor petra_) là một loài bướm ngày thuộc họ Bướm xanh. Đây là loài đặc hữu của Nam Phi. Sải cánh dài 22–28 mm đối với con đực và 26–34 mm đối với con
Sultan **Ismail Petra Ibni Al-Marhum Sultan Yahya Petra** (sinh 1949) là một Sultan của Kelantan. từ ngày 30 tháng 3 năm 1979 đến ngày 13 tháng 9 năm 2010. Cha ông là Sultan Yahya Petra
**Petra Cabrera-Badia** là nữ hoàng sắc đẹp đến từ Quần đảo Virgin, người đại diện cho đất nước của cô trong cuộc thi Hoa hậu Thế giới 2013 được tổ chức tại Bali, Indonesia. ##
nhỏ|Chữ ký của Petra Kvitová **Petra Kvitová** (sinh ngày 8 tháng 3 năm 1990) là nữ vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người Cộng hòa Séc, được biết đến là tay vợt thuận tay
**Petra Černocká** (sinh 24 tháng 11 năm 1949) là một nữ diễn viên ca sĩ người Séc. Bà là chị em họ của nam diễn viên Vlastimil Brodský. ## Sự nghiệp âm nhạc ### Đĩa
- Thiết kế quen thuộc của nhà Pixi vẫn lấy màu xanh làm màu chủ đạo, thỏi son cầm chắc tay không lo rơi vỡ mà còn nhỏ gọn tiện lợi mang theo bên mình.
- Thiết kế quen thuộc của nhà Pixi vẫn lấy màu xanh làm màu chủ đạo, thỏi son cầm chắc tay không lo rơi vỡ mà còn nhỏ gọn tiện lợi mang theo bên mình.
- Vitamin-C bổ sung dưỡng chất làm mờ vết thâm và hoàn thiện làn da để mang lại làn da rạng rỡ, mịn màng. - Sử dụng một mình hoặc làm lớp lót trước khi
- Một sản phẩm tẩy da chết môi đa năng giúp xử lý, hoàn thiện để có một đôi môi siêu mịn. - Tẩy tế bào chết + dưỡng môi 2 trong 1 này giúp
- Chất gel mỏng nhẹ và thẩm thấu nhanh, dung dịch này giúp giảm thiểu mẩn đỏ, sưng tấy và nổi mụn trên mặt. Giảm vết thâm. - Không thử nghiệm trên động vật. Chỉ
**Petra** là một đô thị trên đảo Mallorca, thuộc quần đảo Baleares, Tây Ban Nha.
**Sân bay Sultan Ismail Petra** là một sân bay phục vụ Kota Bharu ở Malaysia. Được mở cửa tháng 9 năm 2002, sân nhà ga mới rộng 12.000 m² có 3 chỗ đỗ máy bay,
**3492 Petra-Pepi** là một tiểu hành tinh vành đai chính với chu kỳ quỹ đạo là 1544.0253745 ngày (4.23 năm). Nó được phát hiện ngày 16 tháng 2 năm 1985.
**Petra Němcová** (sinh 24 tháng 6 năm 1979 ở Karviná, Tiệp Khắc, nay là Cộng hòa Séc) là một người mẫu thời trang người Séc, người giới thiệu chương trình, tác giả, và người làm
**_Epania petra_** là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae.
**Vasile Mihai Petra** (sinh ngày 12 tháng 1 năm 1994) là một cầu thủ bóng đá người România thi đấu ở vị trí tiền vệ cho UTA Arad.
Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha được quan tâm ở Petra. |}
Combo Agatha Christie Hẹn Với Thần Chết và Kỳ Án Dòng Chữ Tắt Tặng Kèm Sổ Tay Xương Rồng Bản đặc biệt tặng kèm sổ tay xương rồng, mẫu ngẫu nhiên 1 trong 4 mẫu
Hẹn Với Thần Chết Đi nghỉ ở Jerusalem, Poirot nghe lỏm Raymond Boynton nói với em gái Phải giết chết bà ta, hiểu rồi phải không Mẹ kế của họ, bà Boynton, là một bạo
Đi nghỉ ở Jerusalem, Poirot nghe lỏm Raymond Boynton nói với em gái Phải giết chết bà ta, hiểu rồi phải không Mẹ kế của họ, bà Boynton, là một bạo chúa tàn ác khống
**Đền Pashupatinath** () là một tổ hợp đền thờ Hindu giáo linh thiêng và nổi tiếng nằm trên bờ sông Bagmati cách 5 kilômét về phía đông bắc của thủ đô Kathmandu, một phần phía
**Minecraft: Story Mode** là một trò chơi điện tử phiêu lưu trỏ và nhấp được xuất bản bởi Telltale Games, dựa trên trò chơi thế giới mở Minecraft. Trò chơi gồm năm tập, được phát
**Muhammad V** (trước đây gọi là **Tengku Muhammad Faris Petra**; sinh ngày 6 tháng 10 năm 1969) là Yang di-Pertuan Agong (quốc vương) của Malaysia và là Sultan của bang Kelantan. Ông được tuyên bố
**_Leh Lub Salub Rarng_** (, tiếng Việt: _Sự hoán đổi diệu kỳ_) là bộ phim truyền hình Thái Lan phát sóng năm 2017 với sự tham gia của Nadech Kugimiya và Urassaya Sperbund. Phim phát
**Elina Mykhaylivna Svitolina** (, ; sinh ngày 12 tháng 9 năm 1994) là một vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người Ukraina. Lên chuyên nghiệp vào năm 2010, cô có thứ hạng đánh đơn
**Thánh Phêrô** hay **Thánh Peter** (Tiếng Hy Lạp: _Πέτρος_, _Pétros_ "Đá", **Kêpha** (**Cephas**), **Phi-e-rơ**, hoặc thỉnh thoảng là **Simôn con ông Giôna**; Tiếng Anh: **Saint Peter**) là tông đồ trưởng trong số mười hai Tông
**_Trăm năm cô đơn_** () là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của nhà văn người Colombia Gabriel Garcia Marquez. Tác phẩm được nhà xuất bản Sudamericana xuất bản lần đầu bằng tiếng Tây Ban
**Kuching** (chữ Jawi: ; ), gọi chính thức là **Thành phố Kuching**, là thủ phủ và thành phố đông dân nhất của bang Sarawak tại Malaysia. Đây cũng là thủ phủ của tỉnh Kuching. Thành
**Garbiñe Muguruza Blanco** (, sinh ngày 8 tháng 10 năm 1993 tại Caracas, Venezuela) là một nữ vận động viên quần vợt người Tây Ban Nha. Tính tới thời điểm hiện tại, cô đã có
**Vương quốc Nabatea** (; còn đọc thành _Nabataea_), là một quốc gia Ả Rập của người Nabataea tồn tại trong thời kỳ cổ đại và bị Đế quốc La Mã sáp nhập vào năm 106
**Western & Southern Open 2022** là một giải quần vợt nam và nữ thi đấu trên mặt sân cứng diễn ra từ ngày 15–21 tháng 8 năm 2022, là một phần của US Open Series.
**Angelique Kerber** (sinh ngày 18 tháng 1 năm 1988) là một vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người Đức. Vào tháng 9 năm 2016, Kerber lần đầu tiên vươn lên vị trí số 1
**Agnieszka Roma "Aga" Radwańska** là 1 cựu vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người Ba Lan. Radwańska đạt thứ hạng cao nhất là số 2 thế giới vào tháng 7 năm 2012. Được biết
**Jeļena Ostapenko** (sinh ngày 8 tháng 6 năm 1997), hay tên khác là **Aļona Ostapenko**, là một vận động viên quần vợt người Latvia. Cô đạt thứ hạng cao nhất trên bảng xếp hạng WTA
Bảy kỳ quan thế giới mới, từ trên xuống, trái sang:
[[Khu di tích Chichén Itzá|Chichén Itzá - Tượng Chúa Cứu Thế
Vạn Lý Trường Thành - Machu Picchu
Petra - Taj Mahal
Đấu trường La Mã
]] **Bảy kỳ
**Aqaba** (, ) là thành phố ven biển duy nhất của Jordan và là thành phố lớn và đông dân nhất ven vịnh Aqaba. Với vị trí ở cực nam Jordan, Aqaba là trung tâm
**_Gunslinger Girl_** là loạt manga do Aida Yu thực hiện. Tác phẩm được đăng lần đầu tiên trên tạp chí dành cho shōnen là Dengeki Daioh vào tháng 11 năm 2002. Các chương được ASCII
**_Dancing with the Stars_** đã trở lại ở mùa giải thứ 12 và ngày 3 tháng 1 năm 2016. Carrie Ann Inaba, Bruno Tonioli, và Len Goodman tiếp tục với vai trò giám khảo, còn
**Laura Robson** (sinh ngày 21 tháng 1 năm 1994) là một vận động viên quần vợt người Anh. Cô chính thức bắt đầu thi đấu trong hệ thống giải trẻ của Liên đoàn quần vợt
**Saba Youakim** (1914 - 2003) là một Giám mục người Li Băng của Giáo hội Công giáo Greek-Melkites, trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma. Ông nguyên là Tổng giám mục chính tòa Tổng giáo
**Giải quần vợt Úc Mở rộng 2019** là một giải đấu quần vợt Grand Slam sẽ được diễn ra tại sân Melbourne Park từ ngày 14 đến ngày 27 tháng 1 năm 2019. Đây sẽ
**Cuộc thi Ca khúc Truyền hình châu Âu 2024** (hay còn được gọi là **Eurovision Song Contest 2024**) là cuộc thi Ca khúc truyền hình châu Âu lần thứ 68. Cuộc thi diễn ra tại
**Eastbourne International 2023** (còn được biết đến với **Rothesay International Eastbourne** vì lý do tài trợ) là một giải quần vợt nam và nữ thi đấu trên mặt sân cỏ ngoài trời. Đây là lần
Serena Williams đánh bại Agnieszka Radwańska trong trận chung kết, 6–1, 5–7, 6–2 để giành chức vô địch Đơn nữ tại Giải quần vợt Wimbledon 2012. Petra Kvitová là đương kim vô địch, tuy nhiên
**Giải quần vợt Úc Mở rộng 2021** là một giải quần vợt Grand Slam được diễn ra tại Melbourne Park, từ ngày 8–21 tháng 2 năm 2021. Đây là lần thứ 109 Giải quần vợt