Tôn Thất Hiệp (chữ Hán: 尊室協; 1653-1675) là một hoàng tử, con của chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần. Ông từng là Nguyên soái thống lĩnh quân Đàng Trong đánh nhau với quân Trịnh vào năm 1673, về sau xuất gia, làm sư trụ trì chùa Minh Thiện thuộc dinh Thái Khang, nước Đại Việt (nay là Việt Nam).
Thân thế và sự nghiệp
Ông tên thật là Nguyễn Phúc Thuần (阮福淳), còn có tên là Chiểu, con thứ tư của chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần. Mẹ là bà phi Châu Thị Viên. Chưa biết ông sinh tại đâu, chỉ biết khi vừa trai tráng, ông được cử giữ chức Chưởng cơ tước Hiệp Đức hầu, nên còn được người đời gọi là công tử Hiệp Đức.
Đến thời Minh Mạng, do xét kỵ húy chúa Định vương (Duệ Tông) Nguyễn Phúc Thuần, đồng thời có lệ cải họ Tôn Thất cho các hậu duệ tông thất thuộc chi thứ, tên ông được sử quan chép lại thành Tôn Thất Hiệp (尊室協).
Là Nguyên soái
Sau khi đánh dẹp được nhà Mạc ở Cao Bằng (1667), tháng 6 dương lịch năm 1672, chúa Trịnh Tạc cử con là Trịnh Căn làm Nguyên súy cai quản thủy quân và Lê Thời Hiến (hay Lê Hiến) làm Thống suất bộ binh, đem 10 vạn quân (nhưng phao tin là 18 vạn hay hơn nữa) vào đánh chúa Nguyễn. Ngoài ra, chúa Trịnh Tạc còn hộ giá vua Lê Gia Tông khi ấy mới 12 tuổi, theo sau tiếp ứng. Khi nghe viên Trấn thủ Nam Bố Chính cấp báo, chúa Hiền liền họp triều thần chọn Nguyên soái để chỉ huy quân đội chống lại. Các tướng đồng đề nghị công tử Hiệp Đức, vì cho rằng tuy ông còn trẻ, chưa đầy 20 tuổi, chưa từng ra trận lần nào, nhưng là người có trí dũng, đáng được giao trọng trách ấy. Chúa Hiền chấp thuận, đồng thời cử thêm Vệ úy Mai Phúc Lãnh và Ký lục Võ Phi Thừa theo giúp việc cho con.
Vào khoảng tháng 9-10 (dương lịch) năm 1672 (Nhâm Tý), quân Trịnh đến Nam Bố Chính. Sau ba tháng dài dò xét, hăm dọa, tố cáo chúa Nguyễn không phục tùng nhà Lê; vương tử Trịnh Căn thử tấn công vào lũy Đồng Hới, rồi đưa đoàn chiến thuyền đến sông Gianh và sông Nhật Lệ để chờ đổ bộ. Biết tình thế ấy, công tử Hiệp Đức cho đắp thêm lũy Trấn Ninh, bố trí thêm súng thần công và cấp báo với chúa Hiền.
Tháng 1 (dương lịch) 1673, Lê Thời Hiến xua quân tấn công lũy Trấn Ninh nhưng bị thua khiến Trịnh Tạc nổi giận, nghiêm phạt các quan quân bại trận. Được tăng cường thêm lính, Lê Thời Hiến mở cuộc tấn công thứ hai rất mãnh liệt... Chỉ trong vòng một ngày chiến đấu, lũy Trấn Ninh bị phá nhiều chỗ và đôi bên đã giằng co, chiếm qua chiếm lại từng khu vực một.
Nao lòng, tướng chúa Nguyễn tên Trương Phúc Cang (hay Cương) toan bỏ lũy, qua cố thủ bên này sông Lê Kỳ nhưng công tử Hiệp Đức không đồng ý, và nói: "một khi quân ta rút lui, tất địch thừa thế lấn vào, vậy phải hết sức cố giữ, tôi tất đến cứu".
Sau đó, công tử Hiệp Đức liền sai quân phi ngựa đến lũy Sa Kỳ, truyền cho lão tướng Nguyễn Hữu Dật phải tức tốc qua lũy Trấn Ninh cứu khổn. Nhận lệnh ấy, theo nhà văn Sơn Nam, thì Nguyễn Hữu Dật đã lạnh lùng trả lời rằng: "Ta chỉ lo gìn giữ lũy Sa Phụ nầy mà thôi. Ngay từ hồi đầu chiến trận, ta không được ai chia sớt trách nhiệm nào ở lũy Trấn Ninh cả. Ta không dám đi!". Câu trả lời trong giây phút bất mãn, nhưng sau đó Nguyễn Hữu Dật liền hối hận...
Nhà văn Sơn Nam kể tiếp:
:Nguyễn Hữu Dật chạy nhanh lên lũy Sa Phụ, đứng quan sát thực tế của chiến trận. Bên kia sông, súng thần công nổ vang rền, khói bốc mịt trời che lấp lũy Trấn Ninh. Chắc chắn Lê Thời Hiến chiếm ưu thắng và tướng sĩ Đàng Trong đang đại bại ở ngay mặt trận chánh. Ông dư hiểu: "Nếu mình không đi cứu viện thì công tử (Hiệp Đức) phải đi cứu viện, và liệu vị nguyên soái quá trẻ tuổi, thiếu kinh nghiệm ấy có đủ sức ứng phó?"
:Nghĩ vậy, Hữu Dật tức tốc lên yên, kéo quân đến Trấn Ninh, dọc đường, ông cẩn thận vạt vỏ viết vào thân cây mấy chữ tóm tắt: "Hữu Dật đã qua cứu viện lũy Trấn Ninh, xin công tử (Hiệp Đức) đến giữ lũy Sa Phụ đang bỏ trống". Đọc tin ấy, công tử Hiệp Đức qua giữ lũy Sa Phụ và rồi đánh tan được đội thuyền tuần tiễu trên sông Nhật Lệ của Tham đốc Thắng.
:Ở mặt trận Trấn Ninh, khi lão tướng đến được nơi ấy thì trời đã tối đen như mực. Trước cảnh binh sĩ lớp chết, lớp bị thương, số còn lại chiến đấu gần như tuyệt vọng, ông ra lệnh gom nhánh cây, cỏ khô, đốt lên sáng rực. Biết có viện binh đến, quân Trịnh không dám tiến. Suốt đêm, Hữu Dật đốc suất quân sĩ tích cực sửa chữa chiến lũy, nhưng trời vừa rạng sáng, Lê Thời Hiến lại tấn công. Quân sĩ Đàng Trong chống trả quyết liệt, cho nên con số bị thương và thương vong của cả hai phía đều tăng lên từng ngày. Lại gặp lúc gíó bấc thổi mạnh, mưa phùn lê thê, lạnh lẽo hơn bao giờ hết, chúa Trịnh Tạc tự xét thấy không thể thắng nổi, nên cho rút quân về....
Sử gia Trần Trọng Kim cho biết thêm:
:Đến tháng Chạp, trời mưa rét và lại nghe tin rằng Trịnh Căn đi đến Linh Giang (tức sông Gianh) phải bệnh nặng, Trịnh Tạc bèn sai Lê Hiến ở lại trấn thủ Nghệ An, Lê Sĩ Triệt làm Đô Đốc đóng ở Hà Trung để giữ các nơi yếu lộ, lấy sông Linh Giang mà phân giới hạn Nam Bắc, rồi rút quân về Thăng Long
Làm lễ cầu siêu cho các tướng sĩ Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài chết trận, thả tù binh xong; tháng 4 dương lịch 1673, công tử Hiệp Đức về đến Thạch Xá. Chúa Hiền mừng rỡ, khen ngợi, ban thưởng nhiều vàng bạc. Nhận thưởng, nhưng sau đó công tử Hiệp Đức từ bỏ gia đình, quyết chí xuất gia, tuy mới 20 tuổi. Sách ''Đại Nam nhất thống chí', chép:
:...Chúa thượng nghe tin thắng trận, thưởng cho 100 lạng vàng, 100 lạng bạc và 50 tấm gấm. Sau khi đem quân về, Hiệp bỏ hết nữ sắc, dựng am nhỏ thờ Phật, giảng bàn nghĩa lý huyền vi"''...
Viên tịch
Ông hoàng Hiệp liễu đạo năm 22 tuổi, vào ngày rằm tháng 6 năm Ất Mão, an táng ở làng Hiền Sĩ, thuộc huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên, có lẽ không lưu lại một bút tích, một bài thơ truyền khẩu nào. Nhưng hậu thế tưởng còn nhận được hình bóng bất diệt của ông qua nụ cười phảng phất trên môi của các tượng Bồ Tát trong chùa, giữa tiếng kệ kinh....
Sách Lịch sử Phật giáo Đàng Trong cho biết thêm:
:Theo tài liệu của chùa Minh Thiện ở núi Bút Sơn, làng Thanh Tuyền, phía Tây dinh Thái Khang (sau chùa dời về ở xã Diên Lạc, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa) thì chính Tôn Thất Hiệp, là Tổ khai sơn chùa Minh Thiện và khi ấy ông có pháp danh là Giác Sanh Thiền Hòa Tử.
:Sau thời gian hoằng hóa ở chùa này, ngày rằm tháng 6 năm Ất Mão (ngày 6 tháng 8 năm 1675), nhà sư Giác Sanh Thiền Hòa Tử viên tịch, được chúa Hiền ban thụy hiệu là Tịnh Đức Phổ Chiếu Hòa thượng.
Thông tin thêm
Theo Gia phả Nguyễn Phước tộc, thì Tôn Thất Hiệp mất vì bệnh đậu mùa. Thương tiếc, chúa Hiền phong tặng ông là: "Minh Nghĩa Tuyên Đức, Công Thần, Khai Phủ Quốc Thượng tướng Quân, Cẩm Y Vệ, Đô Đốc Phủ Sự, Thiếu úy Hiệp Quận Công", thụy là Toàn Tiết. Nhà thờ ở Làng Vân Thê (Thừa Thiên), mộ táng trong khuôn viên nhà thờ.
Năm Gia Long thứ 4 (1805), ông được liệt vào hàng thượng đẳng công thần khai quốc, được thờ phụ ở Tả Vu nhà Thái Miếu (Huế). Đến năm Minh Mạng (1823) thứ 4 được tấn phong là Thành Quốc công.
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tôn Thất Hiệp** (chữ Hán: 尊室協; 1653-1675) là một hoàng tử, con của chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần. Ông từng là Nguyên soái thống lĩnh quân Đàng Trong đánh nhau với quân Trịnh vào năm
**Tôn Thất Hiệp** còn có tên là **Tôn Thất Cáp** (尊室鉿, 01 tháng 01, 1809– 12 tháng 04, 1862), là một đại thần nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự
**Tôn Thất Hiệp** (chữ Hán: 尊室洽; ? - ?) là con trai thứ 7 của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Sinh thời, ông được phong tước **Văn quận công** (文郡公), từng giữ chức Chưởng cơ của
**Tôn Thất Thuyết** (chữ Hán: 尊室説; 1839 – 1913), biểu tự **Đàm Phu** (談夫), là quan phụ chính đại thần, nhiếp chính dưới triều Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc và Hàm Nghi của triều
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1771–1785)** là giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Cuộc chiến tranh này bắt đầu khi các lực lượng nổi dậy của 3
**Tôn Thất** (chữ Hán: 尊室, chữ _Tôn_ đáng ra phải là _Tông_ [宗] (trong tổ tông), nhưng do kỵ tên huý vua Thiệu Trị nên đổi là _Tôn_) vốn là danh hiệu đặt cho nam
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1787–1802)** là giai đoạn thứ hai của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Giai đoạn này bắt đầu khi Nguyễn Ánh trở về tái chiếm Gia
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn** là một phần của nội chiến ở Đại Việt thời gian nửa cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19. Đây là cuộc chiến diễn ra chủ
**Tôn Thất Trạch** (chữ Hán: 尊室澤; ? - ?) là con trai thứ 8 của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Sinh thời, ông được phong tước **Hữu quận công** (右郡公), từng giữ chức Chưởng cơ của
**Tôn Thất Xứng** (1923 – 2018) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên ở trường Võ bị
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Tôn Thất Đàn** (1871 - 1936) (Hán Nôm: 尊室檀), tự **Hinh Nhi** (馨兒), hiệu **Lạc Viên Thị** (樂園氏), là danh thần triều Nguyễn Việt Nam, Hình bộ Thượng thư thời Bảo Đại. ## Tiểu sử
**Tôn Thất Hân** (尊室訢; 10 tháng 5 năm 1854 – 3 tháng 9 năm 1944), tự **Lạc Chi** (樂之), hiệu **Liên Đình** (蓮亭), là quan chức triều Nguyễn Việt Nam, Phụ chính Đại thần thời
Giáo sư **Tôn thất Trình** (sinh ở huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế ngày 27/9/1931 – mất ngày 12/7/2021 tại Hoa Kỳ) thuộc hoàng tộc nhà Nguyễn Phước (Phúc theo tiếng Bắc). Ông nội
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Nguyễn Phúc Nguyên** (chữ Hán: 阮福源; 16 tháng 8 năm 1563 – 19 tháng 11 năm 1635) hay **Nguyễn Hy Tông**, **Nguyễn Tuyên Tổ,** là vị chúa Nguyễn thứ hai của chính quyền Đàng Trong
right|thumb|Tượng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh trong đình Bình Kính, [[Hiệp Hòa, Biên Hòa|xã Hiệp Hòa, Biên Hòa]] **Nguyễn Hữu Cảnh** (chữ Hán: 阮有鏡, 1650 – 1700), nguyên danh là **Nguyễn Hữu Kính**, với
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Nguyễn Nhạc** (chữ Hán: 阮岳; 1743 – 1793) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Nhạc**, là vị hoàng đế sáng lập ra Nhà Tây Sơn và ở ngôi hoàng đế từ năm 1778 đến năm
**Nguyễn Phúc Dương** (chữ Hán: 阮福暘; 1759? - 1777), hiệu **Tân Chính vương**, là nhà cai trị thứ 10 của chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong vào thời kỳ Lê trung hưng trong lịch
**Nguyễn Trí Phương** (1800-1873) là một đại danh thần Việt Nam thời nhà Nguyễn. Ông là vị Tổng chỉ huy quân đội triều đình Nguyễn chống lại quân Pháp xâm lược lần lượt ở các
**Nguyễn Trung Trực** (chữ Hán: 阮忠直; 1838 – 1868) là thủ lĩnh phong trào khởi nghĩa chống Pháp vào cuối thế kỷ 19 ở Nam Bộ Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp ###
**Nguyễn Lữ** (chữ Hán: 阮侶; 1754–1787) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Lữ** (chữ Hán: 阮文侶) là một chính trị gia và nhà quân sự Việt Nam ở thế kỷ 18. Ông là 1 trong
**Nguyễn Phúc Khoát** (chữ Hán: 阮福濶), hay **Nguyễn Thế Tông**, húy là **Hiểu** (chữ Hán: 曉), còn gọi là **Chúa Võ**, hiệu **Vũ vương** hay **Võ vương** (1714–1765) là vị chúa Nguyễn thứ 8 của
**Nguyễn Phúc Trung** (chữ Hán: 阮福忠), sau gọi là **Tôn Thất Trung**, là một vị tướng dưới thời Trịnh - Nguyễn phân tranh trong lịch sử Việt Nam. Ông nổi tiếng vì vụ bê bối
**Nguyễn Công Nhàn** (chữ Hán: 阮公閒, ?-1867) là danh tướng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông là người tỉnh Phú Yên Năm 1861, quân Pháp tấn công Định Tường, Nguyễn Công Nhàn bị
**Nguyễn Hữu Chỉnh** (, 1741 - 15 tháng 1 năm 1788), biệt hiệu **Quận Bằng** (鵬郡), là nhà quân sự, chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê trung hưng và Tây
**Nguyễn Đăng Giai** (阮登楷 hay 阮登階, ? - 1854) tự **Toản Phu**; là danh thần nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp Ông là người làng Phù Chánh, huyện
**Nguyễn Hữu Độ** (阮有度, 4/1833 – 18/12/1888) tự **Hi Bùi** (希裴), hiệu **Tông Khê** (宋溪), là một đại thần đời vua Đồng Khánh, từng giữ chức Kinh lược Bắc Kỳ, Tổng đốc Hà–Ninh. Ông là
**Nguyễn Thiện Thuật** (1844-1926), tên tự là **Mạnh Hiếu**, còn gọi là **Tán Thuật** (do từng giữ chức Tán tương), lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, một trong các cuộc khởi nghĩa của phong
**Nguyễn Nghiễm** (阮儼, 14 tháng 4 năm 1708 – 7 tháng 1 năm 1776) là quan chức, sử gia, nhà thơ thời nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông có công ổn
**Lăng Hiệp Hòa** là lăng mộ của vua Hiệp Hòa, hoàng đế thứ 6 của triều Nguyễn. Lăng nằm cách Kinh thành Huế 7 km về phía Tây Nam, tọa lạc ở khu vực đồi thông
**Lê Văn Phú** (?-1854), hiệu: **Lễ Trai**; là một danh thần trải bốn triều vua là Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Lê Văn
**Hiệp định Genève 1954** (tiếng Việt: **Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954**) là hiệp định đình chiến được ký kết tại thành phố Genève, Thụy Sĩ nhằm khôi phục hòa bình ở Đông Dương. Hiệp định
**Mạc Thiên Tứ** (chữ Hán: 鄚天賜, , sinh ngày 12 tháng 12, 1699 hoặc 16 tháng 12, 1705 hoặc 1 tháng 1, 1718, mất ngày 18 tháng 6, 1780), tự là **Sĩ Lân** (士麟, ),
**Hiệp Hòa** (chữ Hán: 協和; 1 tháng 11 năm 1847 – 29 tháng 11 năm 1883), húy là **Nguyễn Phúc Hồng Dật** (阮福洪佚), sau khi lên ngôi đổi thành **Nguyễn Phúc Thăng** (阮福昇), là vị
phải|2 bộ Mãng Bào và mũ Kim Quan làm triều phục của công hầu thời Nguyễn, Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Hà Nội. Trong suốt hơn 140 năm tồn tại (1802-1945) với 13 đời
**Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland**, còn được biết đến với tên gọi **Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Bắc Ireland** hoặc **Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland** (), hay
**Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland** hoặc **Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Ireland** () là quốc gia được thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1801 khi Vương quốc Đại Anh và
**Anh Duệ Hoàng thái tử** (chữ Hán: 英睿皇太子, 6 tháng 4 năm 1780 - 20 tháng 3 năm 1801), tên thật là **Nguyễn Phúc Cảnh** (阮福景), tục gọi là **Hoàng tử Cảnh** (皇子景), **Đông cung
**Nguyễn Văn Tường** (chữ Hán: 阮文祥; 1824–1886), là đại thần phụ chính của nhà Nguyễn. ## Tên họ và thi cử Ông xuất thân từ một gia đình lao động nghèo thuộc làng An Cư,
thumb|Mỹ Lương Công chúa, húy là [[Nguyễn Phúc Tốn Tùy|Tốn Tùy - chị gái Vua Thành Thái, và hai nữ hầu.]] **Hậu cung nhà Nguyễn** là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Hiệp ước München**, hoặc **Hiệp ước Munich** là một thỏa thuận được ký kết tại Munich vào ngày 30 tháng 9 năm 1938, giữa Đức Quốc xã, Anh quốc, Cộng hòa Pháp và Phát xít
Trang cuối văn bản Hiệp ước không xâm phạm Đức – Xô ngày 26 tháng 8 năm 1939 (chụp bản xuất bản công khai năm 1946) **Hiệp ước Xô – Đức**, còn được gọi là
nhỏ|phải|Chữ thập của dòng Đền Các **Chiến hữu Nghèo của Chúa Kitô và Đền Solomon** (tiếng Latinh: _paupers commilitones Christi Templique Solomonici_), thường được gọi tắt là **Hiệp sĩ dòng Thánh**, **Hiệp sĩ dòng Đền**
**Hiệp sĩ của Đức tin** là một cá nhân đã đặt trọn niềm tin vào bản thân mình và Chúa trời, và có thể hành động một cách tự do và độc lập so với
**Hiệp định đình chiến Compiègne** (, ) được ký vào ngày 11 tháng 11 năm 1918 trong một khu rừng gần thành phố Compiègne, thuộc vùng Picardy của Pháp. Hiệp định này đánh dấu sự
**Hiệp định Paris về Việt Nam** (hay **hiệp định Paris 1973**, **Hiệp định Ba Lê**) là hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam do 4 bên tham chiến: Hoa
**Lịch sử của thuyết tương đối hẹp** bao gồm rất nhiều kết quả lý thuyết và thực nghiệm do nhiều nhà bác học khám phá như Albert Abraham Michelson, Hendrik Lorentz, Henri Poincaré và nhiều
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi